Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Quan điểm của triết học mác lênin về con người và bản chất con người liên hệ vấn đề này với việc xây dựng con người mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.05 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

Nợi dung
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................................1
2. Mục tiêu....................................................................................................................... 1
3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................1
5. Kết cấu của đề tài........................................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU...........................................3
1.1. Khái niệm về con người............................................................................................3
1.2. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác..................................................3
1.2.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông......................................3
1.2.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác........................4
1.3. Quan điểm của triết học mác - lênin về bản chất con người.....................................6
1.3.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội............6
1.3.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội................................................................................................................................ 7
1.3.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử................................................8
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................................................................10
2.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam trong
đại hội XIII.................................................................................................................... 10


2.2. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc xây dựng con người mới ở Việt Nam
hiện nay.........................................................................................................................12
2.2.1. Thực trạng xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay..........12
2.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam
hiện nay......................................................................................................................14


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................................17
3.1. Giải pháp trong việc xây dựng và phát triển con người mới ở việt nam hiện nay...17
3.1.1. Phương hướng xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay....17
3.1.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển con người mới ở Việt
Nam hiện nay.............................................................................................................18
3.2. Liên hệ đối với bản thân.........................................................................................20
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................23


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau
xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Các Mác, vấn đề bản
chất con người chưa được giải đáp một cách khoa học. Khi hình thành quan niệm duy vật
về lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên
lịch sử của con người. Bằng sự phát triển tồn diện thì con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực phát triển lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển thì khả
năng chiếm lĩnh và sử dụng các lực lượng tự nhiên ngày càng cao, con người tạo ra ngày
càng nhiều cơ sở vật chất cho bản thân mình, đồng thời từ đó thúc đẩy con người tự hồn
thiện chính bản thân họ. Đặc biệt khi xã hội lồi người phát triển đến trình độ nền kinh tế
tri thức thì vai trị của con người đặt biệt quan trọng, vì con người tạo ra tri thức mới,
chứa dựng những tri thức mới.
Ở nước ta, từ đại hội Đảng lần thứ III đến nay Đảng ta luôn xác định cơng nghiệp
hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ q độ. Muốn thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc
hậu, nâng cao đời sống nhân dân ... thì khơng cịn con đường nào khác là phải đẩy mạnh
q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa. Để làm được như vậy thì một vấn đề cần được
đặt lên hàng đầu đó là vấn đề phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao kỹ thuật, cơng nghệ,
và trong đó đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực.

Khi nghiên cứu về con người, có rất nhiều vấn đề liên quan, tuy nhiên trong khuôn
khổ bài viết này chỉ đề cập tới một khía cạnh đó là: “Quan điểm của triết học Mác Lênin
về con người và bản chất con người. Liên hệ vấn đề này với việc xây dựng con người mới
ở Việt Nam hiện nay”
2. Mục tiêu
Qua việc phân tích lý luận của Mác- Lenin về con người và bản chất của con người
để từ Liên hệ vấn đề này với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu

1


Tiểu luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; các
phương pháp lịch sử và lơgic, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê... cũng
được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, cũng như các phần phụ lục khác, kết cấu đề
tài gồm 3 chương.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về con người
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người như
một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con người là
sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật
sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người.

1.2. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác.
1.2.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông.
Từ thời kỳ cổ đại, các trường phái triết học đều tìm cách lý giải vấn đề bản chất
con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh.
Các trường phái triết học - tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận
thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận.
Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần).
Đời sống con người trên trần thế chỉ là ảo giác, hư vơ. Vì vậy, cuộc đời con người khi còn
sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi
tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt .
Như vậy, dù bị chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc nhị nguyên, suy đến cùng,
con người theo quan niệm của các học thuyết tôn giáo phương Đông đều phản ánh sai lầm
về bản chất con người, hướng tới thế giới quan thần linh. Trong triết học phương Đông,
với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác, biểu hiện trong tư tưởng
Nho giáo, Lão giáo, quan niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong phú.
Khổng Tử cho bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân”chính
là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử quy tính thiện của
con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục tập quán xấu mà con
người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thơng qua tu dưỡng, rèn luện để
giữ được đạo đức của mình. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân
ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp.
3


Triết học Tuân Tử lại cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể
cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được.
Trong triết học phương Đơng, cịn có quan niệm duy tâm cho rằng trời và con
người cịn có thể hoà hợp với nhau (thiên nhân hợp nhất). Đổng Trọng Thư, một người kế
thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm rằng trời và con người có
thể thơng hiểu lẫn nhau (thiên nhân cảm ứng). Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm,

quy cuộc đời con người vào vai trò quyết định của “thiên mệnh”.
Lão Tử, người mở đầu cho trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra từ
“Đạo”. Do vậy, con người phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phát, khơng hành
động một cách giả tạo, gị ép, trái với tự nhiên. Quan niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm
chủ quan của triết học Đạo gia.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đơng
biểu hiện tính da dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính
trị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học phương Đơng biểu hiện yếu tố duy
tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và
xã hội.
1.2.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác
Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau về con
người:
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức vấn
đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Theo Kitô giáo, cuộc sống con
người do đấng tối cao an bài, sắp đặt. Con người về bản chất là kẻ có tội. Con người gồm
hai phần: thể xác và linh hồn. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh cửu. Linh
hồn là giá trị cao nhất trong con người. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc phần linh
hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh cửu.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy
triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Con người
là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Prôtago một nhà ngụy biện cho rằng “con người là
4


thước đo của vũ trụ”. Quan niệm của Arixtốt về con người, cho rằng chỉ có linh hồn, tư
duy, trí nhớ, ý trí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là
thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà nước, ông xem con người là “một động vật
chính trị”.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con người với tự

nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người.
Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo ra.
Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt.
Trí tuệ con người thấp hơn lý chí anh minh sáng suốt của Thượng đế. Con người trở nên
nhỏ bé trước cuộc sống nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh
phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kỳ phục hưng - cận đại đặc biệt đề cao vai trị trí tuệ, lý tính của con
người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng
nhằm giải thoát con người khỏi mọi gông cuồng chật hẹp mà chủ nghĩa thần học thời
trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ bản chất con người cả
về mặt sinh học và về mặt xã hội thì chưa có trường phái nào đạt được. Con người mới
chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ, Hêghen đã
phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy tâm. Hêghen, với
cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự vận động của “ý niệm tuyệt
đối”, đã cho rằng, con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Bước diễu hành của “ý
niệm tuyệt đối” thơng qua q trình tự ý thức của tư tưởng con người đã đưa con người
trở về với giá trị tinh thần, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con người. Hêghen
cũng là người trình bày một cách có hệ thống về các quy luật của quá trình tư duy của con
người, làm rõ cơ chế của đời sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người.
Mặc dù con người được nhận thức từ góc độ duy tâm khách quan, nhưng Hêghen là người
khẳng định vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử, đồng thời là kết qủa của sự phát
triển lịch sử.

5


Tư tưởng triết học của nhà duy vật Phoiơbắc đã vượt qua những hạn chế trong triết
học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực. Phoiơbắc phê
phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản chất con người trong triết học

Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên.
Con người là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên. Con người và tự nhiên là
thống nhất, không thể tách rời. Phoiơbắc đề cao vai trị và trí tuệ của con người với tính
cách là những cá thể người. Đó là những con người cá biệt, đa dạng, phong phú, không ai
giống ai. Quan điểm này dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính,
nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, Phoiơbắc không thấy được bản chất xã
hội trong đời sống con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Con
người của Phoiơbắc là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù là
đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị ngun luận hoặc duy vật siêu hình, đều
khơng phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xem xét
con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt
đối hoá mặt tự nhiên - sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy
vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được một số thành tựu trong việc phân tích, quan
sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới
tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết
học mácxít.
1.3. Quan điểm của triết học mác - lênin về bản chất con người
1.3.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Khi bắt tay vào việc nghiên cứu về bản chất của con người, Mác-Anghen cho rằng
nhiệm vụ đầu tiên là phải thay con người trừu tượng bằng con người hiện thực trong sự
phát triển lịch sử của nó. Học thuyết của hai ơng "chỉ nói đến con người trong chừng mực
họ là những hiện thân của những phạm trù kinh tế là những đại biểu cho những quan hệ
giai cấp và những lợi ích của giai cấp nhất định".
6


Nếu các nhà triết học trước Mác khi nghiên cứu bản chất con người chỉ nghiêng về

một mặt, một mối quan hệ cụ thể nào đó của con người mà khơng đặt chúng trong một
chỉnh thể, một hệ thống. Cịn các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lại không xem xét con
người một cách cô lập, phiến diện như vậy mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên xã
hội.
Như chúng ta đã biết, tự nhiên là cái có trước con người, sinh ra con người. Con
người muốn tồn tại và phát triển thì phải biết sống vào tự nhiên, phải biết tác động cải tạo
tự nhiên đem lại sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình. Con xã hội xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của con người. Nhưng nó lại đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình
hình thành con người. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người tự nhiên là
con người mang tất cả bản tính sinh học, tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là
điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là "thân thể vơ
cơ của con người" con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản phẩm của q
trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên và là "một động vật có tính xã hội"
với tất cả nội dung văn hố, lịch sử. Đó là điểm xuất phát để tiếp cận con người của chủ
nghĩa Mác-Lênin.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người
là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng
bản chất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nháu, hoà quyện
vào nhau để tạo thành con người tự nhiên-xã hội.
1.3.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ những quan hệ xã
hội.
Mác khơng chỉ xem xét con người trong hoạt động thực tiễn mà cịn xem xét nó
trong thời đại lịch sử, trong môi trường xã hội nhất định. Mác viết, "chúng ta cần phải
thấy thế nào là bản chất con người nói chung và bản chất ấy biến hình thế nào trong mỗi
thời đại nhất định", ở mỗi thời đại khác nhau bản chất con người là khác nhau vì xã hội
lồi người ln ln vận động từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội
7



cao nên con người cũng phải biến đổi cho phù hợp. Con người ở thời đại nào đều mang
dấu ấn của thời đại ấy. Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người mang tính giai cấp.
Như vậy, bản chất con người khơng phải cái gì chung chung, trừu tượng mà mang
tính lịch sử cụ thể, mang dấu ấn của hồn cảnh, của văn hố, tư tưởng của một thời đại
nhất định. Khi Mác đề cập đến tính hiện thực của bản chất con người tức là Mác đã xem
xét con người là hiện thực, cụ thể cảm tính con người trong xã hội, một giai đoạn lịch sử
một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Con người trong triết học Mác biểu hiện ra là một
"sinh vật" có tính lồi, là một "sinh vật" mang trong mình cái sinh học và cái xã hội. Vậy
bản chất con người do mặt sinh học hay mặt xã hội quyết định? Mác khẳng định: " bản
chất con người là tổng thể các quan hệ xã hội" song giữ vai trò quyết định nhất chính là
quan hệ sản xuất vì tất cả những quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quyết
định của quan hệ này.
1.3.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài, của giới hữu hình
song điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử, xã hội. Mác đã
khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những
hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay
đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục".
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên cải biến giới tự nhiên đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Thế giới lồi vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên con người thông qua hoạt
động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên
thứ hai theo mục đích của mình. Hoạt động lao động sản xuất vừa là phương thức để làm
biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ
thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Mặc dù là " tổng hồ các quan hệ
xã hội" con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng
tạo. Bởi vậy, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp, mỗi sự vận động


8


và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khắp) với sự vận động
và biến đổi của bản chất con người.
Để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hồn cảnh
ngày càng mang tính người. Con người và hoàn cảnh sống tác động qua lại lẫn nhau.
Bởi vậy, muốn xem xét vấn đề con người một cách khoa học nhất, đúng đắn nhất
thì phải nghiên cứu con người trong tính thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mỗi
mặt có một chức năng khác nhau, khơng thể thay thế cho nhau. Trong đó mặt xã hội chi
phối sự hình thành bản chất con người.
Những luận điểm đúng đắn về con người của chủ nghĩa Mác có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc định hướng cho giáo dục với mục đích vì con người, phục vụ con
người, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong nước ta hiện nay, chủ nghĩa Mác
- Lênin trở thành thế giới quan và nhân sinh quan của hàng triệu con người, là hệ tư tưởng
đang thống trị trong xã hội ta.

9


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON
NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam trong
đại hội XIII
Quan điểm con người là trung tâm của sự phát triển đã trở thành định hướng chiến
lược, triết lý hành động xuyên suốt q trình phát triển của đất nước ta. Có thể nói, trải
qua các thời kỳ khác nhau, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều quan điểm và giải
pháp phát huy nhân tố con người, nhằm khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, lịng tự tơn tự
hào dân tộc, nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam để xây dựng và phát triển đất

nước. Nghị quyết các kỳ đại hội của Đảng đều khẳng định: Con người là vốn quý nhất,
chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta… Phát triển
con người - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, thể hiện trong quan điểm của Đảng tại
Đại hội XIII là sự minh chứng sâu sắc cho quan điểm mang tính chiến lược: Tất cả do con
người, tất cả vì con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Kế thừa và phát triển những nội dung cốt lõi về vấn đề con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng đã khái
quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát triển con người Việt
Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước.
Trước hết, lấy con người làm trung tâm và kiên định phát triển con người Việt
Nam toàn diện. Đảng ta chủ trương: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm,
chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con
người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm phát triển bền vững;
phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của
Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc
của Nhân dân”. Thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, cần: “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách
10


nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”; thực hiện phương châm: “Đào
tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm cơng dân, xã
hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư
duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”. Nhấn mạnh thêm về con người là
động lực của sự phát triển, Đảng ta khẳng định con người và nền văn hóa Việt Nam thực
sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây
dựng, tạo môi trường, điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước,
niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài năng, phẩm chất của con người

Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Để phát huy sức mạnh nguồn lực con người cần phải hết sức quan tâm cải thiện,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, thực hiện đầy đủ các quyền con
người, quyền lợi của người dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Bảo đảm quyền con
người phải là khâu kết nối cần thiết, không thể thiếu giữa khâu lấy con người làm trung
tâm và phát triển con người toàn diện.
Đồng thời, coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển con người đáp ứng yêu cầu
mới của sự nghiệp cách mạng đất nước, đặc biệt giáo dục thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, Đại hội
XIII của Đảng nhấn mạnh vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình
mới với chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ
thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp;
nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”.
Bên cạnh chủ trương, biện pháp về kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, Đại hội XIII
của Đảng còn khẳng định vai trò của khoa học trong phát triển nguồn lực con người.
Đảng chỉ rõ: “Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực
cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và

11


bảo vệ Tổ quốc”; thực hiện “Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển
các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người”.
Có thể thấy rằng, quan điểm tại Đại hội XIII của Đảng về con người và phát triển
con người sau hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và phát triển đất nước của Đảng
ngày càng trở nên hoàn thiện. Trong mơ hình phát triển của Việt Nam, con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực quan trọng của sự phát triển. Vị trí của nhân tố con người trở

thành trung tâm của sự phát triển kinh tế nói riêng và q trình phát triển tồn diện nói
chung, đó là sự nhất qn xun suốt trong tiến trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng,
phát triển con người có ý nghĩa quan trọng, là yêu cầu tất yếu và cấp thiết ở các ngành,
các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ
thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân trong triển khai thực hiện, nhất là phát huy nhân
tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
góp phần thiết thực đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
2.2. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc xây dựng con người mới ở Việt
Nam hiện nay
2.2.1. Thực trạng xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay
Trong suốt quá trình phát triển cách mạng nước ta, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo những quan điểm của trỉết học Mác- Lênin về con người vào
việc xây dựng con người Việt Nam mới phù hợp với điều kiện nước ta. Những định
hướng phẩm chất của con người Việt Nam được đề cập trong các văn kiện của Đảng ta
trong việc đẩy mạnh công tác giáo dục. Trên thực tế Đảng ta đã thường xuyên đổi mới
công tác giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách các thế hệ con người Việt
Nam phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.
Về một số thành tựu cơ bản: nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng GDP
hàng năm trong thời kỳ 1991-1995 là 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ 77,4%(1986) xuống
còn 12,7%(1995). Sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang
cơ chế thị trường đã giải phóng sức sản xuất. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và tiếp cận
với công nghệ sản xuất tiên tiến của nhiểu nước trên thế giới. Đại bộ phận nhân dân có
12


đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa
khá hơn trước. ở đây, người lao động đã được giải phóng từng bước khỏi sự ràng buộc
của cơ chế cũ, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong các hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc thực hiện chế độ dân chủ trong Đảng và trong xã hội

được đẩy mạnh đã phát huy được trí tuệ tập thể, phát huy sức mạnh đồn kết, sức mạnh
tổng hợp của nhân dân. Chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện và hướng vào con
người, tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, phát triển đất nước.
Về thể lực và sức khỏe, khi nền kinh tế- xã hội có bước phát triển thì tình trạng sức
khỏe của con người ngày càng được cải thiện. Theo đánh giá của tổ chức Y tế thế giới,
tuy Việt Nam có thu nhập bình qn theo đầu người vào nhóm thấp nhất thế giới, nhưng
về mặt sức khỏe đạt loại trung bình(73/150 nước). Chúng ta đều hiểu rằng sự phát triển về
mặt thể lực, sức khỏe là cơ sở để phát triển toàn diện toàn diện con người, sự lành mạnh
về thể xác và tâm hồn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển hài hòa các phẩm chất,
năng lực của con người.
Về sự phát triển trí tuệ của con người Việt Nam:
Sự phát triển này được biểu hiện qua nhiều chỉ số như: trình độ học vấn, kiến thức
văn hóa, khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, kỹ năng nghề nghiệp...Hiện nay, cả nước
có gần 20 triệu học sinh các cấp. Hiện tại ta đã có 45 sinh viên trên 10.000 dân. Cả nước
có số lượng 8.000 tiến sĩ và hàng vạn thạc sĩ. Biểu hiện đáng mừng là chúng ta liên tiếp
giành được nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế về tốn, lý, hóa, tin học,
sinh vật...
Mặt khác, trình độ chun mơn khơng ngừng được nâng cao, kỹ năng nghề nghiệp
ngày càng tinh thông. Con người Việt Nam đã từng bước làm chủ được những dây
chuyền công nghệ, giải pháp kỹ thuật đòi hỏi tay nghề cao...
Tuy nhiên, sự phát triển về mặt trí tuệ của con người Việt Nam hiện nay cũng đặt
ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: trí lực con người đã có bước phát triển, song không
đều và chất lượng chưa cao, mức chênh lệch về trình độ học vấn giữa thành thị và nông
thôn ngày càng lớn, cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, số người thật sự có
năng lực về trí tuệ, đủ sức đáp ứng u cầu đặt ra của thực tiễn .
13


Đến nay, cả nước chưa phổ cập xong trình độ tiểu học. Độ vênh giữa khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội-nhân văn khá lớn trong mỗi con người, nhất là tầng lớp trẻ do

sớm học lệch, học tủ, học để đi thi; do nội dung, phương thức đào tạo chưa phù hợp, thiếu
đồng bộ. Điều đó đã hạn chế sự phát triển về năng lực trí tuệ con người Việt Nam, nhất là
thanh niên.
Về tư tưởng, đạo đức cách mạng
Lý tưởng và đạo đức cách mạng là vấn đề vô cùng quan trọng, không thể thiếu
trong nhân cách của con người Việt Nam hiện nay.Thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giáo
dục- đào tạo, xây dựng con người Việt Nam là chúng ta đã từng bước tạo lập, xây dựng
những con người có lý tưởng cách mạng, đạo đức trong sáng, từng bước đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng.
2.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam
hiện nay
Từ thực trạng trên, trước yêu cầu của sự nghiệp đầy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức. Xét từ góc độ con người, ở đây đang
bộc lộ nhiều mặt hạn chếm yếu kém. Điều này thể hiện ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu về nhiều mặt
Thị trường lao động diễn biến phức tạp, luôn mất cân đối giữa cung và cầu, do
chưa đủ các điều kiện cho thị trường lao động phát triển. ở nước ta, thị trường lao động
hình thành tự phát, chưa hồn chỉnh, chưa được điều tiết và quản lý từ cẫp vĩ mô, quy mô
nhỏ, chưa giải phóng hết tiềm năng lao động.
Hiện nay, đang có sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường sức lao động. Nguyên
nhân là do lực lượng lao động bổ sung hàng năm vẫn lớn hơn số việc làm được tạo ra: do
cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động. Số người thiếu lao động ở
nông thôn chiếm 25,4% lực lượng lao động. Số người trong lực lượng lao động không
hoạt động hoạt động kinh tế thường xuyên tính chung trong cả nước là 27,7%.
Trên thị trường lao động, cung vẫn vượt quá cầu. Số người chưa có việc làm tập
trung vào lứa tuổi thanh niên. Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học có xu hướng tăng
14


ở khu vực thành thị. Việc di dân tự do từ nơng thơn ra thành thị, tứ phía Bắc vào Đơng

Nam Bộ, Tây Ngun chưa được kiểm sốt chặt chẽ. Quyền lợi người lao động cũng như
người thuê lao động chưa rõ ràng, chưa đảm bảo.
Thứ hai, trình độ học vấn và trình độ chun mơn cịn thấp
Tồn quốc, số người thuộc lực lượng lao đơng khơng có chun mơn kỹ thuật
chiếm 87,18%; có chun mơn kỹ thuật: 12,82%. Trong đó, cơng nhân kỹ thuật( có bằng
và khơng có bằng) và sơ cấp chiếm 5,58%; trung học chuyên nghiệp: 3,8%; cao đẳng và
đại học: 2,5%; trên đại học: 0,04%. ở khu vực thành thị, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua
đào tạo chiếm 29,37%, trong đó cơng nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 12,14%; trung học
chuyên nghiệp:8,34%; cao đẳng và đại học 8,69%; trên đại học:0,2%. Khu vực nông thôn,
tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 9,3%; và tương ứng với các chỉ số của
thành thị là:2,41%; 5,84%; 0,94%; 0, 01%. Mức chênh lệch này có xu hướng ngày càng
tăng.
Thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa hợp lý
Những chính sách xã hội trong thời kỳ chiến tranh, thời kỳ kế hoạch hóa tập trung
quan liêu, bao cấp còn được sử dụng trong thời kỳ đổi mới, chậm khắc phục, có mặt cịn
kéo dài, gây trở ngại nhiều đến nền kinh tế, nhiều khi triệt tiêu mất những động lực lợi ích
của người lao động.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì
chính sách xã hội khơng thay đổi kịp với sự phát triển của đất nước. Nhu cầu, lợi ích của
các tầng lớp nhân dân, sự quản lý nhà nước, sự thay đổi cơ cấu xã hội...làm cho chính
sách xã hội bị động, lúng túng.
Thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục phải giải quyết
Qua 35 năm đổi mới, nhân dân đã phát huy quyền làm chủ trên nhiều lĩnh vực:
được đóng góp ý kiến vào các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội quan trọng của đất nước,
xây dựng các dự án luật, tiếp xúc, chất vấn các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân về
những vấn đề thiết thân của mình; trực tiếp tham gia các phong trào, như cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư", phong trào "Đền ơn đáp
15



nghĩa", phong trào "Xóa đối giảm nghèo"... Đó là cịn chưa kể các hình thức nhân dân
tham gia tự quản tại cơ sở bằng việc tái lập các quy ước, hương ước- một phương tiện hỗ
trợ cho pháp luật trong việc xử lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Như vậy bên cạnh những biểu hiện tích cực cũng xuất hiện những biểu hiện tiêu
cực về đạo đức cần giải quyết. Con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải khắc phục được những hạn chế của lối sống, sinh hoạt, tác phong lạc
hậu,hình thành con người mới với những chuẩn mực giá trị của văn hóa cơng nghiệp tiên
tiến.

16


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CON
NGƯỜI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Giải pháp trong việc xây dựng và phát triển con người mới ở việt nam hiện nay
3.1.1. Phương hướng xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế là phấn
đấu đến năm 2030 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Về thực chất, đó là sự phát triển
vì con người, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân lao động Việt
Nam.
Thứ hai, gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội
Phát triển con người toàn diện là nhiệm vụ khơng chỉ có ý nghĩa trực tiếp, trước
mắt, mà cịn là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Mọi chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần nhằm quán triệt tư tưởng chăm
lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển con người
tồn diện - những con người có đủ trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh đưa sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức đến thắng lợi.
Có thể nói, cơng cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Song,
trước hết đó phải là cuộc cách mạng về con người, phải là cuộc cách mạng triệt để nhằm
mục tiêu xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển tồn diện, giải phóng
con người, mang lại hạnh phúc cho con người.

17


Thứ ba, phát triển con người toàn diện là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống
chính trị và mọi tổ chức xã hội
Sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay không chỉ là phát triển
những giá trị tốt đẹp của cá nhân con người, mà hơn thế, còn là sự phát triển con người xã
hội, bao gồm toàn thể cộng đồng - nhân dân. Đó là làm cho mọi tầng lớp, mọi bộ phận
dân cư trong tồn thể dân tộc ta có một cuộc sống no đủ, được học tập, phát triển về năng
lực trí tuệ, được lao động, được sáng tạo và hưởng thụ những thành quả đó. Chúng ta cần
phải hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội mà trong đó, khơng cịn tệ nạn xã hội,
bệnh dịch, khơng áp bức, bóc lột và quyền con người khơng bị tước đoạt hay trà đạp…
Với tinh thần đó, sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển
toàn diện địi hỏi phải có sự tham gia của tồn xã hội.
3.1.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam
hiện nay
 Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo
Sự nghiệp Giáo dục- đào tạo được Đảng ta xác định đóng vai trị hàng đầu trong
việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại
hóa.

Từ thực trạng của sự nghiệp giáo dục- đào tạo nước ta hiện nay, để làm cho giáo
dục- đào tạo thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", để phát huy nhân tố con người,
chúng ta có thể sử dụng một số biện pháp:
Việc đào tạo và đào tạo lại người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp thiết
trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương.Đào tạo lại phải được tiến hành thường
xuyên ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học.
Để đảm bảo về số lượng và chất lượng nguồn lực con người cho cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, giáo dục phải được phát triển cả về quy mô và về chất lượng, trong đó yếu
tố đóng vai trị quyết định đến chất lượng chính là đội ngũ giáo viên. Thường xuyên bồi
dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, kết hợp giảng dạy với nghiên cứu khoa học; có chính

18



×