TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA: QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đề 1: Lí luận về sản xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn nền kinh tế Việt
Nam hiện nay
Lớp tín chỉ: Kinh tế chính trị Mác - Lênin (221)_28
GV hướng dẫn: PGS.TS. Tô Đức Hạnh
HÀ NỘI - 4/2022
1
2
Mục lục
A. Lời nói đầu. ..................................................................................................... 4
B. Nội dung........................................................................................................... 5
I. Lý luận về sản xuất hàng hoá ...................................................................... 5
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa. ..................................................................... 5
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá ...................................................... 5
4. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa ................................................................ 8
5. Ưu thế và hạn chế của nền sản xuất hàng hóa. ........................................... 8
II. Thực trạng sự phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam: ............... 10
1.Thực trạng: ................................................................................................. 10
2.Đánh giá thực trạng. ................................................................................... 13
III. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam: ...................... 16
IV. Kết luận: ................................................................................................... 19
C. Tài liệu tham khảo........................................................................................ 20
3
A. Lời nói đầu.
Đối với bất kì quốc gia nào, nền kinh tế hàng hố cũng đóng vai trị chủ đạo,
chi phối đáng kể vào hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Nhìn lại nền kinh tế của Việt Nam thời kì trước năm 1986, nước ta áp dụng nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Với nền kinh tế này, ta đã có được một số
thành tựu nhất định. Tuy nhiên, trước sự gia tăng nhanh chóng của q trình tồn
cầu hố; sự tan rã của Liên Xơ; năng suất lao động trong nước bị giảm sút, nền
kinh tế Việt Nam đúng trước nguy cơ suy thoái;… Đảng ta nhận thấy kinh tế tự
cung tự cấp khơng cịn phù hợp, bắt đầu bộc lộ những mặt yếu kém, kìm hãm sự
phát triển của Việt Nam, đặc biệt trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Trước
tình hình đó, tháng 12/1986 tại Đại hội Đại biểu Tồn quốc của Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra quyết định quan trọng về
việc đổi mới nền kinh tế: Chuyển đổi từ nền kinh tế hàng hoá tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần.
Từ đó, nền kinh tế sản xuất hàng hố đã trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy
cơng nghiệp hố hiện đại hoá và phát triển bền vững đất nước. Góp phần nâng cao
vị thế, đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bởi vậy, cần có những
chính sách phù hợp để hồn thiện nền sản xuất hàng hố và phát triển nền kinh tế.
Đặc biệt, trong thời kì dịch bệnh, nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay,
điều quan trọng và vơ cùng cấp thiết là tìm ra những hướng đi, những giải pháp
phù hợp với thực tiễn và quy luật khách quan để phục hồi và phát triển kinh tế.
Hơn bao giờ hết, việc có một cơ sở lí luận làm kym chỉ nam cho những quyết định
đó là vơ cùng quan trọng. Những cơ sở lí luận này khơng thể xa rời chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Xuất phát từ những thực tiễn đó, cùng những kiến thức bản thân đã học hỏi
được từ mơn Kinh tế chính trị Mác - Lênin, em đã chọn đề bài: "Lí luận về sản
xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay."
4
B. Nội dung
I. Lý luận về sản xuất hàng hoá
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa.
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai loại hình kinh tế là kinh
tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa.Kinh tế tự nhiên là hình thức tổ chức kinh tế mà
sản phẩm làm ra chỉ dùng để thỏa mãn các nhu cầu của người sản xuất trong nội
bộ đơn vị kinh tế gọi là kiểu sản xuất tự cấp, tự túc. Kinh tế hàng hóa là hình thức
tổ chức kinh tế, trong đó diễn ra q trình sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo C.Mác, sản xuất hàng hố là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
Kinh tế hàng hố là mơ hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế
được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hố và dịch vụ, tức là, hình thái
phổ biến của sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, trao đổi trên thị
trường. Kinh tế hàng hố cũng chính là sản xuất hàng hố được hiểu theo nghĩa
rộng (bao gồm cả quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá).
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hố
Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử. Nó khơng xuất hiện đồng thời với
sự xuất hiện của xã hội loài người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành, tồn tại
và phát triển, phải có đầy đủ hai điều kiện: Có sự phân cơng lao động xã hội; sự
tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
2.1. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân cơng chun mơn hóa những người sản
xuất thành những ngành nghề sản xuất khác nhau, do đó dẫn đến chuyên mơn hóa
sản xuất. Phân cơng lao động làm cho mỗi người chỉ làm trong mỗi ngành nhất
định, nhưng nhu cầu lại cần nhiều. Bởi vậy, muốn đáp ứng những nhu cầu đó,
người sản xuất phải mua bán, trao đổi sản phẩm với nhau. Đây là điều kiện cơ sở
của sản xuất hàng hóa.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là điều kiện cần, nếu chỉ dựa vào sự phân công lao động
xã hội, vẫn chưa đủ để sản xuất hàng hóa có thể tồn tại và phát triển. C.Mác viết:
5
"Trong công xã Ấn Độ thời cổ đại, lao động đã có sự phân cơng xã hội, nhưng
các sản phẩm lao động khơng trở thành hàng hóa... Chỉ có sản phẩm của những
lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như
là những hàng hóa” Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều
kiện thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
2.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho các
chủ thể sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về mặt lợi ích, đó sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Do vậy, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định vì
trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi
cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ, nó trở thành
hàng hóa. Cịn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này cịn do
các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai
điều kiện đó sẽ khơng có sản xuất hàng hóa.
Khi cịn tồn tại hai điều kiện trên, con người khơng thể dùng ý chí chủ quan mà
xóa bỏ đi nền sản xuất hàng hóa, nếu cố tình xóa bỏ, nền kinh tế, xã hội sẽ đi đến
chỗ khan hiếm, khủng hoảng. Do vậy, nền sản xuất hàng hóa có ưu thế vượt trội
hơn so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
3. Sơ lược về sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa ra đời từ khi chế độ chiếm hữu nô lệ xuất hiện, phát triển
mạnh nhất trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của hình
thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa). Đến chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cao của hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa) thì sản xuất hàng hóa “tự tiêu vong”.
Sản xuất hàng hóa phát triển qua 2 giai đoạn:
6
*Giai đoạn thấp: Sản xuất hàng hóa giản đơn.
Là nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản
xuất kết hợp với sức lao động của cá nhân người lao động. Đặc trưng cơ bản của
sản xuất hàng hóa giản đơn là người lao động có tư liệu sản xuất, dựa trên chế độ
tư hữu, khơng có bóc lột; sản xuất quy mô nhỏ, phân tán, công cụ lao động lạc
hậu, năng suất thấp; nền sản xuất phát triển chậm.
Sản xuất hàng hóa giản đơn gắn với sản xuất hàng hóa trong chế độ nô lệ và
phong kiến.
*Giai đoạn cao: Sản xuất hàng hóa phát triển
Là nền sản xuất hàng hóa tập trung quy mơ lớn, sản xuất bằng máy móc, cơng
nghệ hiện đại, năng suất cao. Do đó, sản xuất hàng hóa phát triển giúp thúc đẩy
nên sản xuất phát triển nhanh chóng.
Sản xuất hàng hóa phát triển ln vận động theo các quy luật khách quan của
thị trường, do đó, sản xuất hàng hóa phát triển cịn gọi là nền kinh tế thị trường.
Sản xuất hàng hóa phát triển gắn với sản xuất hàng hóa trong chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội.
Hình thức điển hình nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hóa là sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa TBCN, nền sản xuất hàng hóa dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất kết hợp với sức lao động
của công nhân làm thuê. Tức là, người lao động khơng có tư liệu sản xuất mà tư
liệu sản xuất nằm trong tay nhà tư bản, do đó nhà tư bản nắm quyền tổ chức quản
lí sản xuất và toàn bộ sản phẩm làm ra đều thuộc về tư bản. Nói cách khác, sản
xuất hàng hóa TBCN dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động, trên
cơ sở bóc lột sức lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chế độ chủ nghĩa xã hội.
Sản xuất hàng hố xã hội chủ nghĩa khơng dựa trên cơ sở chế độ của người bóc
lột người mà nó dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cả dưới hai hình
thức là tồn dân và tập thể, nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần
của mọi thành viên xã hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh.
7
4. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán:
Trong lịch sử tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự cung, tự
cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong
đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân
người sản xuất (ví dụ: hoạt sản xuất của con người trong thời kỳ công xã nguyên
thủy; sản xuất của những người nông dân dưới chế độ phong kiến…)
Ngược lại, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được
sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,
thông qua việc trao đổi, mua bán.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa
mang tính xã hội:
Tính chất tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi cá nhân
người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh nghĩa. Lao
động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm làm ra để
cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội. Tuy nhiên, với sự tách
biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất hàng hóa đồng thời lại
mang tính chất tư nhân, bởi vì, việc sản xuất cái gì? Như thế nào? Lại là cơng việc
riêng, mang tính độc lập của mỗi người.
Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội.
Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động tư
nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế
hàng hóa.
5. Ưu thế và hạn chế của nền sản xuất hàng hóa.
5.1. Ưu thế.
Thứ nhất: sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội,
chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được lợi thế về tự nhiên, xã hội, kĩ
8
thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất,…Đồng thời, sản xuất hàng hóa phát
triển có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển mối liên hệ giữa các ngành, các
vùng ngày càng mở rộng. Nó phá vỡ tính tự cung tư cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi
ngành, mỗi địa phương làm tăng năng suất lao động và nhu cầu xã hội được đáp
ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất hàng hóa phát triển mở rộng ra phạm vi ngồi quốc
gia thì nó cịn có thể khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang
tính khép kín của mỗi cá nhân, gia đình,…mà quy mơ được mở rộng dựa trên nhu
cầu và nguồn lực của xã hội phù hợp với xu thế thời đại. Điều đó tạo điều kiện
thuận lợi cho việc ứng dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật vào sản xuất, thúc
đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là
qui luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy
bén, biết tính tốn, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế. Đồng thời, làm giảm chi phí sản xuất đáp ứng nhu cầu,
thị hiếu của người tiêu dùng.
Thứ tư: sự phát triển của sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá
nhân, các vùng, các nước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và cả đời sống văn
hóa, tinh thần của xã hội.
5.2. Hạn chế:
Bên cạnh những mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái, hạn
chế nhất định. Như
-
Sự phân hóa giàu nghèo
-
Tiềm ẩn khả năng khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường,
cạnh tranh khơng lành mạnh, suy thối đạo đức, tệ nạn xã hội
-
Điều tiết tự phát nền kinh tế.
9
II. Thực trạng sự phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam:
1.Thực trạng:
Nền kinh tế hàng hóa (KTHH) ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường (KTTT)
định hướng xã hội chủ nghĩa: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam”. Sau gần 40 năm đổi mới (từ Đại hội Đảng cộng sản lần thứ
VI, tháng 12/1986), nền KTTT định hướng XHCN đã hình thành, phát triển, có
những yếu tố của nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế và đảm bảo định hướng
nền KTTT xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kì đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, cộng với việc bất ổn địa
chính trị (chiến tranh Nga – Ukraine) gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản
xuất kinh doanh và nền kinh tế Việt Nam.
Một số chỉ tiêu phản ánh thực trạng nền KTHH (KTTT) ở Việt Nam trong
những năm gần đây:
(1)Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
-
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu
vực dịch vụ chiếm 40,95%;
-
Ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% (quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%;
quý III giảm 6,02%; quý IV tăng 5,22%) so với năm trước. Trong mức tăng chung
của toàn nền kinh tế, khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp
13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của tồn nền kinh tế; khu vực cơng
nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%,
đóng góp 22,23%.
-
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2022 ước tính tăng 5,03% so
với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 4,72% của quý I năm 2021 và 3,66%
của quý I năm 2020 nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,85% của quý I năm 2019.
Trong đó, khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,45%, đóng góp 5,76%
vào mức tăng trưởng chung; khu vực cơng nghiệp và xây dựng tăng 6,38%, đóng
góp 51,08%; khu vực dịch vụ tăng 4,58%, đóng góp 43,16%.
10
(2)Chỉ số giá tiêu dùng
-
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2021 tăng 1,84% so với năm 2020. Lạm
phát cơ bản tháng 12 giảm 0,18%. Chỉ số giá vàng bình quân năm 2021 tăng
8,67% so với năm 2020. Chỉ số giá đơ la Mỹ bình qn năm 2021 giảm 0,97% so
với năm 2020.
-
Trong quý I năm 2022, mức tăng 0,7% của CPI tháng 3/2022 so với tháng
trước có 10 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước; riêng nhóm hàng ăn và dịch
vụ ăn uống giảm giá, trong đó nhóm giao thơng có mức tăng cao nhất với 4,8%.
CPI bình quân quý I năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021 tăng 1,92%; CPI tháng
3/2022 tăng 1,91% so với tháng 12/2021 và tăng 2,41% so với cùng kỳ năm 2021.
(3)Hệ số GINI.
-
Hệ số GINI (theo thu nhập) của Việt Nam năm 2020 là 0,375 thấp hơn GINI
giai đoạn 2014-2018 ở mức 0,4 nhưng vẫn ở mức bất bình đẳng trung bình. Mức
độ bất bình đẳng ở nơng thơn cao hơn thành thị. Hai vùng có tỷ lệ nghèo cao là
Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên cũng là hai vùng có hệ số GINI
cao nhất, vùng có hệ số GINI thấp nhất là Đông Nam Bộ.
(4)Chỉ số tự do kinh tế.
-
Chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam tăng liên tục trong mấy năm qua. Năm
2018 là 53,1 điểm, năm 2019 lên 55,3 điểm, năm 2020 lên 58,8 điểm và năm 2021
lên 61,7 điểm.
-
Theo bảng xếp hạng do Quỹ Di sản (Heritage Foundation), năm 2021 là lần
đầu tiên nền kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có “tự do trung
bình” (Moderately Free), tăng 2,9% và thăng 15 bậc so với 2020, theo đó Việt
Nam đứng thứ 17/40 nền kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và điểm
tổng thể của Việt Nam cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới.
(5)Tỷ trọng của FDI so với GDP.
FDI hiện đóng góp khoảng 20% GDP và là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
vốn đầu tư phát triển với tỉ trọng khoảng 23,7% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
58% tổng vốn đầu tư FDI tập trung vào lĩnh vực chế biến, chế tạo, tạo ra trên 50%
11
giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực này
cũng chiếm tỉ trọng lớn nhất trong xuất khẩu cả nước
(6)Chỉ số kinh doanh thuận lợi.
-
Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2019 đánh giá chỉ số EDBI của Việt Nam
tăng 1,59 điểm (đạt 68,36/100 điểm, xếp hạng 69/190 nền kinh tế) nhưng lại tụt
01 hạng so với năm 2018 (xếp hạng 68/190)
-
Điểm số và thứ hạng của Việt Nam cao hơn mức trung bình của khu vực
Đơng Á- Thái Bình Dương. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp sau Xinh-gapo (hạng 2/190), Ma-lai-xi-a (hạng 15/190), Thái Lan (hạng 27/190), Bru-nây
(hạng 55/190).
(7) Quy mơ chính phủ.
-
Mức độ tham gia của Chính phủ tới nền kinh tế tại Việt Nam ở mức vừa
phải. Trong đó, mức thuế thu nhập cá nhân cao nhất là 35% và mức thuế thu nhập
doanh nghiệp cao nhất là 22%. Các loại thuế khác bao gồm thuế giá trị gia tăng
và thuế tài sản. Tổng gánh nặng thuế tương đương 18,6% tổng thu nhập trong
nước.
-
Chi tiêu của Chính phủ đã lên tới 28,3% sản lượng (GDP) của quốc gia
trong 3 năm qua (tính đến năm 2018) và thâm hụt ngân sách trung bình là 4,7%
GDP. Nợ cơng tương đương 57,5% GDP.
(8)Tổng giá trị xuất nhập khẩu.
-
Năm 2021, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 336,31 tỷ USD, tăng
19%, tương ứng tăng 53,68 tỷ USD so với năm 2020. Trong đó, trị giá xuất khẩu
hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) trong kỳ
2 tháng 12-2021 đạt 12,92 tỷ USD, tăng 11,3% tương ứng tăng 1,31 tỷ USD so
với kỳ 1 của tháng. Tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa từ đầu năm đến hết tháng 122021 đạt 245,22 tỷ USD, tăng 20,9% (tương ứng tăng 42,36 tỷ USD) so với năm
trước, chiếm 72,9% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
-
Về nhập khẩu: Trong năm 2021, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt
332,23 tỷ USD, tăng 26,5% (tương ứng tăng 69,54 tỷ USD) so với năm 2020. Trị
giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 10,36 tỷ USD,
12
giảm 4,6% (tương ứng giảm 496 triệu USD) so với kỳ 1 tháng 12-2021. Tính trong
năm 2021, tổng trị giá nhập khẩu của nhóm các doanh nghiệp này đạt 218,20 tỷ
USD, tăng 29,1% (tương ứng tăng 49,2 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước, chiếm
65,7% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
2.Đánh giá thực trạng.
2.1.Thành tựu và kết quả đạt được.
Năm 2021 và quý I năm 2022, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và bất ổn
chính trị các nước trên thế giới, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sản
xuất kinh doanh, nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành tựu đáng khích lệ.
(1)Tốc độ tăng trưởng:
-
Ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% (quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%;
quý III giảm 6,02%; quý IV tăng 5,22%) so với năm trước. Trong bối cảnh dịch
COVID-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là
trong quý III/2021 nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách
xã hội kéo dài, GDP năm 2021 ước tính tăng 2,58% so với cùng kỳ năm 2020 là
một thành công lớn của nước ta trong việc phịng chống dịch bệnh, duy trì sản
xuất kinh doanh.
-
Nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng 5,03% trong quý I năm 2022, đạt
mức tăng trưởng khá trong quý đầu tiên bất chấp diễn biến phức tạp của đại dịch
COVID-19 và bất ổn địa chính trị tồn cầu
(2)Xuất nhập khẩu hàng hóa:
-
Trong tháng 12/2021, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa tiếp tục là điểm
sáng của nền kinh tế với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt
66,5 tỷ USD, tăng 6,4% so với tháng trước và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm
trước. Tính chung năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5
tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu
tăng 26,5%[9].
-
Tính chung năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 4
tỷ USD (năm trước xuất siêu 19,94 tỷ USD). Trong đó khu vực kinh tế trong nước
13
nhập siêu 25,36 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi (kể cả dầu thơ) xuất
siêu 29,36 tỷ USD.
(3)Chỉ số giá tiêu dùng:
-
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2021 giảm 0,18% so với tháng trước
và tăng 1,81% so với tháng 12/2020. Bình quân năm 2021, CPI tăng 1,84% so với
năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016. Nguyên nhân chính là do giá xăng
dầu, giá gas trong tháng giảm theo giá nhiên liệu thế giới; dịch bệnh Covid-19
diễn biến phức tạp trên phạm vi cả nước làm cho việc tiêu dùng của người dân trở
nên thận trọng hơn.
-
Bình quân 4 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước,
cao hơn mức tăng 0,89% của 4 tháng đầu năm 2021, nhưng thấp hơn mức tăng
của 4 tháng đầu năm 2017-2020; lạm phát cơ bản tăng 0,97%. Giá vật liệu bảo
dưỡng nhà ở tăng theo giá nguyên liệu đầu vào sản xuất; dịch vụ giáo dục tăng trở
lại tại một số địa phương sau thời gian miễn giảm học phí; giá ăn uống ngồi gia
đình và dịch vụ du lịch tăng theo nhu cầu tiêu dùng là những nguyên nhân chính
làm CPI tăng.
(4)Đầu tư phát triển:
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 tăng 3,2% so
với năm trước, tuy đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua nhưng là kết
quả khả quan trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và
trên thế giới. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng
ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngồi tiếp
tục tin tưởng vào mơi trường đầu tư Việt Nam.
(5)Công nghệ, khoa học – kĩ thuật: được áp dụng ngày càng nhiều mang lại hiệu
quả trong quá trình sản xuất hàng hóa.
Từ những thành tựu và kết quả đạt được, cho thấy năng lực sản xuất trong nước
tăng trưởng cao, môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh được tạo thuận lợi và
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu.
Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới gặp nhiều
14
khó khăn khi vẫn phải tiếp tục đối mặt với dịch Covid-19 và bất ổn chính trị diễn
ra phức tạp.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
2.2.1. Những hạn chế của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu đạt được từ khi thực hiện cải cách hoàn toàn nên
kinh tế, đặc biệt là trong những năm gần đây, thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta vẫn cịn khơng ít hạn chế, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền
kinh tế và mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
Thứ nhất: thiếu đồng bộ, thiếu nhất qn và những bất cập trong q trình hồn
thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để
phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử
lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động vẫn diễn ra với tốc độ khá
chậm; các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được tối đa vai trị, động lực,
tiềm lực của mình.
Thứ ba: tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp,
khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ tư, môi trường kinh doanh chưa lành mạnh. Sự bất bình đẳng dẫn đến hậu
quả là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta cịn thấp, mơi trường đầu tư
kinh doanh đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Doanh nghiệp khởi
nghiệp rất nhiều nhưng giải thể cũng khơng ít do “hữu sinh, vô dưỡng”. Số lượng
các doanh nghiệp tư nhân dù tăng nhanh về số lượng, nhưng quy mô vẫn chủ yếu
nhỏ lẻ, nguồn lực hạn chế, khó đầu tư sản xuất lớn.
Thứ năm, hệ thống pháp luật trong thời gian qua còn thiếu đồng bộ, chồng chéo,
nhiều Bộ Luật ban hành một thời gian chưa thi hành đã phải sửa, khơng ít Luật đã
ban hành nhưng khơng đi vào thực tiễn.
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế.
15
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của nền kinh tế thị trường ở nước
ta, chủ yếu tập trung vào những nguyên nhân dưới đây:
Thứ nhất: Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ hai: Việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng
xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của
một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được
cải thiện.
Thứ ba: Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được “ưu ái” về mọi phương diện,
chiếm nguồn lực lớn nhưng sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm
ăn thua lỗ gây bức xúc dư luận. Mặc dù đã có chủ trương cải cách, thối vốn, tái
cơ cấu DNNN, nhưng q trình này cịn rất chậm.
Thứ tư: Việc xây dựng thiếu tính thực tiễn, đồng bộ, đôi khi chưa thực sự đảm
bảo công bằng, minh bạch, gây khó khăn cho doanh nghiệp.Trong khi đó, những
người làm luật, bộ máy quản lý gần như không phải chịu trách nhiệm khi xây
dựng pháp luật thiếu tính thực tiễn, thiếu đồng bộ, thậm chí gây tổn hại cho nền
kinh tế.
Thứ năm: Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thể chế kinh
tế nước ta vẫn chậm đổi mới, thiếu chủ động trong xây dựng các rào cản không
trái với các cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và doanh nghiệp trong nước trước
những tác động tiêu cực từ bên ngoài.
III. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam:
Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những nội dung sau:
(1)Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản
lý kinh tế của nhà nước
16
- Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được hình thành và phát triển trên
cơ sở phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo. Nhà nước
ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trò chủ thể về kinh
tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách và lực lượng vật chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các
quy luật của KTTT, tương thích với thơng lệ của các nước; kiến tạo được môi
trường vĩ mô; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo đảm an sinh xã hội; ban hành
cơ chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng
bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ mơi
trường.
(2)Thúc đẩy q trình phát triển kinh tế, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Cần có chiến lược cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để việc phát triển
kinh tế của đất nước bảo đảm hài hịa 2 yếu tố, đó là: Phát triển “nhanh” và “bền
vững”. Đây là hai yêu cầu song hành, bởi với một nền kinh tế đang phát triển như
Việt Nam nếu khơng có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở mức cao thì rất
dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Cùng với đó, cần ứng dụng tiến
bộ khoa học - kĩ thuật, cơng nghệ trong sản xuất hàng hóa. Trên cơ sở đó, đẩy
mạnh phân cơng lao động xã hội.
(3)Phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Việc phân bổ các nguồn lực kinh tế của Nhà nước phải thực hiện qua đấu thầu
cơng khai, minh bạch, có sự tham gia, cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, nhưng việc sử dụng các nguồn lực này cũng phải phù hợp,
góp phần vào thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Doanh nghiệp nhà nước được đầu tư, phát triển tập trung vào những ngành, lĩnh
vực then chốt, cần thiết, quan trọng đối với đất nước. DNNN phải hoạt động theo
17
cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác.
(4)Xây dựng hệ thống pháp luật.
Tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, chiến
lược, quy hoạch, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Sửa đổi những
quy định mâu thuẫn, chồng chéo, tháo gỡ những điểm nghẽn, cản trở sự phát triển.
Xây dựng khuân khổ luật pháp, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi
nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích
sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh doanh mới, kinh tế
tuần hoàn, kinh tế chia sẻ.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã cam kết.
Đổi mới các chính sách quản lý đất đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích
tụ đất nơng nghiệp. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền
gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách
nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện.
(5)Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của tồn dân và cả hệ thống chính trị,
đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy
quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước.
Xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuận lợi cho hội nhập. Hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Chủ
động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống khơng để rơi vào thế đối đầu, bị động,
bất lợi. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác
chiến lược và các nước lớn có vai trị quan trọng đối với phát triển và an ninh của
đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất.
(6)Định hướng phát triến giáo dục và đào tạo.
Giáo dục và đào tạo có vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế.
Chất lượng giáo dục quyết định chất lượng nguồn lao động, trong khi đó, để nền
18
kinh tế hoàn thiện và phát triển, nguồn lao động chất lượng cao là yếu tố then
chốt.
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay còn khá thụ động, nặng về lý thuyết. Cần đổi
mới phương pháp giảng dạy, đa dạng cách tiếp cận tri thức của học sinh; Khuyến
khích sự sáng tạo; kết hợp cả học lý thuyết và thực hành để giúp học sinh/ sinh
viên vừa tiếp thu kiến thức, vừa rèn luyện kĩ năng, từ đó có cái nhìn tổng quan và
sâu sắc hơn với kiến thức được học.
(7)Bảo vệ và cải thiện môi trường.
Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Do vậy,
song hành với chính sách phát triển kinh tế, cần có những chính sách để bảo về
và cải thiện mơi trường. Có những chiến dịch tun truyền, ý thức cho người dân,
doanh nghiệp; đồng thời, có nhiều biện pháp mạnh để xử lý nghiêm túc những sai
phạm gây hại cho môi trường.
IV. Kết luận:
Lý luận về “Sản xuất hàng hóa” của Mác – Lênin là tiền đề và cơ sở lý luận
cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước theo con đường đúng đắn, hợp lý nhất.
Học thuyết này mang một ý nghĩa thực tiễn to lớn khơng chỉ ở thời điểm nó ra
đời mà cịn có tác dụng ngay cả thời điểm hiện nay. Với lý luận về “Sản xuất hàng
hóa” chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn về vấn đề sản xuất hàng hóa cũng như vấn
đề trong nền kinh tế thị trường, để từ đó xây dựng những phương án, giải pháp
cho quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Đây là nhân tố quan trọng và tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia nói
chung và Việt Nam nói riêng. Vận dụng tốt lí luận của C.Mác, đặc biệt là lí luận
về “Sản xuất hàng hóa” trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa sẽ góp phần
quyết định, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, tạo nên những bước đột phá cho nền
kinh tế của đất nước.
19
C. Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin ( Bộ giáo dục và đào tạo, xuất bản
năm 2019 )
2. Trang web Tổng Cục Thống Kê : />3. Trang Web Tổng Cục Hải Quan />4. The World Bank />5. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2001.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
20