Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học xhh lứa tuổi phân tích, nghiên cứu “người cao tuổi ở miền trung và nam bộ việt nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.55 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: XÃ HỘI HỌC LỨA TUỔI

Đề tài:
PHÂN TÍCH, NGHIÊN CỨU “NGƯỜI CAO TUỔI Ở MIỀN TRUNG
VÀ NAM BỘ VIỆT NAM NĂM 2000- PHÁC THẢO TỪ MỘT SỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH”


MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và
đặc biệt là của y tế, tuổi thọ của con người ngày càng được nâng lên đáng kể,
nhóm những người cao tuổi ngày càng đông đảo trong cơ cấu dân cư đặc biệt
là ở các nước phát triển trên thế giới như: Thụy Sỹ, Thụy Điển, Nhật Bản,…
Nhóm người cao tuổi ở Việt Nam là một nhóm xã hội có số lượng khơng nhỏ,
họ là những người có nhiều đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng đất nước, hiện nay vẫn giữ vai trò quan trọng trong xã hội và giữa lớp
cháu con.
Theo điều tra dân số giữa kỳ năm 2013 của Tổng cục Thống kê (TCTK,
2013) cho thấy tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam (NCT - là những người từ 60
tuổi trở) đã ở mức 10,5% tổng dân số. Chỉ số già hóa (được tính bằng tỷ số
giữa dân số cao tuổi với dân số trẻ em) tăng nhanh từ 35,5 năm 2009 lên 43,5
năm 2013. Xu hướng biến động dân số sang giai đoạn dân số “già” (dân số từ
65 tuổi trở lên chiếm 14% tổng dân số) trong điều kiện kinh tế mới chỉ ở mức
trung bình thấp đang và sẽ đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho Việt Nam.
Những năm gần đây ở nước ta có một vài cơ quan Nhà nước và các đơn
vị nghiên cứu tiến hành thực hiện một số đề tài nghiên cứu khoa học về nhóm
người cao tuổi, như Bộ LĐ- TBXH, Viện Xã Hội Học, Trung tâm nghiên cứu
dân số,…Những cơng trình nghiên cứu đã góp phần khái quát về đời sống
người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
Trong đó nghiên cứu xã hội học “ Người cao tuổi ở miền Trung và Nam Bộ


Việt Nam năm 2000- Phác thảo từ một số kết quả nghiên cứu định tính” của
tác giả Bế Quỳnh Nga là nghiên cứu tiếp tục của dự án “ Nghiên cứu định
lượng về người cao tuổi ở Đồng bằng sông Hồng năm 1996”. Nghiên cứu này
nhằm tìm hiều sâu hơn các vấn đề của người cao tuổi trong giai đoạn hiện
nay, đặc biệt là vấn đề lao động của người cao tuổi - Đây là một trong những
mối quan tâm của cộng đồng.
1


NỘI DUNG
1. Giải thuyết nghiên cứu và biến số tương ứng
1.1. Giả thuyết nghiên cứu
Trong bài viết tác giả đã đưa ra những giả thuyết sơ bộ sau:
+ Số lượng người cao tuổi ngày càng tăng, do tác động của 2 yếu tố:
tuổi thọ bình quân tăng cùng tiến bộ của y học và tăng trưởng kinh tế.
+ Dù ở nông thôn hay thành thị người cao tuổi vẫn tham gia lao động
nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình con cái. Tuy nhiên tỉ lệ người cao tuổi
khơng tham gia hoạt động kinh tế ở thành thị cao hơn nông thôn.
+ Số giờ lao động của người cao tuổi khơng kém người một lao động
bình thường, thậm chí như một lao động chính trong gia đình.
+ Có sự khác biệt giữa người cao tuổi ở các vùng miền: miền Bắc, miền
Trung, miền Nam về quan hệ gia đình, sắp xếp gia đình, và tham gia các tổ
chức xã hội của người cao tuổi.
+ Người cao tuổi có uy tín xã hội cao, là người giải quyết các mâu
thuẫn trong cộng đồng dân cứ địa phương.
1.2. Biến số tương ứng:
1.2.1. Biến số độc lập
Các yếu tố nhân khẩu học:
+ Giới tính
+ Tuổi (Những người trên 60 tuổi )

+ Dân tộc, tơn giáo
+ Trình độ học vấn
+ Tình trạng hơn nhân (đã kết hơn, góa, ly dị, ly thân, chưa kết hơn lần
nào)
+ Tình trạng sức khỏe
+ Khu vực (nơng thơn / thành thị)
+ Văn hóa vùng miền( miền Bắc- Trung- Nam)
2


+ Sống chung/ riêng với con cái
+ Có lương hưu/ khơng có lương hưu
+ Số giờ lao động.
+ Nhóm xã hội ( nghèo/ không nghèo)
1.2.2. Biến can thiệp
+ An sinh xã hội cho người cao tuổi ở địa phương, bảo hiểm y tế, các
dịch vụ y tế
1.2.3. Biến phụ thuộc
+ Tham gia lực lượng lao động
+ Không tham gia lực lượng lao động.
2. Những loại hình cơng việc người cao tuổi thường tham gia
Theo kết quả một số cuộc điều tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội thì có tới 70% số người cao tuổi trong độ tuổi từ 60 – 70 còn phải lao
động để kiếm sống, trong đó có tới 38% cịn phải đóng vai trị chính trong
kinh tế gia đình ( Phạm Kiên Cường, 1998). Số liệu điều tra về điều kiện sống
của người cao tuổi do Bộ LĐ- TBXH cho biết chi tiết: 44,89% người cao tuổi
còn tham gia hoạt động kinh tế. Trong đó, các cụ thuộc nhóm tuổi 60- 69 là
44,93%, nhóm tuổi 70- 4 là 43,26%, nhóm tuổi trên 74 tuổi trở lên vẫn chiếm
tỉ lệ cao là 25,94% các cụ tham gia hoạt động kinh tế. Tại các cuộc phỏng vấn
sâu ở cả ba miền Bắc- Trung- Nam cũng khẳng định người cao tuổi vẫn tiếp

tục làm việc, lao động để tăng thu nhập, thậm chí trong một số trường hợp là
để kiếm sống.
Phần lớn người cao tuổi tham gia sản xuất nơng, lâm, ngư nghiệp (trên
60%), tiếp đó là tự làm việc kinh doanh hoặc dịch vụ cho hộ gia đình. Trong
gia đình, người cao tuổi góp phần tạo ra thu nhập cho gia đình, hỗ trợ con
cháu bằng các hình thức khác nhau (tṛc tiếp lao động sản xuất, cấp vốn,
truyền thụ kinh nghiệm...) trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, công nghiệp
chế biến, chế tạo; dịch vụ lưu trú ăn uống,.. Ngồi ra, người cao tuổi cịn tham
gia các hoạt động giúp đỡ con cháu trong công việc gia đình như quét dọn nhà
3


cửa, nấu cơm, giặt giũ quần áo, trông nom chăm sóc và dạy dỗ, giáo dục con
cháu, làm gương sáng cho con cháu noi theo,..
Bên cạnh đó tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của người cao tuổi ở nông
thôn cao hơn nhiều so với người cao tuổi ở thành thị , giữa các vùng, sự khác
biệt không được thể hiện rõ nét nhưng nhìn chung người cao tuổi ở những
vùng có điều kiện kinh tế-xã hội thuận lợi hơn có tỷ lệ tham gia hoạt động
kinh tế thấp hơn vùng có điều kiện kinh tếxã hội kém thuận lợi hơn (ví dụ ở
miền Trung có tỉ lệ người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế cao hơn miền
Bắc và miền Nam do ở miền Trung có điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế
xã hội kém hơn 2 miền cịn lại).
Có thể thấy thời gian lao động kiếm sống của người cao tuổi không
kém thời gian của một số lao động bình thường. Trong cuộc phỏng vấn một
người cao tuổi ông cho biết đa số người già ở địa phương ơng đều phải làm
việc trung bình là 10 tiếng chứ không phải 8 tiếng một ngày. Đặc biệt là
cường độ lao động ở nông thôn rất căng thẳng. Ở lứa tuổi trẻ hơn ( 50 trở lên)
người cao tuổi vẫn còn phải làm việc nặng, thậm chí là một lao động chính
trong gia đình. Khơng quan tâm tuổi tác miễn có sức khỏe là làm tất, từ những
công việc tay chân như làm thuê, làm mướn, đồng áng, làm vườn đến những

cơng việc gia đình phụ giúp con cái như dọn dẹp nhà của hay trông nom cháu
chắt,…
3. Những yếu tố ảnh hưởng/ tác động đến lao động của người cao
tuổi
Bài viết này, phân tích các yếu tố nhân khẩu học và yếu tố thuộc đặc
điểm hộ gia đình tác động đến lao động của người cao tuổi: giới tính, tuổi,
trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, sức khỏe tự đánh giá, khu vực (thành
thị, nơng thơn), nhóm xã hội (hộ nghèo, khơng nghèo).
Cũng trong nghiên cứu “Nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia vào thị
trường lao động của người cao tuổi Việt Nam” của 2 tác giả Nguyễn Thị

4


Hồng Điệp , Nguyễn Thị Hường đã chỉ ra các yếu tố tác động đến lao động
của người cao tuổi thuộc về nhóm nhân khẩu học

Nguồn: sử dụng số liệu VNAS 2011.

Bảng trên cho thấy có sư khác nhau giữa tỉ lệ tham gia lao động của các
cụ ông và các cụ bà. Nam giới ở độ tuổi 60 - 69 tham gia thị trường lao động
chiếm 65,97% của tổng số nam tuổi 60 - 69, trong khi nữ chỉ chiếm 54,27%,
với mức ý nghĩa thống kê 10%, tỷ lệ nữ tham gia lao động thấp hơn so với
nam 11,7%. Ở nhóm tuổi 70 - 79, tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động của
cả nam và nữ đều giảm hơn so với nhóm tuổi trẻ hơn, tỷ lệ NCT nữ tham gia
thấp hơn nam 6,91%. Ở nhóm tuổi cao nhất tỷ lệ tham gia làm việc của cả
nam và nữ đều thấp hơn nhiều so với các nhóm tuổi khác, nam chiếm 9,48%,
nữ chiếm 11,2%, tuy nhiên, tỷ lệ của nữ lại cao hơn nam 1,72%. Ở nhóm tuổi
càng cao tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động của NCT càng giảm điều này
có thể giải thích đơn giản là do sự suy giảm về sức khỏe.


5


Theo tình trạng hơn nhân, cũng với mức ý nghĩa thống kê 1%, tỷ lệ
tham gia vào thị trường lao động của NCT đã kết hôn của cả nam và nữ đều
cao (nam: 47,84%; nữ: 40,88%), tỷ lệ nam vẫn cao hơn nữ (6,96%). Khác với
nhóm đã kết hơn, nhóm NCT đã góa bụa, lị dị, ly thân hoặc chưa từng kết
hôn, tỷ lệ nữ tham gia và thị trường lao động cao hơn nhiều so với nam giới,
sự chệnh lệch tƣơng ứng cho hai nhóm đối trường (11,32% và 46,67%), sở dĩ
có sự chênh lệch lớn nhƣ vậy có thể do những ngƣời nữ nhóm này khơng
nhận được sự hỗ trợ từ đối tượng khác là chồng hoặc con.
Về tình trạng sức khỏe tự đánh giá, đối với những NCT đi làm báo cáo
có sức khỏe tốt chiếm tỷ lệ không cao (nam: 6,5%; nữ: 3,6%). Với mức ý
nghĩa thống kê 1%, tỷ lệ tham gia lao động của nam cao tuổi có sức khỏe tốt
hơn nữ 2,9%. Nhóm NCT có sức khỏe bình thƣờng, nam tham gia lao động
chiếm 34,3%; nữ chiếm 28,4% so với nhóm của họ. Nhóm có sức khỏe yếu,
tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động lại cao hơn nam và nhóm này chiếm tỷ
lệ cao: nam chiếm 59,2% so với tổng nam giới cao tuổi; nữ chiếm 67,9% so
với tổng NCT là nữ. Có sự chênh lệch tỷ lệ nữ cao hơn nam, điều này là do
nhóm NCT tham gia vào thị trường lao động đƣợc hỏi là nghèo và cận nghèo,
nhóm này thường bị hạn chế về việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt nữ giới. Sự
chênh lệch tỷ lệ nam giới cao tuổi và nữ giới cao tuổi tham gia vào thị trường
lao động cả nông thôn và thành thị đều không đáng kể về mặt thống kê. Cụ
thể khu vực nông thôn tỷ lệ chênh lệch (6,79%) và thành thị (8,17%). Xem
xét sự tham gia vào thị trường lao động của NCT theo đặc điểm hộ gia đình
nghèo hay khơng nghèo cho thấy: nam giới thuộc nhóm hộ gia đình khơng
nghèo tham gia cao hơn (45,89%) trong khi đó thuộc hộ nghèo chiếm
34,58%. Điều đó khẳng định, làm việc đem lại nguồn thu nhập chính cho hộ
gia đình ở khu vực thành thị. Ngược lại đối với nhóm NCT nữ: NCT thuộc hộ

nghèo tham gia thị trƣờng lao động nhiều hơn, chiếm 47,6% và hộ không
nghèo chiếm 34,21%. Đây có thể đƣợc lý giải phụ nữ tham gia vào làm việc
với những cơng việc có thu nhập thấp hoặc phi thu nhập, nên khơng có đóng
6


góp đáng kể cho thu nhập của hộ gia đình. Sự khác nhau giữa hai giới tính
được ước lượng với mức ý nghĩa thống kê 1%.
4. Mơ hình sắp xếp gia đình phổ biến nào dành cho người cao tuổi
hiện nay
Về sắp xếp cuộc sống gia đình: theo nghiên cứu của UNFPA (2011)
cho thấy, tỷ lệ NCT sống với con cái vẫn cao nhưng có xu hướng giảm từ gần
80% vào đầu những năm 1990 xuống còn gần 60% vào năm 2010. Đặc biệt,
tỷ lệ NCT sống cơ đơn có xu hướng tăng (từ 3,47% vào năm 1993 lên 7,1%
năm 2010); tỷ lệ hộ gia đình chỉ có hai vợ chồng NCT tăng lên hơn hai lần (từ
9,5% vào năm 1993 lên gần 25% vào năm 2010) và tỷ lệ hộ gia đình “khuyết
thế hệ” (chỉ có ơng bà cao tuổi sống với cháu là trẻ em) dù chƣa cao nhưng
cũng đã tăng lên hai lần (từ 0,68% vào năm 1993 lên gần 1,6% vào năm
2010).
Kết quả của dự án nghiên cứu định lượng về “ Người cao tuổi ở đồng
băng sơng Hồng, năm 1996” cho thấy: có tới 19,4% người cao tuổi đang sống
một mình hoặc chỉ sống riêng 2 vợ chồng già với nhau, 73.6% người cao tuổi
sống cùng con cái. Trong đó tỷ lệ người già sống chung với con trai đã kết
hôn ( 50,5%) lớn gấp 8 lần tỷ lệ người cao tuổi sống chung với con gái đã kế
hôn (6,2%).
Như vậy, hiện tại đang tồn tại các mơ hình sắp xếp đời sống gia đình cơ
bản ở người cao tuổi như sau:
+ Sống chung với gia đình một người con trai
+ Sống riêng hai ơng bà già, thậm chí sống riêng một mình
+ Sống chung với gia đình một người con trai, nhưng ăn riêng

+ Sống chung với con gái có hoặc chưa có gia đình
Tác giả phân tích dựa trên sư khác biệt về văn hóa giữa các vùng miền,
cụ thế miền Bắc và miền Trung người già có thiên hướng sống với con trai,
rõ nét nhất là ở địa bàn nông thôn. Do con trai là con của mình, sẽ lo việc thờ
cúng và nối dõi dòng giống sau này, còn con gái là “ con người ta” phải lo
7


cho nhà chồng không thể lo cho cha mẹ được. Bên cạnh mơ hình sống với
con trai thì ở miền Nam xuất hiện nhiều trường hợp người cao tuổi sống với
con gái do con gái thương bố mẹ nhiều hơn, chu cấp, thăm nom nhiều hơn. Ở
miền Nam đa số là con rể lại hay nhờ bên vợ nhiều hơn, ngồi ra con gái sống
tình cảm và hợp với tâm lý tuổi già. Đã có sự thay đổi trong quan niệm sống
chung với con trai hay con gái, thường người cao tuổi vẫn xác định sống với
con trai để sau này họ còn thờ cúng, nhưng trên thực tế nhiều người cao tuổi
lại nhận lại sự giúp đỡ của người con giá nhiều hơn.
Ở miền Tây Nam Bộ, nơi các yếu tố truyền thống đã phai nhạt dần,
người cao tuổi có xu hướng sống chung với người con gái út. Do người cao
tuổi cho rằng con gái lo lắng đầy đủ hơn, sống với con gái để con gái phụ
giúp các cơng việc trong gia đình, xác định sống với con gái đến cuối đời và
chuyển giao việc thờ cúng cho con cái. Tỷ lệ người cao tuổi sống chung với
con gái đã có gia đình ở vùng đồng bằng Nam Bộ cao hơn hiều so với đồng
bằng sông Hồng, nguyên nhân của sự khác biệt này là do quan miện truyền
thống coi trọng địn hướng đằng nội ở người cao tuổi vùng Nam Bộ có phần ít
nặng nề hơn so với Bắc Bộ
Quan hệ gia đình ở miền Tây Nam Bộ có phần lỏng lẻo hơn ở Bắc và
Trung Bộ. Người cao tuổi ở miền Nam phải lao động cật lực để kiếm sống
nhưng họ tự do hơn, cưới vợ gả chồng cho con xong coi như hoàn thành trách
nhiệm, họ tự làm việc để kiếm sống. Theo phong tục khi con cái đã trưởng
thành thì đa số họ sống riêng và ăn riêng, nếu con cái quan tâm thì chu cấp

chút ít cho bố mẹ, nên họ khơng bị ràng buộc vào con cái, họ có thể đi chơi,
đi tham quan và tham gia các tổ chức xã hội dành cho người già nếu thích.
Mơ hình người cao tuổi sống riêng hai vợ chồng phần lớn do họ có
lương hưu hoặc cuộc sống khá giả, muốn sống riêng để được tự do hơn. Mặt
khác do lối sống, điều kiện ăn ở giữa hai thế hệ già và trẻ có sự khác biệt. Các
cụ có tuổi thích sống n tĩnh nhưng lớp trẻ lại thích sống ồn ào, bạn bè,…
Do cách sống của hai thế hệ khác nhau và do điều kiện nhà ở chật chội nên
8


các cụ mong muốn sống tách riêng khỏi con cái. Một nguyên nhân khác là do
khi tách hộ, cha mẹ muốn con cái tự lập làm ăn không ỷ lại, biết lo lắng cho
cuộc sống gia đình nhỏ của mình, mong muốn con cái trưởng thành, biết tính
tốn làm ăn và tưn quyết định các cơng việc gia đình, đây cũng là sự tập dượt
để các con làm chủ một gia đình.
Mơ hình sống chung trong một mái nhà nhưng ăn riêng, mơ hình này
thực chất là sư đan xen giữa hai mơ hình : người già “ sống chung, ăn chung”
và “ sống riêng, ăn riêng” với gia đình con cháu. Có khá nhiền người cao tuổi
đang lựa chọn mơ hình sắp xếp này, đây là một giải pháp khá hữu hiệu để tạo
ra “ một khoảng tự do tương đối” giữa các thành viên trong gia đình, góp
phần làm giảm sư khác biệt thế hệ, giảm những mâu thuẫn gia đình và giảm
tình trạng quá phụ thuộc lẫn nhau giữa người cao tuổi và con cái. Đồng thời,
nó vấn đáp ứng được những nhu cầu cơ bản trong đời sống của người cao tuổi
như” sự trợ giúp lẫn nhau về kinh tế, chăm sóc sức khỏe, tham gia hoạt động
giao tiếp xã hội, văn hóa, đời sống tinh thần và tình cảm.
Hiện nay xu hướng sống riêng khơng những là mong muốn của người
cao tuổi mà còn là nguyện vọng của con cái muốn được tự do hơn. Chỉ trường
hợp gia đình nào có nhà của rộng rãi, cưới xong cha mẹ giao nhà cho thì họ
mới phải sống chung cùng ơng bà. Có những gia đình vợ chồng con cái đi làm
cả ngày nếu sống cùng ông bà có thể giúp đỡ trơng nom nhà cửa nhưng những

người con dâu vẫn không muốn.
5. Xu hướng về dịch vụ chăm sóc người già ở Việt Nam
Hiện nay có hai hình thức dịch vụ chủ yếu là dịch vụ chăm sóc người
cao tuổi tại các trung tâm bảo trợ xã hội và dịch vụ chăm sóc y tế theo thẻ
BHYT miễn phí. Để thúc đẩy các tổ chức tư nhân lập cơ sở để chăm sóc các
đối tượng yếu thế, trong đó có người cao tuổi, Chính phủ đã ban hành các văn
bản quan trọng như Pháp lệnh về người tàn tật và Nghị định 55/1999/NĐ-CP
ngày 10/7/1999 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh này cùng
một số các văn bản pháp luật khác như Thông tư 13/2000/TT-BLĐTBXH
9


ngày 12/5/2000 và Thông tư 17/2002/TTBLĐTBXH ngày 1/4/2002 của Ban
Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) về hướng dẫn thực hiện chế độ
phụ cấp đối với nhân viên được giao nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp chăm
sóc người tàn tật nặng, trong đó có người cao tuổi, trong các cơ sở nuôi dưỡng
của nhà nước; Nghị định số 25/2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành Quy
chế thành lập và hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội; Nghị định số
68/2008/NĐ-CP quy định về các điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt
động và giải thể… các cơ sở bảo trợ xã hội.
Ngồi ra, nhiều chính sách khác cũng được ban hành nhằm khuyến
khích sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức tôn giáo… tham gia chăm sóc người cao tuổi, tàn tật tại các cơ sở
ni dưỡng của nhà nước. Chính sách và quy định trực tiếp về các dịch vụ
chăm sóc cho người cao tuổi được thể hiện qua Pháp lệnh Người cao tuổi (sau
này là Luật Người cao tuổi) cùng Nghị định 30/2002/NĐ-CP ngày 26/3/2002
của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều về chăm sóc
người cao tuổi trong Pháp lệnh; Nghị định 07/2000/ NĐ-CP ngày 9/3/2000 về
chính sách cứu trợ xã hội cho các nhóm dễ tổn thương, trong đó có người cao
tuổi. Đặc biệt, NĐ 67 (năm 2007) hay NĐ 13 (năm 2010) như đã nêu trên là

văn bản pháp luật thể hiện rõ quy định về chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt là
người cao tuổi tàn tật, sống cô đơn.
Một trong những dịch vụ chăm sóc NCT đầu tiên được Việt Nam quan
tâm và hướng đến là phát triển dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa
bệnh cho NCT, trong đó trọng tâm là thành lập các bệnh viện lão khoa, khoa
lão khoa. Theo đó, Bộ Y tế đã lập kế hoạch tổng thể tăng cường năng lực của
hệ thống Lão khoa tại các địa phương trong cả nước, hướng tới chăm sóc tồn
diện cho người bệnh là NCT tại bệnh viện. Theo số liệu thống kê, hiện cả
nước có 1 Bệnh viện Lão khoa Trung ương và 100 khoa lão khoa được thành
lập tại bệnh viện đa khoa của 49/63 tỉnh, thành phố và các bệnh viện tuyến
Trung ương với gần 1.800 nhân viên y tế được đào tạo về lão khoa; hơn 900
10


khoa khám bệnh có buồng, bàn khám riêng và có trên 8.000 giường điều
trị ưu tiên cho NCT. Đáng chú ý là việc xây dựng bệnh viện lão khoa tại
các địa phương bắt đầu được triển khai, giúp NCT hạn chế việc phải chuyển
tuyến điều trị, giảm quá tải cho Bệnh viện Lão khoa Trung  ương, từ đó giảm
gánh nặng cho người bệnh và gia đình. Điển hình là vào tháng 8/2019 vừa
qua, Quảng Ninh là địa phương đi đầu cả nước khởi công xây dựng Bệnh viện
Lão khoa với quy mô 200 giường bệnh, tổng mức đầu tư 429 tỷ đồng, thời
gian triển khai trong 2 năm (2019-2020). Dự án được đầu tư đồng bộ cơ sở hạ
tầng, cây xanh theo hướng thân thiện với mơi trường, đảm bảo khí hậu
và điều kiện chăm sóc tốt nhất cho người bệnh.
Bên cạnh việc phát triển loại hình, chất lượng dịch vụ y tế thì phát triển
bảo hiểm y tế đang được xem là một điểm tưa vững chắc cho NCT chăm lo
sức khỏe của mình khi họ phải đối mặt với tình trạng bệnh tật gia tăng trong
khi chi phí khám chữa bệnh là một gánh nặng. Theo thống kê, năm 2016
cơ quan BHXH cấp thẻ BHYT cho 8,8 triệu NCT; năm 2017 là 9,8 triệu
người và năm 2018 là trên 11 triệu người (chưa bao gồm đối tượng NCT là

thân nhân quân nhân do BHXH Bộ Quốc phòng cấp thẻ BHYT). Hiện
NCT đang chiếm trên 11% trong tổng số đối tượng tham gia BHYT. Chính
phủ cũng đã có quy định người trên 80 tuổi sẽ được hỗ trợ mua BHYT. Để
tạo điều kiện dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ khám, chữa bệnh BHYT cho
nhóm đối tượng này, các địa phương phấn đấu đến hết năm 2019 sẽ đạt 100%
NCT có thẻ BHYT, tiến tới nâng cao chất lượng khám sức khỏe định kỳ,
ban đầu cho NCT.
Một mơ hình khác trong chăm sóc NCT được phát triển ở Việt Nam
trong những năm gần đây là nhà/ viện dưỡng lão. Mơ hình này khá mới mẻ
và được phân thành 3 nhóm sau: Nhóm thứ nhất là các cơ sở do các cá nhân,
doanh nghiệp đứng ra tổ chức, xây dựng, vận hành theo mơ hình kinh doanh
dịch vụ chăm  sóc sức khỏe, có lợi nhuận để tự duy trì hoạt động. Một số viện
dưỡng lão thuộc nhóm này có thể kể đến  là: Trung tâm dưỡng lão Thiên
11


Phúc, Orihome, Nhà tuổi vàng, Trung tâm Phù Đổng, Trung tâm
dưỡng lão Diên Hồng… Đây là những địa chỉ có cơ sở hạ tầng, khn viên
thuận tiện cho người già sinh hoạt, nhân viên chăm có được tập huấn, đào tạo
bài bản. Nhóm thứ hai là các cơ sở dưỡng lão từ thiện do các các nhân hoặc tổ
chức tôn giáo (nhà chùa, giáo hội) đứng ra tổ chức, hoạt động theo mơ hình
thiện nguyện, kinh phí hoạt động do sự đóng góp của các doanh nghiệp, cá
nhân hảo tâm. Nhóm thứ ba là các cơ sở chăm sóc, điều dưỡng người có cơng,
NCT thuộc diện chính sách do nhà nước đứng ra bảo trợ.
Bên cạnh mơ hình viện dưỡng lão tập trung hiện nay, ngành y cũng sẽ
quan tâm hơn cho việc nghiên cứu phát triển mơ hình viện dưỡng lão bán trú
(theo ngày) dành cho những NCT giống như nhiều quốc gia trên thế giới. Với
mơ hình này, NCT khơng bị tách rời khỏi gia đình, đời sống tinh thần thoải mái
bởi họ sẽ được tham gia nhiều hình thức giải trí phù hợp như chơi cờ, bóng bàn,
thể dục dưỡng sinh, tham gia câu lạc bộ thơ… song vẫn được sống cùng người

thân.
 Trong khi nguồn ngân sách nhà nước dành cho cơng tác chăm sóc sức
khỏe, đời sống NCT cịn hạn hẹp thì việc xã hội hóa, vận động tư nhân thành
lập trung tâm dưỡng lão, tham gia chuỗi dịch vụ chăm sóc NCT cũng là xu
hướng tất yếu và được đẩy mạnh.
Cùng

với

việc

phát

triển

các

cơ sở

dưỡng

lão,

các địa

phương đang đồng thời đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc người già tại
cộng đồng. Điển hình như tại TP. Hồ Chí Minh, từ năm 2016, Trung tâm
Cơng tác xã hội Thanh niên của thành phố đã phối hợp cùng 3 trung tâm bảo
trợ xã hội tổ chức cung cấp dịch vụ xã hội như tổ chức giao lưu văn hóa, dạy
tập thể dục dưỡng sinh cho NCT…

Mặc khác, mơ hình bác sĩ gia đình cũng chỉ mới phát triển mạnh tại hai
thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh do người dân chưa hiểu và chưa tin,
nguồn nhân lực có chun mơn về y học gia đình cịn thiếu, chưa đáp
ứng được nhu cầu. Bên cạnh đó, cơ sở thực hành cho chuyên ngành Y học
12


gia đình chưa được xây dựng nên việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và quản lý
sức khỏe cho người dân chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, chưa có mẫu hồ
sơ bệnh án phù hợp với mơ hình và phần mềm quản lý thơng tin bệnh nhân
của phịng khám bác sĩ gia đình.
Mặc dù vấn đề phát triển các dịch vụ chăm sóc NCT đã được quan tâm
trong thời gian qua song thực tế cũng cho thấy lĩnh vực này còn nhiều khoảng
trống. Trước hết, số lượng bệnh viện chuyên về lão khoa trên cả nước so với
tỷ lệ NCT đang rất thiếu. Hiện nay, cả nước chỉ có một bệnh viện đầu ngành
chăm sóc cho NCT là Bệnh viện Lão khoa trung ương cịn tại các địa phương,
chỉ khoảng 20% các bệnh viện tỉnh có khoa lão khoa, chủ yếu tập trung ở tỉnh
có dân số đơng. Bên cạnh đó, tại các khoa lão khoa thuộc bệnh viện địa
phương, hệ thống y tế chăm sóc riêng cho NCT hiện chưa đồng bộ ở các
tuyến, trang thiết bị còn thiếu; đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo chuyên
sâu để điều trị và chăm sóc cho NCT cịn mỏng, chủ yếu là hoạt động ghép
với các chuyên khoa khác như: Thận, tim mạch, nội… Việc thiếu các chuyên
khoa lão khoa và đội ngũ cán bộ y tế ở cơ sở đã phần nào ảnh hướng đến cơng
tác chăm sóc sức khỏe cho NCT nước ta.
Thêm vào đó, nhu cầu vào viện dưỡng lão, trung tâm chăm sóc NCT
hiện rất lớn trong khi mạng lưới hệ thống dưỡng lão ở Việt Nam thiếu và yếu.
Theo Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), hiện cả
nước có 102 cơ sở tổng hợp có phân khu chăm sóc NCT, trong đó chỉ có 32
cơ sở chuyên biệt chăm sóc người già trên cả nước và các viện dưỡng lão này
phần lớn thuộc khu vực tư nhân. Tức là khơng đủ trung bình mỗi tỉnh thành

một trung tâm. Các cơ sở chăm sóc NCT cũng chủ yếu tập trung ở 2 thành
phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và mức phí dịch vụ cịn khá cao. Cịn
tại các địa phương, các trung tâm bảo trợ xã hội cũng dành một phần
hoạt động để ni dưỡng, chăm sóc người già, tuy nhiên đối tượng chỉ là các
cụ neo đơn, khó khăn, khơng nơi nương tựa. Hơn nữa, đội ngũ chăm sóc NCT

13


tại nhiều cơ sở nhà/viện dưỡng lão chưa chuyên nghiệp, không được đào tạo
bài bản.
Ngoài ra, đối với các cơ sở nhà/viện dưỡng lão do các cá nhân, doanh
nghiệp đứng ra tổ chức, xây dựng đều gặp khó khăn nhất định do các chính
sách hỗ trợ của nhà nước chưa đầy đủ và triệt để, việc thuế đất cũng như hỗ
trợ vay vốn cịn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, các cơ sở dưỡng lão từ
thiện có cơ sở vật chất thường khơng được khang trang, diện tích nhỏ, chủ
yếu ni dưỡng những NCT cơ đơn, khơng có người thân thích, lang thang,
cơ nhỡ… Cịn tại các cơ sở chăm sóc, điều người người có cơng, NCT thuộc
diện chính sách do nhà nước đứng ra bảo trợ chủ yếu chăm sóc, điều dưỡng
luân phiên mà khơng nhận ni dưỡng suốt đời và số lượng các cơ sở cịn ít.
Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT,
một trong những nhiệm vụ đầu tiên ngành y Việt Nam đặt ra là sẽ tập trung
nâng cao năng lực của hệ thống y tế về chăm sóc NCT. Cụ thể là đưa lão khoa
vào danh mục ưu tiên, triển khai quyết liệt việc thành lập khoa lão khoa tại
các bệnh viện, tổ chức phịng khám cho NCT. Bên cạnh đó là tăng cường
và đa dạng hóa dịch vụ chăm sóc NCT như: Phát triển hệ thống nhà dưỡng
lão, đặc biệt là nhà dưỡng lão có chăm sóc y tế; Khu chung cư dành cho
người già; Mở thêm trung tâm cung cấp dịch vụ xã hội cho NCT
Hy vọng với với những nỗ lực trên, các dịch vụ chăm sóc NCT tại Việt
Nam sẽ ngày càng phát triển, giúp nâng cao chất lượng dân số và giảm gánh

nặng cho ngành y tế nước ta.

14


KẾT LUẬN
Những phân tích trên đây cho thấy, già hóa dân số đang tạo ra những
sức ép lớn về chính sách đối với Việt Nam trong việc thích ứng với những
yêu cầu đảm bảo cuộc sống có sức khỏe, tinh thần và thu nhập cho người cao
tuổi. Nói cách khác, nếu không chuẩn bị một cách chu đáo các chiến lược,
chính sách kinh tế và xã hội để thích nghi với dân số ngày càng già, Việt Nam
có thể phải chịu những gánh nặng trong việc hỗ trợ, đảm bảo đời sống vật
chất và tinh thần và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi - nhóm dân số
đang và sẽ tăng nhanh nhất trong tất cả các nhóm dân số.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo “Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng,
dự báo và một số khuyến nghị chính sách” của Quỹ Dân số Liên hợp quốc
(UNFPA)
2. “Vai trò của người cao tuổi trong xã hội việt nam - một số vấn đề
còn quan tâm hiện nay” của tác giả Bùi Nghĩa- tạp chí kinh tế kĩ thuật.
3. Tạp chí khoa học, trường đại học hồng đức - số đặc biệt 11. 2015 42
“ Nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia vào thị trƣờng lao động của ngƣời cao
tuổi Việt Nam” Nguyễn Thị Hồng Điệp , Nguyễn Thị Hƣờng.
4. Tạp chí xã hội học số 1 (2001) Người cai tuổi và sư sắp xếp cuộc
sống gia đình hiện nay- tác động của những yếu tố kinh tế- xã hội, văn hóa
của tác giả Dương Chí Thiện.

5. Những vấn đề cần đặt ra về người cao tuổi và hệ thống an ninh xã
hội - Tương Lai- Tạp chí xhh số 2- 1992
6. Tài liệu Dịch vụ xã hội trợ giúp cho người cao tuổi hiện nay (qua
khảo sát tại thành phố hà nội)
7. An sinh xã hội cho người cao tuổi: Thực trạng & Giải pháp
8. Phát triển dịch vụ chăm sóc người cao tuổi trong xu thế xã hội
già hóa

16


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................0
NỘI DUNG.......................................................................................................2
1. Giải thuyết nghiên cứu và biến số tương ứng...............................................2
1.1. Giả thuyết nghiên cứu................................................................................2
1.2. Biến số tương ứng:.....................................................................................2
2. Những loại hình cơng việc người cao tuổi thường tham gia.........................3
3. Những yếu tố ảnh hưởng/ tác động đến lao động của người cao tuổi..........4
4. Mơ hình sắp xếp gia đình phổ biến nào dành cho người cao tuổi hiện nay
...........................................................................................................................7
5. Xu hướng về dịch vụ chăm sóc người già ở Việt Nam..................................9
KẾT LUẬN.....................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................16

17




×