Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sang kien kinh nghiem (68)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.99 KB, 10 trang )

I. Lí do chọn đề tài:
Văn học là một mơn học quan trọng trong chương trình phổ thơng vì nó tác
dụng rất lớn đến việc giúp các em học sinh có một thế giới quan, nhân sinh quan nhân
đạo và tiến bộ; giúp các em có một vốn tri thức về tiếng Việt để bước vào cuộc sống.
Bên cạnh đó Văn học cịn giúp cho học sinh hình thành và phát triển nhân cách. Các
em đã được tiếp cận môn Văn học từ thuở nhỏ qua những câu hát ru của bà, của mẹ;
qua những câu chuyện cổ tích... Khi lớn lên, các em tiếp cận với Văn học nhiều hơn
qua các bài học trong chương trình. Nhưng có một điều đáng buồn là càng lớn lên,
càng trưởng thành thì các em lại càng xa rời mơn Văn. để lí giải thực trạng này các
cấp quản lí giáo dục, những người tâm huyết với môn Văn đã đưa ra nhiều nguyên
nhân khác nhau như vấn đề đầu ra với học sinh ban Xã hội nói chung và mơn Văn nói
riêng; chương trình sách giáo khoa cịn nặng, ít chất văn… nhưng một thực tế mà
nhièu người phải công nhận là phương pháp dạy và học mơn văn trong nhà trường
cịn khơng ít bất cập.Với mong muốn giúp các em học sinh có những hứng thú trong
các giờ học Vănẩttong quá trình giảng dạy cá nhân tơi đã cố gắng tìm tòi nhiều
phương pháp khác nhau để truyền thụ cho học sinh, trong đó có phương pháp “Giảng
tác phẩm Văn học bằng kĩ năng sa sánh”.
Nhìn một cách chung nhất thì khi tiếp cận tác phẩm Văn học, học sinh thường
rất khó khăn bởi nó có quá nhiều điều phức tạp và các em thì lại khơng muốn vướng
vào các vấn đề dài dịng khó hiểu.Có cách nào giúp các em không? Từ kinh nghiệm
giảng dạy môn văn trong những năm qua, cá nhân tôi nghĩ rằng để có một giờ học hấp
dẫn, học sinh yêu thích môn Văn, người thầy giáo cần sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau.Có thể nói rằng để có một giờ văn thành công giáo vien cần có một sự tổng
hợp về phương pháp trong đó “ Giảng tác phẩm văn học bằng kĩ năng so sánh” là
một phương pháp khá phổ biến và đạt được những kết quả quan trọng.
II. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu:
Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc
hội khóa X về đổi mới chương trình phổ thơng, đã khẳng định mục tiêu của việc đổi
mới chương trình giáo dục phổ thơng lần này là “ xây dựng nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ Cơng


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam,
tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới”. Ngành giáo dục đang trên con đường thực hiện đổi mới theo Chỉ thị số
14/2001/CT-TTg về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng đã được xác định
trong Nghị quyết TW IV khóa VII (1993), Nghị quyết TW 2 khóa VIII (12/1996),
được thể chế hóa trong Luật giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ
GD&ĐT, đặc biệt là Chỉ thị số 14 (4/1999).
Tài liệu “ Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10
THPT” của Bộ GD&ĐT xác định: “Một trong những trọng tâm của việc đổi mới
chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương
pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh
với sự tổ chức và hướng dẫn đúng mực của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập,
Trang 1


sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú
học tập tạo niềm tin và niềm vui trong học tập”.
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn viết : “ Môn Ngữ văn là một
môn học công cụ. Năng lực sử dụng tiếng Việt và tiếp nhận tác phẩm văn học mà
môn học này trang bị cho học sinh là công cụ để học sinh học tập và sinh họat, nhận
thức về xã hội và con người, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đặc biệt là tư tưởng nhân
văn và tình cảm thẩm mỹ”. Mặt khác, bản thân văn học nghệ thuật cũng là một
phương tiện giao tiếp – giao tiếp tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ. Do đó nhiệm vụ của
chương trình mơn Ngữ văn khơng chỉ là cung cấp kiến thức về Văn học, trang bị
những đánh giá, nhận định về tác gia, tác phẩm,mà còn đào tạo một năng lực sử dụng
tương đối thành thạo các công cụ nói trên. Học sinh học Ngữ văn khơng phải chỉ đọc
hiểu các loại văn bản, viết các loại văn bản thơng dụng, nói đúng phong cách ngơn
ngữ, mà cịn biết đọc- hiểu, giao tiếp với loại văn bản phức tạp nhất, là văn bản văn
học nghệ thuật. Hiểu được tính chất công cụ của bộ môn, chúng ta sẽ thấy, chỉ dạy
văn học theo lối “ giảng văn” truyền thống, thầy giảng trị nghe một cách thụ động thì

khơng thể đào tạo năng lực sử dụng công cụ văn học được.
Tại điều 28.2 của Luật giáo dục đã ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ thơng phải
phát huy tính tích cực; tự giác, chủ động, sáng tao cuả học sinh; phù hợp với đặc điểm
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”. Với những căn cứ đó, bản thân đã cố gắng tìm tịi và phát huy những
phương pháp dạy học tích cực và bước đầu đạt được hiệu quả với phương pháp “
Giảng chi tiết trong tác phẩm văn học bằng phương pháp so sánh”
III. Các biện pháp đã thực hiện:
Trong q trình giảng dạy ở nhà trường tơi đã rút ra được những kinh nghiệm
cho bản thân (mặc dù những kinh nghiệm ấy còn chưa nhiều). Tôi nghĩ rằng, một tiết
học hấp dẫn và đạt hiệu quả phải có những sáng tạo nhất định của giáo viên nhằm thu
hút học sinh. Từ những suy nghĩ ban đầu, tơi đem nó thực hiện vào quá trình giảng
dạy và đã đạt những hiệu quả nhất định. Đó là giảng dạy tác phẩm văn học bằng
phương pháp so sánh. Cách thức tiến hành như sau:
1. Chọn các chi tiết, hình ảnh:
Để có được những tiết dạy như ý muốn và đạt được mục đích nhất định cần
phải có một hệ thống các chi tiết, giáo viên cần phải có một tri thức rộng về các tác
phẩm văn học. Khi đọc tác phẩm văn học, giáo viên cần hệ thống và chọn lựa, sắp xếp
các chi tiết theo tiêu chí như sau:
- Các chi tiết cùng trong một tác phẩm.
- Các chi tiết giống nhau trong các tác phẩm khác nhau theo loại thể:
Trong tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình…
- Các chi tiết hình ảnh giống nhau giữa các tác phẩm khơng cùng loại
thể.
Ví dụ: - Các chi tiết thể hiện số phận, vẻ đẹp tâm hồn của những người lao
động nghèo.
- Các chi tiết về không gian trong các truyện ngắn.
Trang 2



- Các chi tiết, hình ảnh trong các tác phẩm thơ thể hiện qua trình trải
nghiệm cuộc sống, cách cảm nhận và thể hiện những cảm nhận trong tác phẩm.
2. Dạy tác phẩm văn học bằng phương pháp so sánh
Một tác phẩm văn học không thể chỉ khai thác các chi tiết một cách thuần tuý,
đôi khi để tạo cảm hứng cho học sinh và hiệu quả của tiết dạy, người dạy nên tìm một
vài sáng tạo để lơi cuốn học sinh đồng thời tránh rập khuôn tiết dạy một cách nhàm
chán. Nhưng không phải tiết dạy nào cũng sáng tạo bởi lượng thời gian cho một tiết
dạy và dung lượng bài học chi phối nhiều đến quá trình dạy học. Thế nhưng việc sáng
tạo bao giờ cũng tạo cho học sinh tiếp thu bài một cách hăng say hơn và khả năng
hiểu bài cũng nhanh hơn.
Chi tiết trong tác phẩm văn học thương mang nhiều ý nghĩa và vì thế, để so
sánh với chi tiết trong cùng tác phẩm hoặc tác phẩm khác cần chú ý đến mức độ
tương đồng để tránh so sánh khập khiễng.
So sánh là một thao tác của tư duy. Trong quá trình nhận thức thế giới khách
quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng phát hiện cái mới, cái khác biệt. Đối với việc phân
tích văn, chương so sánh thường hướng vào hai mục đích chính:
- Chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo, sáng tạo; phát hiện những vẻ đẹp
văn chương không lặp lại, những đóng góp của nhà văn.
- Phát hiện những quy luật chung giữa các tác phẩm, các tác giả hoặc
các giai đoạn văn học. Việc rút ra những quy luật chung giúp nhận
thức của người đọc về vấn dề trở nên sâu sắc hơn, vững vàng hơn và
từ đó đặt nền móng cho những phát hiện mới mẻ khác.
Mục đích của việc so sánh là cho học sinh hiểu sâu hơn về chi tiết dẫn đến hiểu
biết về tác phẩm một cách trọn vẹn. Mặt khác còn giúp cho học sinh có ý thức chú ý
đến các tác phẩm đã học bởi khi nhớ các chi tiết trong tác phẩm khác thì học sinh mới
có thể so sánh được. Ngoài ra, cách làm này sẽ giúp cho học sinh hứng thú hơn trong
tiếp học bởi tự thân các em cũng có thể tự khám phá những nét mới mẻ, hăng say hơn
trong việc tìm hiểu tác phẩm văn học.
Để làm được, yêu cầu học sinh phải tập cho mình một thói quen tự đọc và tự

học. Chỉ có đọc mới có thể biết được nhiều và nhớ nhiều chi tiết trong các tác phẩm,
tránh lối thụ động trên lớp thầy cơ nói sao trị nghe vậy nà khơng hề biết đến một chi
tiết dẫn đến việc làm bài văn thiếu hẳn một phần quan trọng đó là dẫn chứng.
Khi tiến hành so sánh một chi tiết, hình ảnh trọn vẹn, ta sẽ hiểu thêm chi tiết
cần so sánh, mở ra một hướng khai thác mới mẻ, đồng thời giúp học sinh hiểu hơn tác
phẩm.
Kĩ năng so sánh có thẻ thực hiện trên nhiều cấp độ. Nhỏ thì cách dùng từ, hình
ảnh, hình tượng …lớn hơn thì chi tiết, đề tài, tác phẩm , tư tưởng, phong cách…thậm
chí là các giai đoạn Văn học khác nhau. Ở đây chỉ xin phép trình bày một vài cấp độ
chủ yếu thường được sử dụng.
2.1 So sánh các chi tiết, hình ảnh trong cùng tác phẩm:
Chi tiết văn học không chỉ thể hiện nội dung mà đơi khi cịn thể hiện tài
năng, khả năng quan sát, trải nghiệm tinh tế của nhà văn. Vì thế, phân tích tác phẩm
văn học, chỉ khai thác một cách đơn thuần các chi tiết đôi khi con thiếu sót. Cần đặt
Trang 3


chi tiết và tác phẩm vào trong một mối quan hệ nào đó (tương đồng hay tương phản)
để rõ hơn nội dung phản ánh, phong cách tác giả, tài năng nhà văn...
Khi tiến hành phân tích một tác phẩm, cần hướng học sinh khai thác các
tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm bằng cách cho học sinh tìm và so sánh các chi tiết
giống nhau.
Ví dụ 1: Khi phân tích bài Thơ duyên của Xuân Diệu, để hiểu được “cái
duyên” ta cần chú ý các chi tiết quan trọng nằm trong câu thơ “ Lần đầu rung động
nỗi thương yêu”. Chính vì “ lần đầu” khi con người “ rung động” một “nỗi thương
yêu” thì lẽ tất nhiên, con người ấy sẽ cảm thấy lòng vui và cũng thật lạ, khi con người
vui thì nhìn đâu cũng thấy đẹp, nhìn đâu cũng thấy duyên. Nhân vật trữ tình trong bài
thơ cũng vậy, khi lịng anh rung động, anh nhìn đâu cũng tràn đầy duyên đẹp: từ bầu
trời, cảnh vật, con đường, đến dáng “em bước điềm nhiên” ... cũng từ đó mới nảy nở
niềm hy vọng về dun tình của đôi lứa.

Bài thơ viết về cái duyên – cái trừu tượng và nhà thơ đã cố gắng cụ thể hoá cái
duyên ấy: từ cái duyên của đất trời đến cái dun con người. Dun là trọn vẹn, là hồ
hợp vì vậy trong bài thơ, tác giả đã sử dụng hàng loạt từ “ Cặp đôi” trọn vẹn như: cặp
chim chuyền, đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu, lả lả cành hoang... và chính từ đó, từ cái
nhìn của người “ lần đầu rung động” nên cũng đã thấy anh – em “như một cặp vần”
của bài thơ cuộc đời, sóng đơi duyên dáng cùng cái duyên của đất trời.
Ví dụ 2: Phân tích tác phẩm Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải, khi
chứng minh cho triết lí sống của nhà văn gửi vào tác phẩm qua nhân vật Đào. Để thấy
Đào có một sức mạnh tinh thần bước qua ranh giới giữa sự sống và cái chết ta cần cho
học sinh tìm và phân tích các chi tiết giống nhau: “cũng có ngày ốm đau, nằm nhờ
nhà người quen, bưng bát cơm nóng nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ trước đây mình
cũng có một gia đình,có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối”; Đào lên
nông trường Điện Biên với tâm trạng chán chường, mệt mỏi muốn trốn tránh những
tháng ngày dã qua nhưng chị vẫn luôn khát khao hạnh phúc “cùng nhổ lạc một
khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy, nhìn đơi cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt
cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoáng bên cạnh, chị lại bừng bừng thèm khát
một cảnh gia đình hạnh phúc”. Chính vì như thế nên khi Đào nhận được lá thư chị
mới có những tâm trạng hết sức khó tả như vậy. Chính tình u cuộc sống và khát
khao hạnh phúc gia đình đã giúp Đào có một sức mạnh để vượt qua những đau khổ
của cuộc đời mình.
Ví dụ 3: Khi phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi ta cho học
sinh chú ý đến các chi tiết về không gian nghệ thuật: Đó là bóng tối. u cầu các em
tìm các chi tiết nói đến khơng gian tối trong tác phẩm: Đêm Mị bị A Sử bắt, căn buồng
tối nơi Mị ở, những đêm tình mùa xn, Mị bị trói đứng trong bóng tối, những đêm
Mị sưởi lửa, đêm Mị cắt dây trói cho A Phủ...Tất cả các chi tiết cho ta một ý nghĩa về
số phận những người dân miền núi dưới ách thống trị của Thực dân và quan làng.
Ví dụ 4. Khi phân tích nhân vật Tấm trong truyện cổ tích “Tấm Cám”,
giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh so sánh đẻ thấy hành động của Tấm lúc đầu
còn cam chịu nhưng qua mỗi hành động tấm dường như cương quyết hơn trong sự
đáu tranh giành hạnh phúc. Ban đầu Tấm dường như chỉ biết khóc mỗi khi bị mẹ con

Cám đày đoạ, nhưng sau đó Tấm đã biết tự đáu tranh để giành lấy hạnh phúc cho
mình. Vì vạy hành động trừng trị mẹ con Cám ở cuối tác phẩm là một sụ phát triễn tất
Trang 4


yéu và hết sức phù hợp. qua đó tác giả dân gian cịn muốn nhấn nhử rằng: muốn có
hạnh phúc con người phải biết tự đứng lên để đấu tranh.
Ví dụ 5. Khi giảng dạy đoạn trích “Trao duyên” (Truyện Kiều - Nguyễn
Du) Giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh tâm trạng của Kiều trước và sau khi trao kỉ
vật cho Thuý Vân để thấy rằng tâm trạng của Kiều ngày càng đi sâu vào bi kịch. Dù
đã trao duyên cho em nhưng Thuý Kiều vẫn không thôi nhớ nhung Kim Trọng, nàng
coi mình là nguời phận bạc, là người phụ tình. Qua đó, học sinh có thể thấy rõ hơn vẻ
đẹp trong tâm hồn Kiều.
2.2 So sánh chi tiết, hình ảnh trong các tác phẩm cùng loại thể.
Các chi tiết văn học trong các tác phẩm khác nhau cùng loại thể đơi khi có mối
quan hệ mật thiết với nhau, mang những ý nghĩa tương đồng với nhau. Vì thế khi
giảng chi tiết, giáo viên nên chọn các chi tiết giống nhau ở các tác phẩm khác nhau và
so sánh để tìm ra ý nghĩa. Khi so sánh như thế, tự nhiên tiết giảng sẽ sinh động và hấp
dẫn hơn, học sinh sẽ chú ý theo dõi và phần nào giúp các em tự phát hiện nhiều điều
thú vị, giúp học sinh ngầm hiểu các chi tiết văn học bản thân chúng chứa đựng rất
nhiều điều thú vị, nhiều ý nghĩa mà chỉ khi tìm hiểu thật kĩ càng thì mới hiểu được
ngọn nguồn.
Khi so sánh các chi tiết ở các tác phẩm khác nhau, giáo viên cần chỉ cho học
sinh (hoặc chỉ cho học sinh tự phát hiện) những điểm giống và khác nhau để từ đó tìm
ra nét riêng của từng nhà văn, tìm ra ý nghiã của chi tiết so sánh.
Nhà phê bình văn học Hồi Thanh khi bình hai câu thơ :
“ Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân”
Của Xuân diệu trong bài Thơ duyên đã viết: “ Khi đọc hai câu thơ này, tơi thấy
có một cái gì đó rất phù hợp với mình, với những băn khoăn khó hiểu trong lịng

mình. Nhưng khi tơi sực nhớ lại câu thơ nỗi tiếng của Vương Bột thì có thể nói tơi
càng đi sâu thêm vào thực chất của thơ Xuân Diệu, càng thấy rõ, từ con cò của Vương
Bột bay trong ráng chiều đến con cò ở đây khơng bay mà cánh phân vân, có sự cách
biệt của trên một nghìn năm và của hai thế giới. Do đó mà càng tăng thêm mối đồng
cảm với mấy câu thơ của Xn Diệu”.
Có thể nói cách bình của Hồi Thanh nêu trên là điễn hình của việc vận dụng
thao tác so sánh trong cảm thụ và phân tích Văn học. Từ sự phát hiện điểm khác giữa
lặng lẽ bay với khơng bay mà nhà phê bình chỉ ra sự khác nhau của hai thế giới. Một
thế giới tĩnh tại đến tuyệt đối trong không gian của thơ đường và một thế giới động
trong thơ mới. Chỉ bằng một thao tác so sánh mà người bình đã thực sự bắt được cái
thần trong câu thơ của Xuân Diệu.
Từ đó ta có thể thấy rằng có thể sử dụng thao tác so sánh giữa những tác phẩm
khác nhau cùng loại thể khi tìm hiểu tác phẩm Văn học trong nhà trường.
Ví dụ 1: Khi phân tích truyện Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi (đoạn Mị và A Phủ
cịn ở Hồng Ngài), để làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm: bênh vực, xót
thương, cảm thơng và tìm lối thoát cho nhân vật, ý thức phản kháng chống lại chế độ,
ta lấy chi tiết gần cuối đoạn trích “ Mị cắt dây trói cho A Phủ”, so sánh với chi tiết
cuối trong hai tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Chí Phèo của Nam Cao.
Trang 5


Tên tác phẩm
Vợ chồng A Phủ
Tắt đèn
Chí Phèo

Chi tiết so sánh
Mị cắt dây trói cho A Phủ
Chị Dậu xơ ngã ông quan
Chí Phèo đâm chết Bá Kiến


Giáo viên cần cho học sinh thấy rõ: Cả ba nhân vật Chị Dậu, Chí Phèo và Mị
đều bị giai cấp thống trị dồn vào con đường cùng của cuộc sống và theo lẽ tự nhiên
như
“con giun xéo mãi cũng quằn”, con người bị áp bức quá sẽ phản kháng và ý thức phản
kháng lại quyết liệt hơn bao giờ hết. Chị Dậu xô ngã ơng quan là xơ ngã chế độ đàn
áp; chí Phèo đâm chết Bá Kiến là đâm chết, giết chết chế độ cường hào. Cả hai đều
tìm con đường thốt nhưng đến khi đó, sức phản kháng thì mãnh liệt như thế nhưng
tương lai vẫn không mở ra với họ. Chị Dậu chạy ra ngoài, trời tối đen như mực như
cái tiền đồ của chị, tương lai phía trước vẫn cịn mịt mù, niềm hi vọng vẫn cịn mong
manh; Chí Phèo đâm chết Bá Kiến nhưng rồi Chí cũng bế tắc, Chí đã phải tự vẫn kết
liễu đời mình. Chí vẫn phải quằn quại cho đến chết. Riêng Mị, thái độ phản kháng
quyết liệt chống lại chế độ thể hiện ở hành động cắt dây trói cho A Phủ một cách dứt
khốt. Mị cắt dây trói là cắt đi cái vịng dây thần quyền đầu độc mình và mọi người
của cha con nhà Thống Lí Pá tra; cắt đứt sự ràng buộc của thế lực áp bức. Và sau đó,
Mị cũng đã tự “tháo cũi sổ lồng”, tự giải thoát mình khỏi vịng kìm kẹp. Chi tiết ấy
cũng chính là điều mới mẻ trong giá trị nhân đạo mà Tô Hồi gửi vào tác phẩm.
So sánh khơng chỉ để thấy điểm chung của các tác phẩm, các chi tiết, các tác
giả mà đơi khi so sánh cịn là tìm ra những nét riêng của các tác giả thể hiện trong
những tác phẩm khác nhau.
Ví dụ 2: Khi phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, người dạy có
thể cho học sinh thấy được tâm hồn nhạy cảm của nhân vật trữ tình khi cảm nhận mùa
thu. Nhân vật cảm nhận bằng: khứu giác (mùi hương cốm mới), bằng thị giác, bằng cả
xúc giác với cái “chớm lạnh”… Giáo viên nên cho học sinh so sánh với bài thơ Sang
thu của Hữu Thỉnh để thấy được nét giống và khác nhau thú vị giữa hai nhân vật.
Nhân vật trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh cũng cảm nhận mùa đến bằng những giác quan
nhạy bén: khứu giác (hương ổi), thính giác, thị giác…
Tên tác phẩm
Đất nước - Nguyễn Đình Thi
Sang thu - Hữu Thỉnh


Chi tiết so sánh
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Bỗng chợt nghe hương ổi
Phả vào trong gió se

Ví dụ 3: Giảng câu thơ “ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” trong bài Đây thôn
Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ta cần cho học sinh so sánh với chi tiết trong câu thơ “ Sột
soạt gió trêu tà áo biếc” (Mùa xuân chín) để thấy được khả năng dùng từ hết sức dân
dã mà thật tinh tế của nhà thơ (từ “ buồn thiu”, “sột soạt”)
Ví dụ 4. Khi giảng bài khái quát về tác phẩm Truyện kiều giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh so sánh với tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” để thấy rằng cảm
hứng và thân phận những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh là cảm hứng xuyên suốt
Trang 6


trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Du, từ đó học sinh thấy rõ hơn một nét mới trong
sáng tác của Nguyễn Du là lòng thương cảm với những người tài hoa bạc mệnh, đề
cập đến một vấn đề rất mới trong văn học trung đại: xã hội cần phải trân trọng những
giá trị tinh thần, do đó cần phải trân trọng chủ thể sáng tạo những giá trị tinh thần ấy.
Từ sự so sánh ấy học sinh có thể thấy được tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn lớn,
đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Ví dụ 5. Khi giảng đoạn trích “Chí khí anh hùng” ( Truyện Kiều- Nguyễn Du)
giáo viên có thể so sánh lí tưởng người anh hùng của Từ Hải qua câu “Trượng phu
thoắt đã động lòng bốn phương’’ và “ Làm cho rõ mặt phi thường” với chí Làm trai
của Nguyễn Cơng Trứ trong các câu thơ:
“Chí làm trai Nam- Bắc- Tây - Đơng,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”
Hay chí làm trai trong một số bài thơ khác:

“Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đơng đơng tĩnh, lên đồi đồi n”
Từ sự so sánh ấy cho học sinh thấy rằng hình tượng người anh hùng Từ Hải được xây
dựng bằng lí tưởng đạo đức phong kiến, đó là người anh hùng có sức mạnh phi
thường, có ý chí lớn lao, có khát vọng thay đổi cả sơn hà. Người anh hùng ấy được
xây dựng bằng ước mơ của Nguyễn Du, một nhà nho phong kiến.
Ngồi ra, giáo viên cịn có thể so sáng hình tượng người anh hùng Từ Hải với hình
tượng người trai thời Trần trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão đễ thấy được vẻ đẹp
mang tầm vũ trụ của người anh hùng.
2.3 So sánh các chi tiết, hình ảnh trong các tác phẩm khác nhau không
cùng loại thể
Trong các tác phẩm khác nhau không cùng loại thể đôi khi những chi tiết giống
nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau rất nhiều. Vì vậy, khi phân tích tác phẩm đơi khi cần
cho học sinh tìm và so sánh các chi tiết trong các tác phẩm khác nhau ấy để giúp học
sinh hiểu rõ hơn về tác phẩm cần khảo sát. Thế nhưng, điều khó khăn là học sinh sẽ
khơng thể nhớ tất cả các tác phẩm có chi tiết giống nhau nên giáo viên cần giới thiệu
sẵn tác phẩm để các em tìm.
Ví dụ 1: Khi phân tích truyện ngắn “ Mảnh trăng cuối rừng” của nhà văn
Nguyễn Minh Châu, hình ảnh nhân vật Nguyệt hiện lên đẹp lạ thường và thể hiện rõ
nét chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mĩ mà nhà văn gửi vào tác phẩm. Để
hiểu rõ hơn về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giáo viên nên hướng cho học sinh tìm
hình ảnh giống với cô Nguyệt trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Cần đưa ra
tác phẩm “Khoảng trời hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ để học sinh so sánh vẻ đẹp
giống nhau của hình ảnh những cơ thanh niên xung phong anh hùng.
Ví dụ 2. Khi giảng tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn, đến hình tượng vịng hoa
trên nấm mộ Hạ Du - một hình tượng thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của tác giả về
tiền đồ cách mạng Trung Quốc vì đã có người hiểu, cảm phục những người cách
mạng như Hạ Du, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên hệ với “Mồ anh hoa nở”
của Thanh Hải để thấy rõ hơn điều đó.


Trang 7


IV. Kết kuận và một vài ý kiến đề xuất.
Mỗi một phương pháp đều có những ưu điểm nhất định và phục vụ cho công
tác giảng dạy đạt hiệu quả cao hơn. Riêng biện pháp giảng dạy chi tiết trong tác phẩm
văn học bằng phương pháp so sánh đạt hiệu quả tương đối khả quan và đã dược nhiều
người sử dụng. Sau khi giảng dạy bằng phương pháp này, học sinh đã bắt đầu có ý
thức hơn với việc đọc tác phẩm văn học ở nhà và cũng bắt đầu có những hứng thú
nhất định với tiết học văn. Nguyên nhân dẫn đến thành công này là khi giảng dạy
bằng phương pháp vừa nêu, giáo viên đã giúp học sinh khám phá những tri thức hết
sức bổ ích bằng chính năng lực bản thân. Các em sẽ có tâm thế tốt hơn khi bước vào
tiết học bởi các em sẽ mất dần đi cảm giác tự ti khi nghĩ rằng đọc tác phẩm văn học
mình chẳng hiểu được gì.
Hiệu qủa lớn nhất mà biện pháp này mang đến là giúp các em tự khám phá kiến
thức, ôn lại các tác phẩm đã học một cách có hệ thống, nhớ bài học lâu hơn. Từ đó
các em có thể soi chiếu điều mình vừa khám phá vào trong cuộc sống để hiểu và cảm
nhận một cách thực tế và sâu sắc điều mà các nhà văn gửi vào tác phẩm.
Hiệu quả đạt được song song là trong khi làm bài học sinh đã có một vốn kiến
thức nhất định trong việc chọn dẫn chứng, xóa bỏ dần thói quen chỉ liệt kê dẫn chứng
trong tác phẩm mà giáo viên yêu cầu. Đồng thời học sinh cũng đã hình thành được
năng lực phân tích chi tiết dẫn chứng làm cho bài văn sinh động hơn, khơng cịn hiện
tượng sử dụng câu từ sáo rỗng.
Tuy nhiên bất kì phương pháp nào cũng có tính hai mặt của nó, do đó khi sử
dụng phương pháp so sánh giáo viên phải chú ý đến vấn đề dung lượng. Nếu sử dụng
quá dày đặc phương pháp này bài giảng sẽ chỉ là mộ sự so sánh khô khan, xa tác
phẩm. Nên nhớ rằng cho dù sử dụng phương pháp nào thì đó cũng chỉ là cơng cụ để
học sinh hiểu sâu hơn tác phẩm mà thôi.
Để kĩ năng so sánh thực sự có hiệu quả trong q trình phân tích, cảm thụ tác
phẩm Văn học cũng như dạy và học môn văn ở nhà trường cần phẩi chú ý một số yêu

cầu sau đây:
- So sánh phải hợp lí – Nghĩa là đối tượng so sánh phải cùng một bình
diện, một cấp độ: chi tiết, hình ảnh, đề tài, nhân vật … Tính hợp lí của
so sánh không thừa nhận sự tuỳ tiện, thiếu khách quan, thiếu cơ sở
khoa học.
- So sánh phải có tính phát hiện, phải tìm ra đợc nét mới. Nghĩa là so
sánh phải có tính mục đích.
- So sánh phải có mức độ, chừng mực, phù hợp với phạm vi biểu hiện
của đối tượng.
IV. Kết quả đạt được:
Sau thực tế áp dụng trong nhà trường nơi bản thân công tác so với trước khi
thực hiện phương pháp này, tôi nhận được những kết quả:
- Phương pháp này đã được cá nhân tôi áp dụng trong các tiết dạy ở
các lớp hầu hết những năm qua.
- Giúp học sinh hứng thú hơn trong việc học tập môn Văn.
- Nâng cao kiến thức cho bản thân và học sinh.
Trang 8


- Hiệu quả tiết dạy được nâng cao, đa số học sinh hiểu bài, làm bài đạt
kết quả cao.
- Cụ thể: trong năm học 2007 – 2008, được nhà trường phân công
giảng dạy Lớp 10A13, bản thân ntôi với những phương pháp và sự nỗ
lực của mình đã truyền tình yêu văn học cho học sinh. Ban đầu khi
mới vào lớp 10, nhiều em còn bở ngỡ với phương pháp học mới, kết
quả bài kiểm tra còn thấp. Thế nhưng trong kì thi kết rthúc học kì I
nhiều em đã đạt được những kết quả hết sức đáng khích lệ, có 23/45
em đạt từ 6,5 điểm trở lên, trong đó có nhiều em đạt diiểm 8… Trong
kì thi kết thúc học kì 2 có 24/ 44 em đạt từ 6,5 điểm trở lên, trong đó
có một em đạt điểm 9; 11 em đạt từ 7,5 đến 8 điểm.

Điểm trung bình kì I và cả năm có sự tiến bộ rõ rệt.
Cụ thể:
* Học kì I: - Giỏi
:0
- Khá
: 15/45 đạt tỉ lệ: 33,3 %
- Trung bình: 30/45 đạt tỉ lệ: 66,7 %
* Cả năm :
- Giỏi
: 02/44 đạt tỉ lệ: 4,5 %
- Khá
: 20/44 đạt tỉ lệ 45,5 %
- Trung bình : 22/44 đạt tỉ lệ 50 %.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ mà cá nhân tôi đúc kết được trong quá trình
dạy học của mình. Những kinh nghiệm ấy quả là còn rất nhỏ trong rừng tri thức rộng
lớn của văn chương. Nhưng tôi hi vọng rằng những kinh nghiệm của mình cũng đã
góp một tiếng nói tâm huyết với mơn Văn trong nhà trường. Rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm này ngày một
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2008

Quảng Trạch, ngày 22 tháng 04 năm
Người viết

Trần Thanh Hải

Trang 9



Trang 10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×