Thời kỳ Trung cổ (từ năm 400 đến 1400)
Trong thời kỳ Trung cổ, xã hội châu Âu gồm có 3 giai cấp, giai cấp cao
nhất là tầng lớp vua chúa, quý tộc và địa chủ. Họ sở hữu ruộng đất và
được hưởng nhiều đặc quyền. Những huyền thoại về các hiệp sĩ oai hùng
cũng xuất phát từ tầng lớp này. Giai cấp thứ hai là giới tăng lữ, gồm các
linh mục và tu sĩ thuộc các nhà thờ Công giáo. Tầng lớp thứ ba gồm tất cả
những thành phần còn lại: nông dân, dân nghèo thành thị, nông nô ..v.v…
Vào thời kỳ này, những trung tâm âm nhạc lớn đều thuộc nhà thờ.
Trong suốt thời kỳ Trung cổ, cho đến năm 1100, dòng nhạc chủ điệu
(monophonic: chỉ gồm một bè chính) chiếm ưu thế. Khi cuộc sống được cải
thiện và văn minh hơn, người ta bắt đầu chú ý đến con người. Vào cuối
thời kỳ Trung cổ, dòng nhạc phức điệu (polyphony: nhiều bè chính diễn tấu
cùng lúc) bắt đầu phát triển.
Hai nhạc sĩ nổi tiếng nhất của dòng nhạc phức điệu thời kỳ đầu là Leonin
và Perotin thuộc Nhà thờ Đức Bà Paris. Sau đó có thêm nhạc sĩ Guillaume
de Machaut.
Âm nhạc nhà thờ
Trong thời kỳ Trung cổ, nhà thờ chiếm vị trí quan trọng trong đời sống. Vì
vậy, âm nhạc nhà thờ chiếm địa vị độc tôn từ khoảng năm 350 cho đến
năm 1100, hầu hết các bản nhạc đều xuất phát từ các tu viện. Điều này có
nghĩa là đa số các nhạc sĩ là các tu sĩ, linh mục thuộc nhà thờ Thiên Chúa
giáo. Những tu sĩ này tin rằng tài năng của mình do Thượng đế ban cho,
những gì họ sáng tác đều nhằm mục đích tơn vinh Thượng đế. Vì vậy,
những tác phẩm thời kỳ này hầu hết đều không ghi tên tác giả.
Âm nhạc nhà thờ gọi là bình ca (plainsong), chỉ gồm một giai điệu chính
với lời hát bằng tiếng Latin, khơng có nhạc cụ đệm. Giai điệu của bình ca
đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc. Lời ca thường là một phần của lễ ca (messe)
Thiên Chúa giáo La Mã.
Những bài hát còn lưu truyền đến nay được biết dưới tên gọi bài hát
Gregorian (Gregorian chant), lấy theo tên của giáo hoàng Gregory đệ nhất
(590-604). Ơng đã có cơng tập hợp các bài bình ca theo một trật tự đặc
biệt rồi truyền bá khắp châu Âu và đế quốc La Mã.
Đàn Grand Organ
Âm nhạc thế tục
Âm nhạc thế tục thời kỳ này chủ yếu là dân ca, đơn giản hơn âm nhạc nhà
thờ, gồm các bài ca, điệu nhạc chủ điệu (monophonic) do những người hát
rong trình diễn. Những người hát rong thời Trung cổ được gọi là jongleur
(theo tiếng Anh), troubadour hoặc trouvère (theo tiếng Pháp), và
minnesinger (theo tiếng Đức).
Những người hát rong lang thang từ tòa thành này đến tòa thành khác, ca
hát, kể chuyện và diễn trò. Giống như bình ca, nhạc thế tục cũng rất đơn
giản với một giai điệu chính. Tuy nhiên, tiết tấu của chúng nhanh hơn nhạc
nhà thờ và không dùng lời ca tiếng Latin. Những người hát rong dần dần tụ
họp lại thành các phường, hội, và được xếp vào giới trung lưu trong xã hội.
Những bài hát của người hát rong thường có nhạc cụ dây và trống đệm
theo. Cả âm nhạc nhà thờ và âm nhạc thế tục đều sử dụng nhiều loại nhạc
cụ khác nhau, ví dụ như đàn dây gồm có lyre, psaltery, fiddle hoặc vielle.
Đàn phím thời kỳ này chính là organ. Nhạc cụ gõ gồm có trống và chuông
nhỏ.
Đàn vielle.
Đàn psaltery
Đàn Lyre
Nhạc phức điệu
Trước đó, tất cả các bài nhạc chỉ gồm một bè chính và khơng có bè phụ
(monophony). Sau đó, các nhạc sĩ bắt đầu cho nhiều bè diễn tấu cùng lúc,
các bè này đều có vai trị quan trọng như nhau. Đó chính là nhạc phức
điệu (polyphony).
Nhạc phức điệu mở rộng tư duy của nhạc sĩ, giúp họ sáng tạo tốt hơn.
Sumer is icumen in là một tác phẩm được viết khoảng năm 1300, cũng nổi
tiếng như bài Row, row your boat.
In ấn các bản nhạc
Trước khi phát minh ra máy in, trong nhà thờ có một đội ngũ tu sĩ chuyên
làm nhiệm vụ sao chép lại các bản nhạc. Thỉnh thoảng, người ta trình bày
bản nhạc bằng lối viết rất bay bướm, trang trí đẹp mắt.
Khoảng năm 1025, Guido d’Arezzo phát minh ra một hệ thống ký âm sử
dụng các dòng và khe nhạc. Cho đến lúc đó, người ta chỉ dùng khn nhạc
có 2 dịng kẻ. Guido đã mở rộng hệ thống này thành 4 dòng kẻ, và phát
minh ra các dòng kẻ phụ ở trên hoặc dưới khn nhạc. Ơng sử dụng
những nốt nhạc hình vng gọi là neume. Hệ thống này giúp ký âm những
nốt vượt ra khỏi phạm vi khuôn nhạc, và được sử dụng cho đến tận ngày
nay. Guido cũng là người phát triển hệ thống khóa nhạc, đặt nền tảng cho
những khóa nhạc hiện đại: khóa fa, khóa sol v.v…
Một cống hiến quan trọng khác của ơng là luận án về nhạc phức điệu. Đây
là cơng trình đầu tiên, mở đường cho các nhạc sĩ Leonin và Perotin về
sau.
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Trung cổ:
- Conon de Bethune
- La Comtessa Beatritz de Dia
- Hildegard von Bingen (1098-1179)
- Adam de la Halle
- Leonin (Leoninus) (c.1163-1201)
- Guillaume de Machaut (1300-1377)
- Perotin (Perotinus Magnus) (c.1160-1220)
- Wizlau von Rugen
- Hans Sachs
- Bernart de Ventadorn
- Maria de Ventadorn (1165-1221)
- Philippe de Vitry (1291-1361)
Thời kỳ Phục hưng (từ năm 1400 đến năm 1600)
Thời kỳ Phục hưng đánh dấu một giai đoạn hoàng kim trong lịch sử thế
giới. Những chuyến thám hiểm của Columbus và Francis Drake, tư tưởng
khoa học tiến bộ của Galileo và Copernicus dẫn dắt nhân loại đến một
chân trời mới. Các họa sĩ như Leonardo da Vinci và Michelangelo có ảnh
hưởng rất lớn trong hội họa, cũng như Shakespeare nổi tiếng với các vở
kịch và thơ.
Trong thời kỳ Phục Hưng, tầng lớp trung lưu phát triển mạnh. Ruộng đất
khơng cịn hồn tồn thuộc về giới q tộc. Dân số các thành thị gia tăng,
người ta bắt đầu giải trí bằng xem kịch và nghe nhạc. Việc truyền bá, giáo
dục âm nhạc được mở rộng hơn. Nhờ việc phát minh ra máy in năm 1450,
những bản nhạc được in ấn hàng loạt và phổ biến rộng rãi đến mọi người.
Cho đến năm 1600, những bản nhạc nổi tiếng đã được lưu truyền khắp
châu Âu. Tầng lớp trung lưu đã có thể tự học chơi nhạc cụ, thông qua
những quyển sách giáo khoa âm nhạc dạy thổi tiêu, đánh đàn lute và
guitar.
Các nhạc sĩ nổi tiếng như Josquin des Prez và Giovanni Palestrina đi đầu
trong công cuộc cách tân âm nhạc. Con người, chứ khơng phải Thượng
đế, trở thành đối tượng chính trong âm nhạc. Các nhạc sĩ chuyển hướng
sáng tác về phía cơng chúng. Kỹ thuật hịa âm đã làm thay đổi diện mạo
nền âm nhạc.
Âm nhạc nhà thờ
Âm nhạc nhà thờ thời kỳ Phục hưng là sự phát triển tự nhiên của thể loại
bình ca. Dạng nhạc phức điệu 2 bè đơn giản cuối thời Trung cổ được mở
rộng thành phức điệu 4 bè, trong đó mỗi bè đều quan trọng như nhau.
Hình thức mới này được gọi là motet. Trái với thời Trung cổ, trong giai
đoạn này âm nhạc được chú trọng hơn lời ca. Josquin des Prez và
Giovanni Palestrina là hai nhạc sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ Phục hưng về
thể loại motet.
Trong giai đoạn này, âm nhạc bắt đầu trở nên hoa mỹ hơn. Những bản lễ
ca (messe) và motet trở nên tinh vi, phức tạp hơn. Nhiều loại giọng được
đưa vào, các chương nhạc trở nên dài hơn và cầu kỳ hơn. Các nhạc sĩ bắt
đầu thích thể hiện phong cách hơn là truyền tải các thông điệp tôn giáo.
Những vị lãnh đạo nhà thờ bắt đầu lo ngại thính giả sẽ khơng hiểu được
tầm quan trọng của lời ca, và tại Hội đồng tôn giáo, họ đề nghị âm nhạc
nhà thờ phải dùng để minh họa cho lời ca. Điều này đánh dấu cho sự khởi
đầu của cấu trúc hài hòa giữa lời ca và giai điệu.
Đàn viol
Krumhorns
Đàn lute
Âm nhạc thế tục
Madrigal, những bài hát dành cho một nhóm nhỏ biểu diễn khơng nhạc
đệm, đã trở thành thể loại nhạc thế tục phổ biến nhất. Thường nói về tình
yêu, madrigal trở thành một phần quan trọng trong các dịp lễ hội đặc biệt.
Người ta thường hát madrigal trong những bữa tiệc, đám cưới và thường
có một đội hợp xướng họa theo. Cách hát này vẫn còn phổ biến đến tận
ngày nay.
Tác phẩm El Grillo của nhạc sĩ Josquin des Pres là một điển hình về
những cách tân âm nhạc trong thời kỳ này.
Những cải cách
Từ đầu thế kỷ 16, nhà thờ Tân giáo tách khỏi nhà thờ Công giáo kéo theo
những thay đổi mạnh mẽ về mọi mặt trong đời sống xã hội. Martin Luther
muốn tất cả các tín đồ của ơng cùng tham gia vào hoạt động âm nhạc. Vì
vậy, trong những nhà thờ Tân giáo, người ta sáng tác những bài thánh ca
cho mọi người cùng hát, chứ không chỉ dành cho dàn hợp xướng. Phong
cách hợp xướng mới này là nền tảng cho những bài thánh ca ngày nay.
Những bài thánh ca được viết cho người hát, nhưng 200 năm sau, Bach
đã ứng dụng hình thức này vào những tiểu phẩm cho đàn organ.
Có thể nói âm nhạc nhà thờ Thiên Chúa giáo thế kỷ 16 phát triển trên nền
tảng của bình ca, cịn âm nhạc nhà thờ Tân giáo thế kỷ 17 - 18 phát triển
từ thánh ca nhiều bè.
Khí nhạc
Trong thời kỳ Phục hưng, các nhạc sĩ bắt đầu viết phức điệu cho nhạc cụ
trình diễn. Những bài phức điệu này thường dành cho các vũ hội trong
dinh cơ của tầng lớp quý tộc. Ống tiêu (recorder) và đàn lute là 2 nhạc cụ
thông dụng nhất. Ống tiêu và đàn viol đủ kích cỡ diễn tấu thành từng nhóm
gọi là consort. Những nhạc cụ khác của thời Phục hưng là đàn lute, kèn
shawm, krummhorn, kèn trumpet và trombone loại nhỏ. Ngoài ra, nhạc cụ
thường dùng để đệm cho người hát. Nhạc sĩ Joan Ambrosia Dalza đã viết
3 vũ khúc rất nổi tiếng, đó là Tasta la corde, Ricercar, và Calata.
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Phục hưng:
- Jacob Arcadelt
- Gilles Binchois
- Jacopo da Bologna
- William Byrd (1543-1623)
- Francesca Caccini (1587-1640)
- William Cornysh
- John Dowland
- Guillaume Dufay (c.1400-1474)
- John Dunstable (c.1390-1453)
- Giovanni Gabrieli
- Carlo Gesualdo
- Orlando Gibbons (1583-1625)
- Heinrich Isaac
- Orlando di Lasso (1532-1594)
- Cristobal de Morales (c.1500-1553)
- Jacob Obrecht (c.1450-1505)
- Johannes Ockeghem (c.1410-1497)
-Giovanni Pierluigi da Palestrina (c.1525-1594)
- Michael Praetorius
- Josquin des Prez (c.1440-1521)
- Thomas Tallis (c.1505-1585)
- John Taverner
- Tomas Luis de Victoria (1548-1611)
- Thomas Weelkes
- Adrian Willaert
Thời kỳ Baroque (từ năm 1600 đến năm 1750)
Thời kỳ Baroque chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới. Galileo,
Kepler và Newton tìm ra những lý thuyết mới để giải thích về vũ trụ. Trong
âm nhạc, hội họa, kiến trúc và thời trang, những hoa văn trang trí cầu kỳ
hoa mỹ trở thành thời thượng. Cả phụ nữ và đàn ông đều đội tóc giả và
mặc trang phục viền đăngten.
Trong suốt thời kỳ Baroque, các nhạc sĩ tiếp tục phục vụ cho nhà thờ và
tầng lớp giàu có. Giới tăng lữ và quý tộc thuê mướn nhạc sĩ dưới hình thức
bảo trợ. Người bảo trợ trả thù lao cho nhạc sĩ theo từng tác phẩm, và có
quyền yêu cầu anh ta viết loại nhạc mà họ thích. Điều này làm giới hạn
quyền tự do sáng tạo của nhạc sĩ.
Những nhà soạn nhạc nổi tiếng trong thời kỳ Baroque gồm Johann
Sebastian Bach, George Frederic Handel, Johann Pachelbel, Georg Phillip
Telemann, Henry Purcell và Antonio Vivaldi.
Đặc điểm âm nhạc thời kỳ Baroque
Hình thức và thể loại: các vũ khúc rất phổ biến trong thời kỳ này. Ngồi ra
cịn có prelude, fugue, suite (tổ khúc), toccata và variation (biến tấu). Nhịp
đôi và nhịp ba thường được sử dụng.
Hịa âm: 2 hoặc nhiều giai điệu được trình tấu cùng lúc, tạo thành một kết
cấu âm nhạc gọi là đối âm. Hịa âm thường xun biến hóa. Điệu tính chủ
yếu dựa trên trưởng và thứ.
Đàn phím: Chủ yếu là đàn clavichord, harpsichord, và organ.
Tiết tấu: Nhấn vào phách mạnh, nhịp lấy đà, và thường xuyên thay đổi. Nốt
móc đơn, móc kép và chùm ba thường được sử dụng.
Phong cách: Dấu chia câu và ký hiệu diễn cảm không được sử dụng.
Những câu nhạc nhanh thường được đàn liền tiếng (legato), những câu
chậm hơn được đàn không liền tiếng (nonlegato). Dùng rất nhiều nốt hoa
mỹ.
Đàn harpsichord
Đàn viola
G.F. Handel
Các xu hướng của nhạc Baroque
Các nhạc sĩ như Johann Sebastian Bach đã tạo ra một xu hướng mới cho
nhạc Baroque bằng các bản nhạc phức điệu, gồm nhiều bè kết hợp và nối
tiếp nhau. Những giai điệu này thường có các nốt láy rền (trill) và láy
nhanh. Hợp âm dùng để đệm cho 1 hoặc nhiều bè được sử dụng nhiều.
Ngoài ra, các nhạc sĩ bắt đầu dùng các ký hiệu diễn tả cường độ và tốc độ
trong bản nhạc. Biểu diễn ứng tác (improvisation) cũng rất phổ biến, ngay
cả trong nhạc nhà thờ. Sau cùng, các nhạc sĩ bắt đầu dùng âm nhạc để
thể hiện những cảm xúc vui, buồn, giận dữ.
Thanh nhạc
Thời kỳ Baroque chứng kiến sự ra đời của thể loại nhạc kịch (opera). Một
vở opera có sự kết hợp của âm nhạc, diễn xuất, cảnh trí, phục trang và
đạo cụ. Các diễn viên hát theo kịch bản. Một số vở opera có tính chất
chính kịch (opera seria), một số vở mang sắc thái hài hước (opera buffa).
Vở opera đầu tiên là Orfeo của nhạc sĩ Claudio Monteverdi.
Tương tự opera là thể loại cantata. Giống như opera, cantata gồm những
bài hát (aria) và những đoạn hát nói (recitative) xen kẽ nhau. Tuy nhiên,
trong cantata khơng có diễn xuất sân khấu.
Khí nhạc
Trong thời kỳ Baroque, khí nhạc trở thành quan trọng không kém thanh
nhạc. Đây là giai đoạn nở rộ của các tác phẩm viết cho kèn flute, oboe,
bassoon, trombone, trumpet, horn, viết cho đàn harpsichord và organ. Ống
tiêu khơng cịn phổ biến, đàn viol được thay thế bằng violin, viola và cello.
Trống định âm (timpani) là nhạc cụ gõ duy nhất dùng trong các opera chính
kịch.
Hầu hết các tác phẩm khí nhạc đều gồm vài đoạn hoặc vài chương có tính
chất tương phản nhau. Concerto là một thể loại tiêu biểu. Concerto phát
triển vào nửa cuối thế kỷ 17, do công lao của các nhạc sĩ người Ý như
Torelli, Alessandro Scarlatti và Corelli. Chỉ trong vòng 25 năm, rất nhiều
nhạc sĩ ở các nước khác đã thành công với thể loại concerto. Một trong
những concerto nổi tiếng nhất là bản “Bốn mùa” của Antonio Vivaldi.
Concerto được trình diễn bởi một người hoặc một nhóm nhạc cơng độc
tấu. Concerto cho một nhóm trình diễn gọi là concerto grosso. Concerto
grosso được viết cho một nhóm nghệ sĩ độc tấu cùng với dàn nhạc,
thường gồm 3 chương (nhanh - chậm – nhanh).
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Baroque
Johann Sebastian Bach (1685-1750)
Dietrich Buxtehude
Arcangelo Corelli (1653-1713)
Francois Couperin (1668-1733)
Girolamo Frescobaldi
George Frideric Handel (1685-1759)
Elizabeth-Claude Jacquet de la Guerre (1659-1729)
Jean-Baptiste Lully
Claudio Monteverdi (1567-1643)
Jacopo Peri
Georg Phillip Telemann
Henry Purcell (1659-1695)
Jean-Philippe Rameau (1683-1764)
Alessandro Scarlatti
Heinrich Schutz (1585-1672)
Antonio Vivaldi (1678-1741)
Điểm đáng chú ý trong 2 thời kì này là phụ nữ khơng được hát cơng khai vì
thế để có giọng soprano, mezzo-soprano, hay alto người ta phải đào tạo
những cậu bé từ thời khoảng 6 7 tuổi sau đó hoạn chúng để giọng chúng
không bị thay đổi.
Tầng lớp ca sĩ này gọi là castrato. Họ thường là người giàu có và được
nhiều phụ nữ theo đuổi (=)) khơng có cái đó mà lại vẫn có phụ nữ thay đuổi
mới lạ).
Thời kỳ Cổ điển (từ năm 1750 đến năm 1820)
Thời kỳ Cổ điển chứng kiến nhiều sự thay đổi của thế giới. Cách mạng tư
sản Pháp và những cuộc chiến của Napoleon làm thay đổi diện mạo châu
Âu. Nhân dân mọi tầng lớp có nhiều cơ hội để tham gia vào các hoạt động
giải trí. Vì vậy, chế độ bảo trợ nhạc sĩ thời Baroque bị xóa bỏ, thay vào đó
là những buổi hịa nhạc có bán vé cho đơng đảo công chúng thưởng thức.
Phong cách quý phái, hoa mỹ của nhạc Baroque khơng cịn được ưa
chuộng, âm nhạc thời kỳ Cổ điển trở nên đơn giản hơn, hài hòa và khơng
cịn cầu kỳ. Tên của các bản nhạc được đặt rõ ràng, trực tiếp theo kiểu
“Bản giao hưởng số 1, số 2, số 3”, khơng cịn mang những cái tên bay
bướm. Được mệnh danh là “âm nhạc thuần túy”, các tác phẩm cổ điển
được trình diễn độc lập trong các buổi hịa nhạc, khơng dùng để minh họa
cho các điệu múa hoặc phục vụ cho các lễ hội.
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Cổ điển là Wolfgang Amadeus Mozart,
Franz Joseph Haydn và Ludwig van Beethoven. Vienna (thủ đô nước Áo)
trở thành trung tâm âm nhạc của châu Âu, hầu hết các nhạc sĩ nổi tiếng
đều có thời gian sinh sống tại đây.
Đặc điểm âm nhạc thời kỳ Cổ điển
Hình thức và thể loại: Phổ biến nhất là minuet và trio, rondo, sonata-
allegro, sonatina và variation. Ngồi ra cịn có các concerto và nhạc múa.
Hịa âm: thường gồm một giai điệu chính và bè đệm. Những đoạn phô diễn
kỹ thuật và thay đổi hợp âm thường được sử dụng.
Đàn phím: phổ biến nhất là pianoforte và harpsichord.
Tiết tấu: các dấu lặng, nốt móc kép và chùm ba thường được dùng. Trong
hình thức biến tấu, một tốc độ duy nhất được duy trì trong cả bài.
Phong cách: cường độ đa dạng và tương phản cao (to và nhỏ). Dấu luyến
2 nốt, luyến 3 nốt, dấu nhấn rất phổ biến. Câu nhạc có độ dài trung bình.
Khí nhạc
Trong thời kỳ Cổ điển, khí nhạc phát triển mạnh hơn thanh nhạc. Nhiều
nhạc cụ được bổ sung vào cơ cấu dàn nhạc, bao gồm kèn flute, clarinet,
oboe và bassoon.
Ba hình thức khí nhạc phát triển mạnh nhất là concerto, symphony (giao
hưởng) và sonata. Concerto thời kỳ Baroque tiến hóa thành concerto Cổ
điển. Nghệ sĩ độc tấu giữ vai trò chủ đạo, còn dàn nhạc làm nền. Mọi loại
nhạc cụ trong dàn nhạc đều có những bản concerto dành riêng cho mình.
Concerto grosso của thời kỳ Baroque phát triển thành giao hưởng Cổ điển
(symphony). Danh từ “symphony” có nghĩa là “cùng diễn tấu”, bản giao
hưởng dành cho cả dàn nhạc cùng biểu diễn đồng thời. Symphony gồm 3
chương (nhanh - chậm - nhanh), thỉnh thoảng có bổ sung thêm một
chương mang tính chất của nhạc múa vào trước chương cuối. Nhạc sĩ
Franz Joseph Haydn là người viết nhiều symphony nhất (104 bản
symphony).
Sonata được viết cho 1 hoặc 2 nhạc cụ trình diễn. Hầu hết các bản sonata
đều viết cho đàn piano - nhạc cụ thịnh hành nhất thời đó.
Hình thức sonata
Trong thời kỳ Cổ điển, các bản symphony, concerto và sonata đều được
sáng tác bằng hình thức sonata. Các nhạc sĩ coi sonata là cấu trúc chuẩn
mực cho tác phẩm của mình. Hình thức sonata ngày càng được sử dụng
rộng rãi.
Ban đầu, thuật ngữ “sonata” dùng để chỉ các tác phẩm sáng tác cho nhạc
cụ. Một bản sonata ngắn gọi là sonatina. Đến cuối thế kỷ 18, hình thức
sonata ngày càng được hoàn thiện, bao gồm 3 đến 4 chương có tính chất
tương phản nhau, trong đó chương 1 có cấu trúc chặt chẽ nhất.
Chương 1 là điển hình cho cấu trúc nghiêm ngặt của sonata, gồm 3 đoạn.
Đoạn 1 là phần “trình bày”, giới thiệu các giai điệu chủ đề. Chủ đề 2
thường cao hơn 5 nốt so với chủ âm. Đoạn 2 gọi là phần “phát triển”, trong
đoạn này các chủ đề chính biến hóa theo sáng tạo của nhạc sĩ. Đoạn 3 gọi
là phần “tái hiện”, các chủ đề được trình bày lại, nhưng tất cả đều ở chủ
âm. Đơi khi, bản sonata cịn có thêm phần mở đầu và phần kết.
F.J Haydn
Mozart
Beethoven
Giao hưởng thời kỳ Cổ điển
Đây là giai đoạn đánh dấu sự vượt trội của khí nhạc so với thanh nhạc.
Dàn nhạc giao hưởng hiện đại ra đời, có bổ sung thêm nhiều nhạc cụ dây,
kèn clarinet, bassoon, oboe và flute. Kèn trumpet và horn chưa có van bấm
điều chỉnh cao độ, nhưng vẫn đáp ứng được quy luật hòa âm trong dàn
nhạc, vì vậy chúng thay thế cho đàn harpsichord trong dàn nhạc giao
hưởng. Tuy nhiên kèn trombone, tuba và một số nhạc khí gõ vẫn chưa có
mặt trong dàn nhạc.
Một bản giao hưởng (symphony) là một tác phẩm dài do dàn nhạc diễn
tấu, thông thường gồm 4 chương. Mỗi chương có tốc độ, sắc thái và
phong cách rất khác nhau.
Franz Joseph Haydn được coi là cha đẻ của giao hưởng. Ông sáng tác
tổng cộng 104 bản giao hưởng. Beethoven viết 9 bản giao hưởng, trong đó
bản số 5 và số 9 là nổi tiếng nhất.
Thanh nhạc
Opera là thể loại thanh nhạc phổ biến nhất trong thời kỳ Cổ điển. Các vở
opera thời kỳ này đáp ứng nhu cầu thưởng thức của tầng lớp giàu có trong
xã hội, vì vậy chúng được đầu tư rất tốn kém. Hai phong cách opera: opera
seria và opera buffa tiếp tục phát triển. Opera buffa trở nên phổ thông hơn,
nhờ những cống hiến của Mozart trong việc phát triển phong cách hài
hước. Những vở opera nổi tiếng của Mozart là Đám cưới Firaro và Cây
sáo thần.
Các nhạc sĩ tiêu biểu cho thời kỳ Cổ điển:
- Carl Philipp Emmanuel Bach
- Johann Christian Bach (1735-1782)
- Ludwig van Beethoven (1770-1827)
- Christoph Willibald Gluck (1714-1787)
- Franz Joseph Haydn (1732-1809)
- Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791)
- Giovanni Battista Pergolesi
- Gioacchino Rossini (1792-1868)
- Domenico Scarlatti (1685-1757)
Thời kỳ Lãng mạn (từ năm 1820 đến năm 1910)
Bước sang thời kỳ Lãng mạn, âm nhạc có nhiều thay đổi đáng kể. Các
nhạc sĩ tạo ra nhiều hình thức, thể loại âm nhạc mới và phát triển chúng
nhằm thể hiện phong cách cá nhân. Kết cấu tác phẩm âm nhạc trở nên linh
động, khơng cịn ràng buộc về độ dài tác phẩm, số chương, số nhạc cụ
hoặc số người hát. Những vở opera của Richard Wagner thường kéo dài
đến 6 giờ đồng hồ. Bản giao hưởng số 9 của Ludwig van Beethoven cần
đến một dàn nhạc đông đảo, dàn hợp xướng và các ca sĩ đơn ca.
Cơ cấu dàn nhạc trong thời kỳ Lãng mạn được hoàn thiện và được áp
dụng đến tận ngày nay. Các loại kèn đồng được bổ sung van điều chỉnh
cao độ, các loại kèn gỗ được bổ sung các khóa nhạc, tiện lợi cho việc ký
âm. Điều đó khuyến khích các nhạc sĩ viết nhiều tác phẩm cho bộ đồng và
bộ gỗ.
Nhiều nhạc sĩ thời kỳ Lãng mạn gây được ảnh hưởng rộng rãi, bao gồm
Hector Berlioz, Johannes Brahms, Richard Wagner và Piotr Ilyich
Tchaikovsky.
Đặc điểm âm nhạc thời kỳ Lãng mạn
Hình thức và thể loại: Phổ biến nhất là các tiểu phẩm, concerto, vũ khúc,
etude (khúc luyện tập) và variation (biến tấu).
Hòa âm: Sử dụng rộng rãi hịa âm bán cung, dấu hóa bất thường, hợp âm
giảm, hợp âm bảy át và chuyển điệu.
Đàn phím: Đàn piano chiếm ưu thế trong thời kỳ này.
Tiết tấu: Loại tiết tấu phức tạp, nhịp 2 tương phản với nhịp 3 được sử dụng
rộng rãi. Đảo phách cũng rất phổ biến.
Phong cách: Thể hiện rõ phong cách cá nhân, âm nhạc mang sắc thái của
ca khúc, phần đệm có nhiều sáng tạo, các loại dấu lặng, các cường độ và
tốc độ rất đa dạng.
Giao hưởng thời kỳ Lãng mạn
Giao hưởng thời kỳ Lãng mạn là bước phát triển mới của giao hưởng Cổ
điển. Các bản giao hưởng có quy mơ lớn hơn và kéo dài hơn, có bổ sung
nhiều loại nhạc cụ. Đơi khi, một bản giao hưởng có nhiều hơn 4 chương.
Thể loại giao hưởng có nội dung bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh. Bản
“Giao hưởng hoang tưởng” (Symphonie Fantastique) của Berlioz là một
điển hình của giao hưởng thời kỳ Lãng mạn. Xuyên suốt bản giao hưởng
là một câu chuyện tình. Berlioz sử dụng một giai điệu chủ đề tượng trưng
cho nhân vật nữ chính. Qua từng chương, giai điệu chủ đề này thay đổi
nhiều sắc thái khác nhau.
Berlioz
Thơ giao hưởng
Thơ giao hưởng (symphonic poem) rất gần gũi với giao hưởng có nội
dung, bởi nó cũng kể lại một câu chuyện. Tuy nhiên, thơ giao hưởng chỉ
gồm 1 chương dài, trong khi giao hưởng gồm nhiều chương.
Nhạc sĩ sáng tác thơ giao hưởng nổi tiếng nhất là Richard Strauss. Thơ
giao hưởng Don Juan và Der Rosenkavalier là 2 tác phẩm tiêu biểu nhất
của ông.
Richard Strauss
Khúc mở màn (overture)
Khúc mở màn (overture) đã xuất hiện từ thời kỳ Baroque và Cổ điển. Đây
là đoạn nhạc mở đầu, giới thiệu và tạo khơng khí trước khi trình diễn một
vở opera. Trong thời kỳ Lãng mạn, các khúc mở màn tồn tại độc lập, không