Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tâm lý học hành vi của John Broadus Watson

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.57 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

I.

Khái quát chung về Watson và tâm lý học hành vi..........................................1
1.

Đôi nét về Watson...........................................................................................1

2.

Sự phát triển của tâm lý học hành vi............................................................3
2.1.

Hành vi cổ điển..........................................................................................3

2.2. Hành vi mới...................................................................................................4
2.3. Hành vi chủ quan..........................................................................................5
II. Lý thuyết tâm lý học hành vi của Watson.........................................................6
1.

Thuyết hành vi................................................................................................6

2.

Thí nghiệm “Little Albert” và ý nghĩa của thí nghiệm..............................9

3.

Ứng dụng khác trong quảng cáo của Watson: “Coffee – break”.............11


III. Đánh giá............................................................................................................11
1.

Ưu điểm..........................................................................................................11

2.

Khuyết điểm..................................................................................................13

Kết luận......................................................................................................................14



Mở đầu
Ngày này, tâm lý học đang phát triển cách mạnh mẽ không chỉ trong giới học thuật với
các lý thuyết, quan điểm mà cả việc ứng dụng tâm lý vào trong đời sống từ lãnh vực kinh tế,
chính trị đến văn hố, tơn giáo…Trải qua q trình tạo lập và xây dựng ngành tâm lý học,
các nhà tâm lý học cũng nỗ lực tìm hiểu và lý giải tâm lý của con người dưới nhiều góc độ.
John Broadus Watson là một nhà tâm lý học người Mỹ, người đã hệ thống hóa và cơng
bố trường phái tâm lý học về hành vi với quan điểm được giới hạn trong việc nghiên cứu
thực nghiệm, khách quan về các mối quan hệ giữa các sự kiện môi trường và hành vi của
con người. Chủ nghĩa hành vi của Watson đã trở thành nền tâm lý học thống trị ở Hoa Kỳ
trong suốt những năm 1920 và 1930. Bên cạnh đó, ơng cũng là người đã thúc đẩy sự thay
đổi trong nền tâm lý học theo hướng khoa học hơn về phương pháp và tồn diện hơn về nội
dung.
Trong khn khổ giới hạn, bài viết dưới đây xin sơ lược qua về cuộc đời và tư tưởng
của John Broadus Watson.
I.

Khái quát chung về Watson và tâm lý học hành vi

1. Đôi nét về Watson
John Broadus Watson (1878 - 1958) là một nhà tâm lý học người Mỹ đã thành lập

trường phái tâm lý học về hành vi. Watson được sinh ra ở Traveller Rest, South Carolina,
với cha là Pickens Butler và mẹ là Emma Kesiah Watson. Mẹ Watson là một phụ nữ rất
sùng đạo đặt tên Watson theo một mục sư Baptist nổi tiếng với hy vọng điều đó sẽ giúp anh
nhận được lời kêu gọi rao giảng Tin Mừng. Khi nuôi dạy con, bà đã bắt Watson phải tham
gia khóa huấn luyện tơn giáo khắc nghiệt mà sau đó đã khiến anh ta phát triển ác cảm suốt
đời đối với mọi hình thức tơn giáo và trở thành người vô thần. Người cha nghiện rượu của
anh đã rời bỏ gia đình để sống với hai người phụ nữ Ấn Độ khi Watson 13 tuổi. Gia đình
Watson đã chuyển nhiều chỗ khác nhau tạo cho anh cơ hội trải nghiệm nhiều loại người
khác nhau, với kinh nghiệm này anh đã từng trau dồi lý thuyết về tâm lý học.
Do học lực kém, nên Watson đã hồn thành một vài khóa học tâm lý tại Đại học
Furman, Nam Carolina, nhưng không xuất sắc.

1


Năm 1903 J.Watson nhận bằng tiến sỹ triết học của Đại học tổng hợp Chicago.
Luận án của ông mang tên “Dạy động vật: sự phát triển thể chất của chuột bạch”. Một đề
tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực tâm lý học động vật.
Năm 1908 J. Watson đã được đề nghị chức giáo sư Đại học tổng hợp John Hốpkin.
Watson đã sống ở đây 12 năm và đây là thời gian thành đạt nhất của ông. Watson từng
giữ chức Chủ nhiệm bộ môn tâm lý học của trường đại học này và Biên tập viên của tạp
chí có danh tiếng “Bình luận tâm lý học”.
Ở độ tuổi 31 J.Watson đã trở thành một nhân vật quan trọng trong tâm lý học Mĩ.
Ơng đã ở đúng vị trí và đúng thời điểm.
Từ năm 1903 ông đã bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về cách tiếp cận khách quan hơn
đối với tâm lý học và lần đầu tiên ông phát biểu những ý tưởng ấy vào năm 1908 ở
Bantimo. Trong bài viết của mình J.Watson khẳng định rằng lý thuyết về các quá trình

tâm lý hay các q trình tư duy "khơng có giá trị khoa học nào cả". Năm sau ông cho
công bố bài viết của mình trong tạp chí “Bình luận tâm lý học”: Tâm lý học dưới con
mắt của Nhà hành vi. Bài báo này được coi là tuyên ngôn của Tâm lý học hành vi, với tư
cách là một chuyên ngành khoa học
Chỉ 2 năm sau khi công bố bài viết trên, J. Watson đã được bầu là Chủ tịch hội tâm
lý học Mĩ. Lúc đó ơng mới 37 tuổi.
Hoạt động nghề nghiệp của J.Watson đã bị đứt quãng bởi chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, ông trở thành thiếu tá không quân. Sau chiến tranh, vào năm 1918 ông bắt đầu
tiến hành nghiên cứu trẻ em, điều này đã trở thành một trong những nỗ lực ban đầu tiến
hành thực nghiệm trên trẻ em.
Cuốn sách được công bố năm 1919: “Tâm lý học dưới con mắt của Nhà hành vi”.
Đây là sự trình bày đầy đủ nhất những luận điểm cơ bản của Thuyết hành vi và khẳng
định rằng những phương pháp và nguyên tắc được gợi ý đối với tâm lý động vật là thích
hợp cả trong nghiên cứu hành vi con người
Trong các bài viết của mình, J.Watson đã cố gắng đưa những tư tưởng của Thuyết
hành vi đến đơng đảo cơng chúng. Ơng trình bày mọi vấn đề một cách đơn giản và dễ
hiểu, thậm chí cả bằng ngơn ngữ thơ thiển J.Watson vẫn bị nhiều giới khoa học xa lánh.

2


Sự tiếp xúc chính thức duy nhất của J.Watson với tâm lý học kinh viện (lý luận) là một
loạt bài giảng của ông trong một trường mới ra thành phố New York, nghiên cứu những
vấn đề xã hội. Những bài giảng này là nền tảng cho cuốn sách trong tương lai “Thuyết
hành vi” (1925). Trong đó ơng trình bày chương trình của mình về sự lành mạnh hố đạo
đức - xã hội.
Năm 1928, ông công bố cuốn sách "Giáo dục tâm lý trẻ em", trong đó mơ tả những
quy tắc chặt chẽ của hệ thống giáo dục trẻ - hệ thống tạo điều kiện hình thành ở trẻ
những mối liên hệ bền vững với môi trường xung quanh.
Năm 1957, khi J.Watson 79 tuổi, Hiệp hội tâm lý học Mĩ đã biểu quyết đưa tên ông

vào danh sách danh dự đánh giá ông là một trong những người quyết định trong tâm lý
học hiện đại, là xuất phát điểm của nhiều nghiên cứu thành công theo các hướng khác
nhau. Người ta mời J.Watson đến dự buổi lễ trọng thể này, nhưng vào phút chót ơng đã
từ chối và u cầu cho con trai cả thay mình. Ơng sợ rằng trong giờ phút trọng đại, do
xúc động, ơng sẽ khơng kiểm sốt được hành vi của mình".
Ơng mất vào năm 1958, trước đó ơng đã đốt tất cả thư, bản viết tay. Ơng khơng để
lại cái gì cho các nhà lịch sử.
2. Sự phát triển của tâm lý học hành vi
2.1. Hành vi cổ điển
Trường phái tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng
giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối
tượng của tâm lý học hành vi là hành vi con người.
J.Watson cho rằng: “Chỉ có hành vi của tồn tại người mới là đối tượng của thuyết
hành vi, cịn kí ức chỉ là một cái gì đó vu vơ, vơ ích”.
Theo đó, hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích
của mơi trường bên ngoài.
Nghiên cứu hành vi của con người, điều ấy có nghĩa là đưa cuộc sống của con người
trở thành đối tượng của tâm lý học. Chẳng cần phải nói, ai cũng có thể thấy hành vi là cái gì
và nó tồn tại trong hiện thực một cách khách quan. Nếu như trong tâm lý học truyền thống
chỉ tìm hiểu nội quan thì tâm lý học hành vi lại là một bước tiến đáng kể, nghiên cứu nguồn

3


gốc sinh ra “tâm hồn”, “hồn”, “tâm lý”. Khái niệm hành vi dược xây dựng trên nền móng
của sự chứng thực có thể quan sát từ phía ngồi.
Tâm lý (của cả người và con vật) chỉ là các dạng hành vi khác nhau. Hành vi là tập
hợp các phản ứng R của cơ thể đáp lại các kích thích từ mơi trường bên ngồi S, sơ đồ S →
R. Nhiệm vụ của các nhà tâm lí học là mơ tả và lượng hóa các hành vi đó, đúng như nó diễn
ra trong tình huống xác định. Phương pháp của nhà tâm lí học là quan sát khách quan và

thực nghiệm các phản ứng của cơ thể khi có tác nhân kích thích, nhằm mục đích xác định
tương quan giữa kích thích và phản ứng.
Chính sự quan sát đó là lập trường hiện thực của tâm lý học hành vi và toàn bộ cuộc
sống của con người được xem như lịch sử của tính tích cực, từ đó hình thành khái niệm
“dịng tính tích cực”, đó là tồn bộ hành vi do các trả lời đơn thuần đối với các kích thích
hợp

lại.

Hầu hết các thực nghiệm của trường phái hành vi được thực hiện trên động vật (chuột, chim
bồ câu…) sau đó, các kết quả này được ứng dụng trên con người. Cơ sở sinh lí thần kinh
được quan tâm trong các thực nghiệm là phản xạ có điều kiện. Cơ chế hình thành các hành
vi là sự mị mẫm của chủ thể, theo nguyên tắc “thử và sai” qua nhiều lần cho tới khi xác lập
được các phản ứng phù hợp, luyện tập và củng cố nó.
Theo các nhà tâm lý học hành vi, hành vi trí tuệ (của cả người và động vật) là các phản
ứng có hiệu quả mà cá thể (chủ thể) học được, nhằm đáp lại các kích thích của mơi trường
sống. Trong các cơng trình của J.Watson, hành vi trí tuệ được đồng nhất với ngôn ngữ bên
trong.
2.2. Hành vi mới
Vào ngay những năm đầu của thập kỷ thứ ba thế kỷ XX đã bắt đầu xuất hiện khủng
hoảng tâm lý học kiểu Watson.
Các đại biểu xây dựng lên thuyết hành vi mới là E.Tolman (1886-1959), K.Hull (18841952). Thuyết hành vi mới ở chỗ, trong công thức S-R truyền thống, những nhà hành vi mới
đưa thêm vào các biến số trung gian làm khâu gián tiếp dẫn đến các kích thích và phản ứng.
Theo chủ nghĩa hành vi mới, năm 1922, trong “Công thức mới của thuyết hành vi” đã
cho rằng “tâm lý học hành vi S-R” thuần túy của Watson chỉ là sinh lý học về hành vi, vì thế
đã đề ra “thuyết hành vi khơng sinh lý học” và gọi nó là “thuyết hành vi mới”. Năm 1929,

4



báo cáo “giải thích phản xạ có điều kiện theo chức năng” của Hull đưa ra đã tạo thêm điều
kiện thúc đẩy thuyết hành vi mới phát triển.
Theo chủ nghĩa hành vi mới, các biến số trung gian hiểu theo tinh thần thuyết tạo tác,
cụ thể là các kiến tạo lý luận có khả năng xác lập các quy luật chủ yếu của hành vi. Chính
nhờ các “kiến tạo lý luận”, “các yếu tố trung gian”, “các biến số can thiệp” và dùng các
thuật ngữ của tâm lý học chủ quan mà có thể phân tích một cách khoa học các sự kiện thu
thập được và giải thích chúng một các chính xác, nhờ vậy, theo các nhà hành vi mới đã
định, có thể đưa thuyết hành vi ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
2.3. Hành vi chủ quan
Thuyết hành vi chủ quan - thuyết “TOTE” - chữ đầu của các từ tiếng Anh: T: Test, O:
Operate; T: Test, E: Exit, tức là thuyết thử - thao tác - thử - thoát ra. Đại biểu là O.Mille,
Galanter, Pribram. Thuyết này là tổng hợp của thuyết hành vi với tâm lý học nội quan, giữ
hành vi lại làm đối tượng của tâm lý học. Công thức trên bắt đầu từ sự tác động là cơ thể;
hành vi nói chung tuân thủ sự kiểm tra của kế hoạch và biểu tượng, tức là của hoạt động
tượng trưng.
Theo thuyết này, bên trong cơ thể là các cơ chế, các quá trình gián tiếp giữa phản ứng
với kích thích. Cho rằng, hình ảnh và kế hoạch là hai yếu tố liên kết kích thích với phản
ứng. Hình ảnh là tri giác được tích lũy, được tổ chức trong cơ thể về bản thân về thế giới mà
cơ thể đang tồn tại trong đó. Cịn kế hoạch là quá trình được xây dựng kiểu thứ bậc của cơ
thể, có khả năng kiểm tra các trật tự của thao tác. Hình ảnh mang tính chất thơng tin, cịn kế
hoạch đề cập đến các thuật tốn của hành vi. Hành vi chỉ là một loạt các cử động, cịn con
người là một cái máy vi tính phức tạp. Chiến lược của kế hoạch được xây dựng trên các lần
thử, tiến hành trong các điều kiện đã được định sẵn. Thử nghiệm là sơ sở của quá trình hành
vi trọn vẹn, từ đó mà các thao tác diễn ra một cách chính xác. Như vậy, hệ thống TOTE bao
hàm cả tư tưởng liên hệ ngược, vì vậy mỗi một thao tác của cơ thể diễn ra thường xuyên
được điều chỉnh bởi kết của của các thử nghiệm khác nhau.
Hành vi chủ quan coi hành vi của con người một cách phi xã hội, quan niệm về con
người phi lịch sử - đặc trưng đã làm cho hành vi chủ quan không phát hiện ra thực chất về
tâm lý con người và chức năng thực sự của tâm lý trong cuộc sống, trong hoạt động của con
người. 

II. Lý thuyết tâm lý học hành vi của Watson

5


1. Thuyết hành vi
Hành vi có thể quan sát được, cịn tâm trí thì khơng
Tâm lý học ra đời khi Wilhelm Wundt khai trương phịng thí nghiệm đầu tiên vào năm
1879 với sự quan tâm đặc biệt vào các khối cấu trúc trí tuệ và chun tâm nghiên cứu nó.
Điều này tác động rất lớn vào hướng phát triển của tâm lí học mấy thập kỉ tiếp theo khi chú
trọng đến tâm trí, nhận thức theo hướng nội quan. Ví dụ, Wundt và các người theo ơng dựa
trên phân tích cảm giác của đối tượng nghiên cứu miêu tả cho họ, từ đó họ nghĩ là chìa khóa
để phân tích cấu trúc của tâm trí. Tuy nhiên, phương pháp nội quan bị giới chun mơn chỉ
trích bởi thiếu khoa học vì chỉ phụ thuộc vào việc tự báo cáo của các đối tượng, có thể bị sai
lệch, thay vì dựa trên các phép đo khách quan.
Không đồng ý với phương pháp đang được sử dụng của tâm lí học, Watson đã đưa ra
thuyết tâm lý học hành vi của mình. Trong lý thuyết của mình, Watson gạt bỏ việc xem xét
nội tâm và đánh giá chủ quan của vô thức và trạng thái tinh thần bên trong vì cho rằng
chúng khơng thể mang đến những đánh giá khách quan. Ơng không quan tâm đến việc mô
tả, giảng giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của con người
thực hiện trong cuộc sống. Từ đó, ơng xác định đối tượng của tâm lý học hành vi là hành vi
con người và hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của
mơi trường bên ngồi. Như thế, tâm lý học từ việc chỉ tìm hiểu nội quan được nới rộng ra để
nghiên cứu từ phía bên ngoài.
Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi hành vi là do ngoại
cảnh quyết định, có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan. Nhiệm vụ
của các nhà tâm lí học cần mơ tả và lượng hóa các hành vi đó, đúng như nó diễn ra trong
tình huống xác định.
Hành vi là kết quả của kích thích gây phản ứng
Watson cho rằng tâm lý chỉ là các dạng hành vi khác nhau. Áp dụng kết quả của thí

nghiệm về q trình điều hịa cổ điển ở lồi chó của Pavlov, ơng xác định hành vi là tập hợp
các phản ứng của cơ thể (R) đáp lại các kích thích từ mơi trường bên ngồi (S) theo một
cơng thức nhất định diễn tả qua mơ hình kích thích (S) -> phản ứng (R). Hành vi = kích
thích – phản ứng. Vì thế, hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ
thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó. Do đó, phương pháp mà Watson đưa ra là quan sát

6


khách quan và thực nghiệm các phản ứng của cơ thể khi có tác nhân kích thích, nhằm mục
đích xác định tương quan giữa kích thích và phản ứng. Watson cũng lấy nguyên tắc “thử sai” làm nguyên tắc để xây dựng các thực nghiệm điều khiển hành vi. Tức dựa trên các thay
đổi có điều kiện và theo lộ trình, nhà tâm lí học điều chỉnh các cơ chế kích thích cho tới khi
xác lập được các phản ứng phù hợp, luyện tập và củng cố nó.
Hầu hết các thực nghiệm của Watson trước hết được thực hiện trên động vật (chuột
bạch, chim bồ câu) theo lộ trình thực nghiệm bốn phương pháp: quan sát, phản xạ có điều
kiện, thử nghiệm và các báo cáo bằng lời. Khi đã có được kết quả thì được ứng dụng trên
con người. Theo Watson, mọi phản ứng, hành vi được phân loại theo hai tiêu chí: là phản
ứng tiếp thu hay di truyền; phản ứng bên trong hay phản ứng bên ngoài. Kết quả, ông đã
phân chia hành vi mà con người thực hiện thành bốn loại gồm:
-

Hành vi bên ngoài hay tiếp thu nhìn thấy được: nói, viết, chơi trị chơi,

-

Hành vi bên trong và tiếp thu nhưng ở dạng giấu kín: suy nghĩ, tư duy,

-

Hành vi tự động minh nhiên tức bên ngồi nhìn thấy được và di truyền: nháy mắt, khịt

mũi,... cũng như các phản ứng yêu thương, cáu giận,...

-

Hành vi tự động mặc nhiên tức bên trong giấu kín và di truyền, là phản ứng các tuyến
nội tiết: sự tiết dịch và các biến đổi về tuần hoàn. Ông còn phân biệt giữa phản ứng
bản năng và phản ứng cảm xúc nơi con người.
Hành vi là kết quả của mơi trường sống
Watson cũng cho rằng, kích thích có thể là một tình huống tổng qt của mơi trường

hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật, phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật làm
và nó bao gồm sự liên kết phức tạp. Dù có một số khác biệt di truyền có thể ảnh hưởng đến
tính cách con người, tuy nhiên ơng vẫn cho rằng kinh nghiệm mới là thứ quyết định chính
con người đó là người như thế nào. Nghĩa là sự liên kết giữa các phản xạ cơ thể với tình
huống thực tế trong cuộc sống dần làm nên những điểm khác biệt giữa con người. Con
người là tồn tại xã hội, tức là cơ thể làm việc, tương tác theo sự thích nghi với mơi trường
xung quanh; từ đó tạo ra một tổ hợp phản ứng phức tạp, tổ hợp lại thành các tập hợp phản
ứng và với các hành vi cổ điển thì các tập hợp ấy được thực hiện chung bởi hệ thống chung
của các điều kiện. Chính vì thế, Watson coi con người như là “một cơ thể phản ứng” hay là
“một cái máy sinh học nghiêm túc”. Đồng thời, Watson gạt bỏ những ý tưởng liên quan đến

7


bản năng và cho rằng đó chỉ là những phản xạ cơ bản của trẻ sơ sinh, mặc dù trước đó ơng
thường viết về bản năng trong lý thuyết của mình.
Watson cũng tin rằng những cảm xúc cơ bản có tính di truyền của con người bao gồm
sợ, yêu, giận và đó cũng chính là nguồn bắt đầu của những cảm xúc khác được khơi dậy bởi
những kích thích khác. Theo Watson, ba khía cạnh quan trọng của cảm xúc là các kích thích
khơi dậy cảm xúc, các phản ứng bên trong, các phản ứng bên ngoài.

Việc học tập ở người có thể được điều khiển
Qua các kết quả rút ra từ thực nghiệm, Watson cho rằng cơ sở sinh lí thần kinh được
quan tâm trong các thực nghiệm là phản xạ có điều kiện. Vì thế, về cơ bản, hành vi con
người là có thể điều khiển và thay đổi dựa trên sự thay đổi kích thích lên cơ thể để hình
thành các mối liên hệ “cơ thể - mơi trường”. Việc coi nhẹ tính tích cực của chủ thể, đề cao
vai trị của kích thích bên ngồi trong việc tạo ra các phản ứng, Watson nghiên cứu và điều
khiển việc hình thành hành vi trí tuệ được quy về việc nghiên cứu tạo ra mơi trường các
kích thích, được sắp xếp theo logic cho phép hình thành các phản ứng mong muốn, tức q
trình “điều kiện hóa hành vi”.
Điều này được thể hiện rõ qua phát biểu của Watson rằng: “Hãy cho tôi một tá trẻ em
khỏe mạnh, phát triển bình thường và thế giới của riêng tơi, trong đó tơi có thể chăm sóc
cho chúng và tơi cam đoan rằng khi chọn một cách ngẫu nhiên một đứa trẻ, tơi có thể biến
nó thành một chun gia bất cứ lĩnh vực nào – một bác sĩ, một luật sư, một thương gia hay
thậm chí một kẻ trộm cắp hạ đẳng – không phụ thuộc vào tư chất và năng lực của nó, vào
nghề nghiệp và chủng tộc của cha ơng nó”. 1 Theo đó, Watson muốn thực hiện một trong
những nhiệm vụ hàng đầu của tâm lý học là điều khiển hành vi con người sao cho thỏa mãn
nhu cầu xã hội. Với Watson, con người được xây dựng nên, chứ không phải tự sinh ra; nhân
cách là sự sáng tạo của con người, chứ không phải là bẩm sinh. 2 Ông đã thực hiện tất cả
những điều trên qua một thí nghiệm gây tranh cãi nhiều trong lịch sử tâm lí học – thí
nghiệm Little Albert.

1
2

Dẫn theo Herganhan B.R, 2003, tr. 473-474
Xem Tâm lí học, tr. 71

8



2. Thí nghiệm “Little Albert” và ý nghĩa của thí nghiệm
Dựa trên thí nghiệm về q trình điều hịa cổ điển ở lồi chó của nhà sinh lý học người
Nga Pavlov tạo ra phản xạ có điều kiện, Watson đã phát triển thí nghiệm này sang một bước
tiến mới khi cho rằng phản ứng cảm xúc có thể được điều hịa ở người và qua thí nghiệm
này ơng cũng minh chứng kết quả lý luận được ông kết luận trong lý thuyết của mình.
Quá trình thực hiện “Little Albert”
Watson đã cùng với cộng sự của mình là nữ sinh viên Rosalie Rayner tiến hành thí
nghiệm ở một đứa bé trai 9 tháng tuổi là “Albert B.”, sau này được biết đến nhiều hơn với
tên gọi “Little Albert”. Watson và Rayner đã cho Albert tiếp xúc với các loài động vật cũng
như một loạt các tác nhân kích thích khác như chuột trắng, thỏ, khỉ, mặt nạ và các tờ báo
cháy và quan sát phản ứng của cậu bé. Ban đầu cậu bé tỏ ra bình tĩnh và khơng hề có một
biểu hiện sợ hãi nào đối với những đồ vật hay hiện tượng xung quanh.
Những lần sau đó, Watson đã tiến hành tạo ra những kích thích khác đồng thời với
những tác nhân kích thích cũ tương tự như cách làm của Pavlov. Ví dụ như trong thí nghiệm
của Pavlov, ông thực hiện việc rung chuông trước khi cho chó ăn, từ đó tạo nên phản xạ có
điều kiện ở chú chó khi nhìn thấy cái chng được rung sẽ tự động chảy nước bọt ngay cả
khi thức ăn không xuất hiện. Watson đã bắt đầu tạo ra những âm thanh ồn ào phía sau
Albert bằng cách dùng búa đập vào những thanh thép khi cho đứa bé ở trong một không
gian riêng biệt với con chuột. Ngay lập tức, Albert đã bật khóc để phản ứng lại với tiếng ồn.
Những lần sau đó, khi được nhìn thấy con chuột, Albert đã bắt đầu khóc dù cho chẳng
có tiếng động nào được tạo ra. Ngồi ra, đứa bé cịn có phản ứng tương tự với những vật có
lơng và màu trắng tương tự, ví dụ như chiếc áo khốc lơng hay bộ râu của ông già Noel. Nỗi
sợ hãi này bắt đầu mờ đi khi thời gian trôi qua, tuy nhiên sự liên kết có thể được tái tạo bằng
cách lặp lại quy trình ban đầu một vài lần. Watson và Rayner ghi chép lại: “Ngay khi con
chuột xuất hiện, đứa bé bắt đầu khóc. Gần như ngay lập tức nó quay ngoắt sang trái, ngã
nghiêng bên trái, nâng người lên bằng bốn chân và bắt đầu bò đi nhanh đến mức có thể thấy
được sự khó khăn của đứa trẻ trước khi nó chạm đến mép bàn.” (Cherry, 2019)

9



Ý nghĩa thí nghiệm
Dù khơng đi đến hồn tác, nhưng thí nghiệm “Little Albert” đã chứng minh rằng điều
hịa cổ điển của Ivan Pavlov có thể xảy ra trong quá trình điều chỉnh cảm xúc của con người
giữa các tác nhân kích thích và hành vi khơng liên quan trong mơi trường. Như vậy, điều
hịa cổ điển đóng vai trị trung tâm trong việc phát triển các nỗi sợ hãi. Watson cũng đã thực
hiện các thí nghiệm khác và chứng minh rằng những cảm xúc của con người rất dễ chịu tác
động của điều kiện hóa. Đây là một phát hiện mới, vì những thực nghiệm kích thích – phản
ứng trước đây chỉ tập trung vào việc kiểm chứng quá trình học hành vi thể lý. Watson đã
khám phá ra khơng chỉ việc hành vi con người có thể dự đốn được – với những kích thích
và điều kiện nhất định – mà cịn có thể bị kiểm sốt và thay đổi. 3 Theo đó, dù sự liên kết
giữa hai tác nhân kích thích có điều kiện ban đầu có thể cực kỳ mạnh mẽ, nhưng nó bắt đầu
mờ dần nếu không được củng cố, cho đến khi biến mất hồn tồn. Một số ám ảnh có thể
được phát triển dưới điều kiện của điều hịa cổ điển, ví dụ như khi một đứa trẻ chứng kiến
bạo lực gia đình, những hành động bạo hành kết hợp với những âm thanh chửi rủa có thể
phát triển thành một nỗi sợ thường trực đối với một đứa trẻ.
Từ đó, ơng đã tìm cách đạt được hiệu quả ngược lại: tìm ra phương pháp loại bỏ nỗi sợ
hãi chỉ bằng cách sử dụng các kỹ thuật điều hịa. Vì vậy, trong một thử nghiệm với một đứa
trẻ khác (Peter Little), Watson đã phát triển một trong những kỹ thuật được sử dụng rộng rãi
nhất hiện nay để điều trị chứng ám ảnh: giải mẫn cảm có hệ thống. Trong nghiên cứu này,
ơng đã loại bỏ hồn tồn thành cơng nỗi sợ thỏ của Peter.
Từ đó, Watson đã đưa ra những quan điểm cho việc giáo dục trẻ em qua cuốn sách
“Giáo dục tâm lý trẻ em” (năm 1928), trong đó mơ tả những quy tắc chặt chẽ của hệ thống
giáo dục trẻ em – hệ thống điều kiện hình thành ở trẻ những mối liên hệ bền vững với môi
trường xung quanh. Cuốn sách có nhiều chỉ dẫn về giáo dục trẻ em theo tinh thần thuyết
hành vi như cấm cha mẹ khơng được ơm hơn trẻ hay chỉ có thể bắt tay, xoa đầu trẻ khi nó
hồn thành tốt một nhiệm vụ khó khăn vì sẽ tạo nên những liên kết quá ủy mị và ngọt ngào.
Theo đó, Watson cho rằng những năm đầu đời rất quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của
một người. Vì vậy, ơng khuyến nghị các bậc cha mẹ không nên yêu thương con cái một
cách thái quá, để chúng có thể phát triển các kỹ năng cần thiết để hoạt động một cách đầy đủ

trên thế giới.
3

Xem Tâm lí học, tr. 70.

10


3. Ứng dụng khác trong quảng cáo của Watson: “Coffee – break”
Sau khi rời khỏi học viện vì những bê bối cá nhân, Watson đã dành một thời gian dài
làm việc trong lĩnh vực quảng cáo. Ông đã ứng dụng thành cơng học thuyết của mình vào
cơng việc, góp phần phát triển một loạt các kỹ thuật tiếp thị và thuyết phục nhằm cải thiện
doanh số bán hàng. Trong những năm 1920, Watson đã áp dụng hiểu biết về hành vi con
người vào quảng cáo, từ đó chứng minh con người có thể bị tác động để mua sản phẩm vì
hình ảnh quảng cáo chứ khơng phải vì nội dung của chúng. Với việc áp dụng các kỹ thuật
của thuyết hành vi, đặc biệt là công thức ba tác nhân kích thích: nỗi sợ hãi, giận dữ và tình
u để thúc đẩy hành vi tiêu dùng, Watson đã khởi xướng nhiều chiến dịch quảng cáo thành
công. Đặc biệt, trong các chiến dịch quảng cáo cho cà phê vào năm 1921 và những năm
1952, trên cơ sở sử dụng các kỹ thuật điều hòa cổ điển kết hợp ý tưởng về giờ nghỉ giải lao
uống cà phê, Watson đã cho ra đời thuật ngữ “coffee-break” và định hình nó như một nét
văn hóa, lối sống của người Mỹ lúc bấy giờ. Qua các chiến dịch quảng cáo do John Board
Watson thực hiện, “coffee-break” nhanh chóng được phổ biến, trở thành một vấn đề mang
tính quốc gia và là một trong những nền tảng quan trọng trong đời sống của người lao động
Mỹ thế kỷ 20.4
III. Đánh giá
1. Ưu điểm
Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng làm thay đổi cơ bản hệ thống quan
niệm tâm lý học những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX về cả mặt đối tượng là
hành vi chứ không chỉ là ý thức và về phương pháp là các quan sát và thực nghiệm khách
quan chứ không dừng lại ở nội quan. Điều này mở ra sự phát triển của tâm lý học theo

hướng là một khoa học thực nghiệm. Những giá trị của các tiếp cận tâm lí từ hành vi đã góp
phần đưa tính chặt chẽ khoa học, khách quan vào việc nghiên cứu trí tuệ con người. Thật
vậy, ngày nay muốn nghiên cứu khách quan tâm lí cá nhân thì yếu tố hành vi của đối tượng
là nội dung cần phải được nghiên cứu.
Thuyết hành vi có nền tảng dựa trên hành vi quan sát được nên chúng ta sẽ cảm thấy
dễ dàng trong việc định lượng và thu thập số liệu khi tiến hành nghiên cứu. Các kỹ thuật

Xem bài viết: “Kỳ 91: John Broadus Watson và văn hóa “coffee break” biểu dương lối sống sáng tạo.”, Báo
Thanhnien.vn, ngày 17/12/2022.
4

11


điều trị có hiệu quả như can thiệp sâu vào hành vi, phân tích hành vi, phương pháp tặng
thưởng có giá trị kinh tế và huấn luyện tập sự riêng biệt đều có gốc rễ từ thuyết hành vi.
Cơng việc của Watson đã có ảnh hưởng rất rõ rệt đến cuộc tranh luận về ảnh hưởng
của di truyền và học tập đối với hành vi của con người. Trong vài thập kỷ tiếp theo, lý
thuyết về tabula rasa – tấm bảng trắng của ông đã chiếm ưu thế trong lĩnh vực tâm lý học
do những đóng góp của mình. Nó đã tác động rất lớn đến giáo dục nước Mỹ qua việc cách
thức xây dựng các hệ thống trường học và quan niệm tương tác cảm xúc của các thành viên
gia đình với trẻ nhỏ.
Mặc dù tâm lý học hành vi giữ vai trị là học thuyết nền tảng, khơng còn phát triển
mạnh mẽ như trước đây nhưng những nguyên lý của nó vẫn cịn rất quan trọng. Phân tích
hành vi vẫn thường được sử dụng như một kỹ thuật trị liệu giúp trẻ bị tự kỷ và chậm phát
triển trí tuệ học những ký năng mới. Theo đó, muốn huấn luyện 1 chức năng tâm lí nào đó
phải đưa chủ thể vào trong các điều kiện xác định, tức là phải tường minh hoá nội dung dạy
học theo một quy trình chặt chẽ để qua đó có thể quan sát và kiểm sốt được q trình hình
thành các hành vi tâm lí của người học. Điều này thường gắn liền với các quá trình định
hình (khen thưởng để đạt được hành vi mong muốn) và xâu chuỗi (chia công việc thành các

phần nhỏ hơn rồi áp dụng hướng dẫn xâu chuỗi các bước lại với nhau). Tuy nhiên, ta cũng
cần phải tránh sự cực đoan hố yếu tố mơi trường kích thích, coi nhẹ vai trị chủ thể người
học vì sẽ dẫn đến sự "định mệnh xã hội” trong dạy học và phát triển.
Đặc biệt, học thuyết hành vi đã được nghiên cứu và áp dụng rất thành công trong tâm
lý học hiện đại khi được chỉnh sửa và kết hợp với những trường phái khác. Đóng góp rất lớn
trong tư vấn tâm lý: tiếp cận thân chủ, trị liệu hành vi, trị liệu tâm lý, quản lý nhân sự, điều
hành con người, phương pháp giáo dục… Trị liệu hành vi được ứng dụng khá rộng rãi trong
trị liệu, tham vấn, đặc biệt với những người mong muốn thay đổi hành vi không phù hợp.
Những trường hợp thường được sử dụng trị liệu hành vi có hiệu quả cao như: rối loạn ám
sợ, stress, trẻ em với những rối nhiễu tâm lý, cảm giác tuyệt vọng, rối nhiễu tình dục…
Người ta hay sử dụng nó trong những vấn đề liên quan đến lão khoa, nhi khoa, hóa giải
stress, điều chỉnh hành vi. Trong một số lĩnh vực khác như kinh doanh quản lý hay giáo dục
cũng có thể sử dụng liệu pháp này. Thời gian can thiệp bằng liệu pháp này khơng dài, nhưng
có thể đem lại những kết quả mong muốn do vậy nó được áp dụng rộng rãi.

12


2. Khuyết điểm
Nhiều nhà phê bình cho rằng thuyết hành vi là một cách tiếp cận một chiều để hiểu
hành vi của con người. Thuyết hành vi chỉ tập trung vào các hành vi có thể quan sát được
nên đã hoàn toàn bỏ qua các hiện tượng khác như cảm xúc hoặc suy nghĩ, bởi nó khơng thể
đo lường chúng theo kinh nghiệm. Hơn nữa, theo quan điểm này, người ta cho rằng cả cảm
xúc và suy nghĩ đều không ảnh hưởng gì đến cách hành động, vì vậy chúng bị loại bỏ vì
khơng thích hợp. Mặc dù điều này cho phép nhiều tiến bộ trong nghiên cứu về hành vi của
con người, nhưng cuối cùng nó cũng dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa hành vi. Vì con người
là một thể thống nhất có ý chí tự do và chịu những ảnh hưởng bên trong như tâm trạng, suy
nghĩ và cảm xúc. Ví dụ, Freud cho rằng chủ nghĩa hành vi đã thất bại khi khơng tính đến
những suy nghĩ, cảm xúc và mong muốn của tâm trí vô thức ảnh hưởng đến hành động của
con người. Các nhà tư tưởng khác, chẳng hạn như Carl Rogers và các nhà tâm lý học nhân

văn khác tin rằng thuyết hành vi q cứng nhắc và hạn chế, khơng tính đến quyền tự quyết
của cá nhân. Ngày nay, các nhà nghiên cứu nhận ra rằng để hiểu con người, điều cần thiết là
phải hiểu thế giới bên trong của họ.
Chủ nghĩa hành vi chỉ để ý đến hành vi chứ khơng để ý tìm hiểu ngun nhân, nguồn
gốc của các hình thái hành vi ấy. Thuyết này loại trừ hồn toàn hành vi cấp cao như ý thức
và sự phát triển của ý thức. Trong quá trình xây dựng tâm lý học hành vi, hầu hết các nhà
hành vi đều đánh mất phạm trù hành vi, mà chuyển nó thành phạm trù phản ứng.
Gần đây hơn, tâm lý học sinh học đã nhấn mạnh vai trò của não bộ và di truyền học
trong việc xác định và ảnh hưởng đến hành động của con người. Cách tiếp cận nhận thức
đối với tâm lý học tập trung vào các quá trình tinh thần như suy nghĩ, ra quyết định, ngôn
ngữ và giải quyết vấn đề. Trong cả hai trường hợp, chủ nghĩa hành vi bỏ qua những quá
trình và ảnh hưởng này để chỉ nghiên cứu những hành vi có thể quan sát được.
Tâm lý học hành vi cũng không giải thích cho các loại hình học tập khác xảy ra mà
không sử dụng biện pháp củng cố và trừng phạt. Hơn nữa, con người và động vật có thể
thích nghi với hành vi của mình khi thơng tin mới được đưa vào, ngay cả khi hành vi đó đã
được thiết lập thông qua việc củng cố. Đồng thời việc tâm lý học hành vi đã đồng hóa hành
vi của con người và hành vi của động vật. Phương pháp tiếp cận chỉ là quan sát được từ bên
ngoài làm dữ liệu duy nhất. Điều này dẫn tới phương pháp luận của thuyết hành vi không
lưu ý nhiều tới mặt đạo đức, luân lý con người mà chỉ xem xét con người có thích hợp với

13


việc này việc kia hay không, biến con người không cịn là người chủ nữa mà thành người
thực hiện.
Kết luận
Nhìn chung, John B. Watson và những nghiên cứu của ông đã để lại những dấu ấn
đặc sắc cho Tâm lý học. Mặc dù sự nghiệp học tập của ông rất ngắn, nhưng di sản của
Watson đã được tranh luận sôi nổi trong gần một thế kỷ. Watson đã giúp xác định nghiên
cứu về hành vi và tâm lý học là một khoa học, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học

và ảnh hưởng của bối cảnh đến sự phát triển của con người.

14



×