TIỂU LUẬN
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ CẦM QUYỀN
Đề tài: Vị trí và vai trị của Nhà nước
MỤC LỤC
I, Mở đầu...........................................................................................................1
1.Lời mở đầu.....................................................................................................1
2,Lịch sử nghiên cứu.........................................................................................2
3,Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................2
4, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.....................................................................3
5, Phương Pháp nghiên cứu...............................................................................3
Chương II :Khảo sát thực tế............................................................................13
1.Nhà nước Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào................................................13
2, Tìm hiểu về hệ thống chính trị....................................................................15
3, Ngun nhân hình thành vị trí, vai trị của nhà nước..................................18
III, KẾT LUẬN...............................................................................................21
Tài Liệu Tham Khảo.......................................................................................23
I, Mở đầu
1.Lời mở đầu
Trong hệ thống chính trị của các quốc gia trên thế giới hiện nay, nhà
nước giữ vị trí trung tâm, nó có sự liên hệ, tác động qua lại đối với tất cả các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Nhà nước được xem như nơi hội tụ của
đời sống chính trị xã hội. Nhà nước có vai trị chủ đạo, đặc biệt quan trọng,
mang tính quyết định trong hệ thống chính trị. Nhà nước quyết định bản chất,
đặc trưng, quá trình tồn tại và phát triển của cả hệ thống chính trị. Nhà nước
có thể làm xuất hiện thêm hoặc làm mất đi một tổ chức nào đó trong hệ thống
chính trị. Sở dĩ nhà nước giữ được vị trí trung tâm và có vai trị chủ đạo đó là
vì, so với các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị, nhà nước có
những ưu thế đặc biệt quan trọng:
Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp một cách
hợp lý. Vì vậy, theo quy định của Hiến pháp và các luật tổ chức bộ máy nhà
nước của nước ta hiện nay thì ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước thông qua bầu cử, lấy ý kiến của dân và các hình thức dân chủ trực
tiếp khác, thơng qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của
Nhà nước
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là cơ chế để thực thi quyền lực chính trị trong
bối cảnh giai cấp cơng nhân trong liên minh với giai cấp nơng dân và đội ngũ
trí thức đã trở thành giai cấp cầm quyền.
Hoạt động của nhà nước nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng có tính
độc lập tương đối, với các cơng cụ và phương thức quản lý riêng của mình.
Quyền lực nhà nước ở nước ta thuộc về nhân dân, được tổ chức và thực hiện
theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp
1
và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp
Việc xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
CHDCND Lào là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước Lào nói chung và hệ thống chính trị nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Vị trí và vai trị của
Nhà nước”
2,Lịch sử nghiên cứu
Các lý thuyết tự nguyện cho rằng các nhóm người khác nhau đã cùng
nhau hình thành các nhà nước do kết quả của một số lợi ích hợp lý được chia
sẻ chung. Các lý thuyết chủ yếu tập trung vào sự phát triển của nông nghiệp,
và áp lực dân số và tổ chức theo sau và dẫn đến sự hình thành nhà nước. Một
trong những lý thuyết nổi bật nhất về sự hình thành nhà nước sơ khai và sơ
cấp là giả thuyết thủy lợi, cho rằng nhà nước là kết quả của nhu cầu xây dựng
và duy trì các dự án thủy lợi quy mô lớn.
Một số lý thuyết lại cho rằng Chiến tranh là rất quan trọng đối với sự
hình thành nhà nước.
Có một số lý thuyết và giả thuyết khác nhau liên quan đến sự hình
thành nhà nước sớm tìm cách khái qt hóa để giải thích tại sao nhà nước
phát triển ở một số nơi mà không phải là những nơi khác. Các học giả khác
tin rằng việc khái qt hóa là khơng có giá trị và mỗi trường hợp hình thành
nhà nước sớm nên được xử lý riêng biệt.
Các lý thuyết xung đột về sự hình thành nhà nước coi xung đột và sự
thống trị của một số dân số đối với dân số khác là chìa khóa cho sự hình thành
các quốc gia. Trái ngược với các lý thuyết tự nguyện, những lập luận này tin
rằng mọi người không tự nguyện đồng ý tạo ra một nhà nước để tối đa hóa lợi
ích, nhưng các nhà nước đó hình thành do một số hình thức áp bức của một
nhóm người đối với các nhóm người khác.
3,Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2
A, Mục đích nghiên cứu
-
Tìm hiểu rõ về vị trí và vai trò của nhà nước và về Nhà nước ở
Việt Nam trong lịch sử và hiện tại
-
Nắm bắt rõ hơn tình hình quốc gia Hệ thống chính trị của
CHDCND Lào
B, Nhiệm vụ nghiên cứu
-
Nghiên cứu thêm về Vị trí và vai trị của Nhà nước trong thực
-
Tìm hiểu sự khác biệt giữa các nhà nước khác nhau trên thế giới
tiễn
4, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
A, Đối tượng nghiên cứu
-
Nhà nước CHDCND Lào; Nhà nước XHCN Việt Nam và thế giới
B, Phạm vi nghiên cứu
-
Toàn thế giới
5, Phương Pháp nghiên cứu
-
Phương pháp nghiên cứu thu thập số liệu
-
Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết
3
II, Nội dung
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỂ VỀ VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ
NƯỚC
1, Định nghĩa
-Nhà nước là hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, được nhiều
ngành khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Ngay từ thời
cổ đại, các nhà tư tưởng đã quan tâm nghiên cứu và đã có những luận giải
khác nhau về khái niệm nhà nước. Trải qua các thời đại khác nhau, nhận thức,
quan điểm về vấn đề này ngày càng thêm phong phú. Tuy nhiên, do xuất phát
từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, năng lực nhận thức khác nhau, lại bị
chi phối bởi yếu tố lợi ích, quan điểm chính trị..., vì vậy có nhiều quan niệm
khác nhau về nhà nước.
- Aristote, nhà tư tưởng vĩ đại thời kì cổ đại, cho rằng, nhà nước là sự
kết hợp của các gia đình. Đồ cập nhà nước trong mối tương quan với quốc
gia, một số tác giả cho rằng, nhà nước là một đơn vị chính trị độc lập, có một
vùng lãnh thổ được cơng nhận là dưới quyền thống trị của nó.1 Cùng quan
điểm trên, một số tác giả khác cho rằng nhà nước là: “tổ chức quyền lực chính
trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chỉnh quyền độc lập, có khả
năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong
phạm vi lãnh thổ của mình”.
- Tiếp cận nhà nước từ quan niệm về pháp luật và trật tự pháp luật, I.
Kant cho rằng: “Nhà nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng pháp
luật”; “Nhà nước là trong tư tưởng là cái gì đó phải phù hợp với các nguyên
tắc của pháp luật”)
- Ăngghen khi nghiên cứu về nguồn gốc của nhà nước đã đề xuất một
số quan niệm về nhà nước. Ông cho rằng, nhà nước là sản phẩm của xã hội đã
phát triển đến giai đoạn nhất định, khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và
mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hồ được, nhà nước là lực lượng: “nảy
4
sinh từ xã hội nhưng lại đứng trên xã hội ”, “có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung
đột và giữ cho sự xung đột đó trong vịng “trật tự”).
- Phát triển quan điểm của Ăngghen, nhấn mạnh vai trò của nhà nước
trong việc duy trì sự thống trị giai cấp, Lênin quan niệm: “Nhà nước bao giờ
cũng là một bộ máy nhẩt định, nó tự tách ra từ xã hội và gồm một nhóm
người chỉ chuyên hay gần như chỉ chuyên, hay chủ yếu chỉ chuyên làm công
việc cai trị”). Theo Lênin, nhà nước sinh ra để thực hiện sự thống trị giai cấp:
“Nhà nước là bộ máy dùng đế duy trì sự thong trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác”. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, ơng cịn nhấn mạnh:
“Nhà nước theo đủng nghĩa của nó, là bộ mảy trấn áp đặc biệt của giai cấp
này đối với giai cấp khác ”.
Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm nhà nước, mỗi
cách tiếp cận xây dựng nên khái niệm nhà nước với ý nghĩa riêng, phục vụ
mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu riêng. Điều này cũng chứng tỏ, nhà nước là
một hiện tượng đa dạng, phức tạp, khái niệm nhà nước có nội hàm phong phù,
có tính đa diện, đa chiều.
Là một hình thức tổ chức của con người, nhà nước khơng đồng nhất với
xã hội, nó chỉ là một bộ phận của xã hội. Nhà nước bao gồm những người
không tham gia vào hoạt động sản xuất trực tiếp, nó được tổ chức ra để quản
lí xã hội, điều hành mọi hoạt động của xã hội. Sự ra đời, tồn tại của nhà nước
trong đời sống xã hội là tất yếu trước nhu cầu phối hợp hoạt động chung, duy
trì trật tự chung, phịng chống ngoại xâm, thiên tai, bảo vệ lợi ích chung của
cộng đồng. Nhà nước được xem như cơ quan quyền lực tối cao của xã hội
nhưng lại bị chi phối bởi những kẻ mạnh, lực lượng này dùng nhà nước vừa
thực hiện việc điều hành các hoạt động chung của xã hội, vừa làm lợi riêng
cho giai cấp mình.
Nhà nước cũng khơng hồn tồn đồng nhất với quốc gia, nó chỉ là một
trong ba yếu tố hợp thành quốc gia. Mặc dù nhà nước và pháp luật có sự gắn
5
bó hết sức chặt chẽ với nhau, tuy nhiên đó là hai hiện tượng khác nhau, do
vậy về mặt nhận thức, không thể đồng nhất nhà nước và pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, có thể định nghĩa: Nhà nước là tổ
chức quyển lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ
xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lỉ xã hội, phục vụ
lợi ích chung của tồn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong
xã hội.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước là trụ cột
của hệ thống chính trị Việt Nam. Nhà nước gồm các có các cơ quan trung ương
như Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính
quyền địa phương.
2, Vị trí của nhà nước
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln ln xuất phát từ thực tiễn lịch sử cách mạng Việt
Nam, vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng
thời, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, bao gồm các tư
tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền, tổ chức nhà nước và kinh
nghiệm áp dụng các học thuyết đó của các nước trên thế giới để đưa vào thử
nghiệm và từng bước xây dựng, hoàn thiện ở Việt Nam. Đây là q trình tìm
tịi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, khơng sao chép, rập khn, giáo điều mà
luôn luôn sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam.
Hệ thống chính trị của các quốc gia trên thế giới hiện nay, nhà nước giữ
vị trí trung tâm, nó có sự liên hệ, tác động qua lại đối với tất cả các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị. Nhà nước được xem như nơi hội tụ của đời
sống chính trị xã hội. Nhà nước có vai trị chủ đạo, đặc biệt quan trọng, mang
tính quyết định trong hệ thống chính trị. Nhà nước quyết định bản chất, đặc
trưng, quá trình tồn tại và phát triển của cả hệ thống chính trị. Nhà nước có
6
thể làm xuất hiện thêm hoặc làm mất đi một tổ chức nào đó trong hệ thống
chính trị. Sở dĩ nhà nước giữ được vị trí trung tâm và có vai trị chủ đạo đó là
vì, so với các tổ chức thành viên khác của hệ thống chính trị, nhà nước có
những ưu thế đặc biệt quan trọng:
- Có thể nói, trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Nhà nước
đóng vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng. Vì đó là thiết chế biểu hiện tập trung
nhất quyền lực nhân dân và là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực
ấy.
-Nhà nước cũng có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực
hiện vai trị của mình. Nhà nước cịn là chủ sở hữu tối cao đối với những tư
liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản
xuất đó, Nhà nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo
cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân.
- Qùn lực chính trị bao giờ cũng thể hiện tập trung ở quyền lực nhà
nước, tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị về căn bản luôn phải dựa
trên cơ sở của pháp luật do nhà nước ban hành, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh và hiệu lực quản lý nhà
nước. Nhà nước giữ vai trò vô cùng quan trọng, là công cụ để thực hiện quyền
lực nhân dân, giữ gìn trật tự kỉ cương và bảo đảm công bằng xã hợi
-Vị trí của Nhà nước trong hệ thống chính trị là đại diện của các tầng
lớp; giai cấp và nhóm lợi ích chủ yếu trong xã hội; Là đại diện chính thức của
tồn xã hội. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình một cách trực tiếp và
gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện. Nhà nước là công cụ chuyển yếu,
hữu hiệu nhất thực hiện quyền lực chính trị. Cương chế nhà nước trong thực
hiện quyền lực chính trị; Có đầy đủ phương tiện cơ sở vật chất để thực hiện
quyền lực chính trị. Chủ thể duy nhất mang quyền – chủ thể trong quan hệ
quốc tế về chính trị ( cơng pháp quốc tế)
7
-Theo đó, với quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, Nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì
hạnh phúc của con người. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở
Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật
trong đời sống xã hội. -Với việc được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, Nhà nước chịu
trách nhiệm trước cơng dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công
dân thực hiện các nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội. Nhà nước thực hiện
đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị hợp tác, bình đẳng và phát triển với
các nước láng giềng, các nhà nước và các dân tộc khác trên thế giới; tôn trọng
và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê
chuẩn.
3, Vai trò của nhà nước
Khơng những đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị mà Nhà
nước cịn là người đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã
hội. Điều đó làm cho Nhà nước có một cơ sở xã hội rộng rãi để có thể triển
khai nhanh chóng và thực hiện tốt những quyết định, chính sách của mình.
Nhà nước cũng là chủ thể của quyền lực chính trị, là tổ chức chính trị thể hiện
tập trung nhất quyền lực nhân dân; có sức mạnh cưỡng chế toàn diện, ban
hành và sử dụng pháp luật để quản lý các q trình xã hội. Nhờ có pháp luật,
mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước được triển khai một cách rộng rãi
và thống nhất trên quy mơ tồn xã hội.
Nhà nước là cơng cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật
tự xã hội cho phù hợp với lợi ích của nó. Trong lịch sử xã hội lồi người đã có
thời kỳ khơng có Nhà nước. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ
phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất, con người cùng sống, cùng lao
8
động cùng hưởng thành quả chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động
và hưởng thụ, xã hội khơng có người giàu nghèo, người nghèo, không phân
chia giai cấp, không có đấu tranh giai cấp. Cơ sở kinh tế đã làm xuất hiện
hình thức tổ chức xã hội là thị tộc. Quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ là quyền lực xã hội với hệ thống quản lý rất đơn giản khơng mang tính
giai cấp. Nhà nước là cơng cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì
trật tự xã hội cho phù hợp với lợi ích của nó.
Trong lịch sử xã hội lồi người đã có thời kỳ khơng có Nhà nước. Đó là
thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển thấp kém của lực lượng
sản xuất, con người cùng sống, cùng lao động cùng hưởng thành quả chung.
Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, xã hội không có người
giàu nghèo, người nghèo, khơng phân chia giai cấp, khơng có đấu tranh giai
cấp. Cơ sở kinh tế đã làm xuất hiện hình thức tổ chức xã hội là thị tộc. Quyền
lực trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là quyền lực xã hội với hệ thống quản
lý rất đơn giản khơng mang tính giai cấp. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
và năng suất lao động xã hội đã làm thay đổi tổ chức xã hội thị tộc. Những
yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, làm cho chế độ thị tộc
không thể đứng vững được. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp khơng
thể điều hồ được hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng giập tắt được
xung đột giai cấp ấy, tổ chưcư ấy là Nhà nước. Như vậy Nhà nước xuất hiện
một cách khách quan, khơng phải là một lực lượng từ bên ngồi đặt vào xã
hội mà theo Mác và Ăng ghen đó là một lực lượng từ bên ngoài đặt vào xã
hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội có nhiệm vụ làm dịu bớt xung
đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vịng trật tự.
Do vậy, chúng ta có thể thấy rằng Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong
xã hội có giai cấp, là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai
cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp. Tuy
nhiên, Nhà nước khơng chỉ là người bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà
còn quan tâm đến nhiều lĩnh vực khác trong xã hội.
9
Trong lịch sử đã chứng minh, Nhà nước không chỉ có chức
năng quản lý lãnh thổ, quản lý trật tự xã hội mà Nhà nước cịn có một chức
năng nữa đó là chức năng kinh tế, chức năng đòi hỏi phải ngay từ buổi đầu
khi Nhà nước mới xuất hiện. Ban hành pháp luật và văn bản dưới luật; Ban
hành các chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết, điều phối các chính sách kinh tế xã hội; Đầu tư, cung cấp sản phẩm, dịch vụ xã hội cơ bản (cấp phép, kiểm
dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra, v.v...); Giải quyết các vấn đề xã hội
(người già, trẻ em, người tàn tật, v.v...); Bảo vệ mơi trường, giao thơng,
phịng chống thiên tai, bão lụt, v.v...
Nhà nước và kinh tế
Nhà nước được quy định bởi kinh tế, do điều kiện kinh tế quyết định.
Từ sự xuất hiện của nhà nước, bản chất, chức năng, hình thức, bộ máy nhà
nước đều phụ thuộc vào đòi hỏi khách quan của cơ sở kinh tế. Không phụ
thuộc tuyệt đối, chỉ tương đối thể hiện ở 2 phương diện: Nhà nước cùng các
bộ phận khác của kinh tế tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, thúc đẩy
phát triển nhanh thơng qua các chính sách kinh tế có căn cứ khoa học và phù
hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại trong chừng mực nó phù hợp với lợi
ích giai cấp thống trị. Chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa đã làm cho kinh tế nước ta từ 1986 đến nay phát triển mạnh. Nhà
nước có thể đóng vai trò tiêu cực, cản trở sự phát triển kinh tế. Thể hiện chính
sách kinh tế lỗi thời, khơng cịn phù hợp với sự phát triển chung của thế
giới,kìm hãm sự phát triển của quan hệ sản xuất tiến bộ. Trong một thời kỳ
lịch sử nhất định, nhà nước đồng thời có tác động tích cực hoặc tiêu cực đối
với kinh tế phụ thuộc vào khả năng nhận thức và nắm bắt kịp thời hoặc không
kịp thời các phương diện khác nhau của quy luật vận động của kinh tế cũng
như phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp thống trị.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước
là trụ cột của hệ thống chính trị Việt Nam. Nhà nước gồm các có các cơ quan
10
trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân và chính quyền địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước và tổ chức chính trị xã hội
Các tổ chức chính trị của xã hội là những hình thức và phương diện bảo
đảm thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp.
Nhà nước thực sự là trung tâm của đời sống chính trị của hệ thống
chính trị xã hội, là bộ phận không thể thay thế được của bộ máy chuyên chính
giai cấp, là tổ chức thực hiện chức năng quản lý xã hội hiệu quả nhất.
Trong các tổ chức chính trị, Đảng chính trị có vai trị đặc biệt, là lực
lượng có vai trị lãnh đạo, định hướng sự phát triển xã hội. Các đảng chính trị
là tổ chức của các giai cấp, thể hiện lợi ích giai cấp và gồm những đại biểu
tích cực nhất đấu tranh cho lợi ích giai cấp mình. Đảng chính trị cầm quyền
vạch ra chính sách lớn định hướng cho hoạt động của nhà nước, kiểm tra hoạt
động Đảng viên trong việc thực hiện chính sách Đảng, các đảng viên giữ chức
vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước.
Nhà nước và tổ chức xã hội:
Tổ chức xã hội có vai trị quan trọng tùy thuộc vào quy mơ, tính chất
của tổ chức đó. Quan trọng nhất: cơng đồn, đồn thanh niên, hội phụ nữ, hội
nông dân, mặt trận tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng nhiệm vụ khác
nhau dưới sự lãnh đạo của đảng. Chúng có vai trị khác nhau trong đời sống
chính trị. Nhà nước và tổ chức xã hội có quan hệ chặt chẽ theo nguyên tắc hỗ
trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Nhà nước và chính trị
Chính trị với tư cách hiện tượng phổ biến xác định quan hệ giai cấp,
tương quan lực lượng giai cấp, là sự biểu hiện tập trung của kinh tế trong xã
hội có giai cấp. Trong xã hội, nó là sợi dây liên kết giữa nhà nước với cơ sở
hạ tầng kinh tế với các bộ phận khác trong kiến trúc thượng tầng. Các tổ chức
11
chính trị đểu thơng qua chính trị để tác động lẫn nhau, đồng thời tác động đến
các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng như tác động đến cơ sở kinh
tế của xã hội.
Nhà nước và pháp luật
Pháp luật là cơng cụ để nhà nước duy trì sự thống trị, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ. Quyền lực của nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, được thực
hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi pháp luật.
Nhà nước cũng có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực
hiện vai trị của mình. Nhà nước còn là chủ sở hữu tối cao đối với những tư
liệu sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản
xuất đó, Nhà nước thực hiện việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, đảm bảo
cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân. Nhà nước nắm giữ nguồn tài chính và
quyền tối cao trong việc quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất
nước. Những quan hệ quốc tế trong lĩnh vực chính trị và kinh tế càng làm cho
Nhà nước có vai trị nổi bật hơn trong các quan hệ đối nội, giúp Nhà nước củng
cố và phát triển các quan hệ đó trong một thể thống nhất.
Tất cả các điều kiện trên là ưu thế riêng có của Nhà nước XHCN so với
các tổ chức chính trị, xã hội khác, chúng quy định vị trí, vai trị trung tâm của
Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước ta. Hiện nay, việc tiếp tục phát huy
dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân là phương hướng và mục tiêu bao trùm trong hoạt động xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là cơng cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu
sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân.
12
Chương II :Khảo sát thực tế
1.Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
Lào là Nhà nước dân chủ nhân dân, của dân, do dân, vì dân, bao gồm
các tầng lớp trong xã hội, trong đó cơng nhân, nơng dân và trí thức là lực
lượng nịng cốt. Nhà nước bảo vệ quyền tự do và quyền dân chủ của người
dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Nền chính trị Lào diễn ra trong khn khổ của một nước cộng hịa xã
hội chủ nghĩa độc đảng. Đảng chính trị hợp pháp duy nhất là Đảng Nhân dân
Cách
mạng
Lào (LPRP). Người
đứng
đầu
nhà
nước
là Chủ
tịch
nước Thongloun Sisoulith. Người đứng đầu chính phủ hiện tại là Thủ
tướng Phankham Viphavanh. Chính sách của chính phủ được Đảng định đoạt
thơng qua chín thành viên đầy quyền lực của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào và 49 thành viên của Ủy ban Trung ương Đảng. Những quyết
định quan trọng của chính phủ được xem xét chặt chẽ bởi Hội đồng Bộ
trưởng.
Hiến pháp chế độ quân chủ đầu tiên của Lào do Pháp viết được ban
hành vào ngày 11 tháng 5 năm 1947 trong đó tuyên bố Lào là một nhà nước
độc lập trong Liên hiệp Pháp. Hiến pháp sửa đổi ngày 11 tháng 5 năm 1957,
bỏ qua tham chiếu đến Liên hiệp Pháp dù còn quan hệ chặt chẽ về giáo dục, y
tế và kỹ thuật với sức mạnh thực dân cũ vẫn còn. Văn kiện năm 1957 được
bãi bỏ vào ngày 3 tháng 12 năm 1975 khi nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào thành lập.
Một hiến pháp mới được thông qua vào năm 1991 đã ghi nhận "vai trò
chủ đạo" của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Năm 1992, Lào tổ chức cuộc
bầu cử 85 ghế trong Quốc hội mới với các thành viên được bầu bằng phương
thức bỏ phiếu kín nhiệm kỳ năm năm. Quốc hội này chủ yếu đóng vai trị tán
thành các nghị quyết của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, phê duyệt tất cả
các luật lệ mới, mặc dù cơ quan hành pháp vẫn giữ thẩm quyền ban hành nghị
13
định ràng buộc. Quốc hội được mở rộng đến 99 thành viên trong năm 1997 và
cuộc bầu cử năm 2006 đã có tới 115 thành viên.
Trong thực tế hiện nay, các nhà nước trên thế giới đều có hệ thống
chính trị và hành chính đặc thù riêng. Vì thế, tổ chức bộ máy nhà nước cũng
như các tổ chức trong hệ thống chính trị và hành chính của mỗi nước đều có
sự khác biệt tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm và môi trường sống của mỗi
nước, không thể bắt chước được. Mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước
CHDCND Lào cũng như vậy. Trong thực tế ở Lào, hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước được tổ chức theo mơ hình kiêm nhiệm của cán bộ lãnh đạo - quản
lý chủ chốt, vừa là lãnh đạo cơ quan của Đảng đồng thời cũng là người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước, đây là mơ hình có tính đặc thù. Việc phát
huy vai trị của mơ hình này trong thời gian qua đã giành được nhiều thắng lợi
to lớn góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước. Mơ hình kiêm nhiệm đã được
hình thành và tồn tại khá lâu, nhưng ở mỗi nước lại có đặc thù riêng phụ
thuộc vào chế độ chính trị của quốc gia đó. Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể
cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng NDCM Lào trực tiếp lãnh đạo, qua thực
tiễn lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng đã xác định: xây dựng chính
quyền dân chủ nhân dân, do nhân dân lao động các bộ tộc làm chủ, dưới sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Sau khi nắm được chính quyền đến nay,
CHDCND Lào đã thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp với thực tế của đất
nước. “Trong hệ thống chính trị của đất nước Lào có Đảng Nhân dân cách
mạng Lào, có các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên nhân
dân cách mạng Lào, Hội liên hiệp phụ nữ, Cơng đồn và các tổ chức xã hội
khác”. Các tổ chức trong hệ thống chính trị dân chủ nhân dân đều hoạt động
theo chức năng, nhiệm vụ được quy định.
Hệ thống chính trị Lào có cơ chế vận hành chung trong tổ chức và quản
lý xã hội, trong quá trình xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
từng bước tiến lên CNXH, các tổ chức trong hệ thống chính trị là động lực
chung để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và huy động sức mạnh của
14
toàn Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân, hoạt động ăn khớp, phối hợp chặt
chẽ nhằm thúc đẩy sự nghiệp đổi mới về kinh tế và xã hội.
2, Tìm hiểu về hệ thống chính trị
Các tổ chức chính trị của Lào:
1. Đảng nhân dân cách mạng Lào
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được thành lập ngày 22/3/1955, tiền
thân là Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là
chính đảng duy nhất lãnh đạo tồn diện các tổ chức chính trị của Lào và đất
nước Lào.
Đảng NDCM Lào đã tổ chức 9 kỳ Đại hội. Tổ chức của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào gồm Đại hội đại biểu Đảng tồn quốc, Bộ Chính trị, Ban chấp
hành Trung ương Đảng. Đồng chí Cay-xỏn Phơm-vi-hản làm Tổng Bí thư và
Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khoá I-V; đồng chí Khăm-tày
Xỉ-phăn-đon làm Chủ tịch Đảng từ khố VI-VII; đồng chí Chum-ma-ly Xaynha-xỏn làm Tổng Bí thư từ khố VIII-IX.
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng NDCM Lào lần thứ IX được tổ chức
vào tháng 3/2011 và đã bầu Ban Chấp hành TW khố IX gồm 61 đồng chí, 11
đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị; Ban Bí thư Trung ương có 5 đ/c. Tổ chức của
Đảng có 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và cơ sở.
2. Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, do nhân dân bầu trực tiếp, đại
diện lợi ích của nhân dân, là cơ quan lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp, toà
án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân.
Quốc hội có quyền bầu hoặc bãi nhiệm Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ
tịch Quốc hội, các uỷ viên Ban Thường vụ Quốc hội; bầu hoặc bãi nhiệm Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch nước theo kiến nghị của Ban thường vụ Quốc hội;
xem xét thông qua kiến nghị bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ,
15
Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối
cao theo đề nghị của Chủ tịch nước; xem xét và thông qua cơ cấu bộ máy của
Chính phủ; bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm thành viên Chính phủ theo đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ. Mỗi khố Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm.
Quốc hội khố VII (2011-2015) do nữ đồng chí Pa-ny Ya-tho-tu làm Chủ
tịch.
3. Nhà nước:
Nhà nước Lào là Nhà nước dân chủ nhân dân, của dân, do dân, vì dân,
bao gồm các tầng lớp trong xã hội, trong đó cơng nhân, nơng dân và trí thức
là lực lượng nịng cốt. Nhà nước bảo vệ quyền tự do và quyền dân chủ của
người dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, được Quốc hội bầu với số phiếu
chấp thuận của ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước có nhiệm
kỳ 5 năm. Chủ tịch nước kiến nghị lên Quốc hội bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm
Thủ tướng Chính phủ; bổ nhiệm, điều chuyển hoặc cách chức thành viên
Chính phủ sau khi Quốc hội đã thơng qua; bổ nhiệm hoặc cách chức Phó
Chánh án Tồ án Nhân dân Tối cao trên cơ sở kiến nghị của Chánh án Toà án
Nhân dân Tối cao; bổ nhiệm hoặc cách chức Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát
Nhân dân Tối cao trên cơ sở kiến nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân
dân Tối cao; bổ nhiệm, điều chuyển hoặc cách chức Tỉnh trưởng, Đô trưởng
trên cơ sở kiến nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Chủ tịch nước ban hành Hiến pháp và Luật pháp sau khi được Quốc hội
thông qua; ra Sắc lệnh và Pháp lệnh; quyết định trao tặng Huân, Huy chương;
ân xá cho phạm nhân. Quốc hội khóa VII (2011-2015) đã bầu đồng chí
Chum-ma-ly Xay-nha-xỏn làm Chủ tịch nước và đồng chí Bun-nhăng Vo-lachít làm Phó Chủ tịch nước.
4. Chính phủ:
Chính phủ là Lào, là cơ quan hành pháp cao nhất của nước Cộng hịa
Dân chủ Nhân dân Lào. Chính phủ quản lý thống nhất việc thực hiện nhiệm
16
vụ cơng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, an ninh-quốc phịng, ngoại
giao, văn hố-xã hội, giáo dục đào tạo, y tế… Chính phủ có nghĩa vụ thực
hiện Hiến pháp, pháp luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định và Sắc lệnh
của Chủ tịch nước. Chính phủ bao gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với nhiệm kỳ công tác theo nhiệm kỳ
của
Quốc
hội.
Quốc hội khóa VII (2011-2015) đã bầu đồng chí Thong-xỉnh Thăm-ma-vơng
làm Thủ tướng Chính phủ. Nội các hiện tại gồm 28 thành viên, với 18 Bộ và 3
cơ quan ngang Bộ.
5. Chính quyền địa phương:
Chính quyền địa phương được chia thành 3 cấp: Tỉnh, Huyện và Bản.
Cấp tỉnh bao gồm Tỉnh và Thành phố. Cấp Huyện bao gồm Huyện và Thị xã.
Người đứng đầu Tỉnh là Tỉnh trưởng, đứng đầu thành phố là Đơ trưởng.
Huyện có Huyện trưởng, Bản có Trưởng Bản. Các Tỉnh trưởng/ Đơ trưởng
giữ chức Bí thư Tỉnh ủy/ Thành ủy.
6. Tồ án nhân dân:
Tịa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước, bao gồm: Toà án
nhân dân tối cao, Toà Phúc thẩm, Tố án nhân dân tỉnh, thành phố, Tồ án
nhân dân huyện, Toà án Quân sự. Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử
cao nhất của Nhà nước. Toà án nhân dân tối cao quản lý về mặt hành chính
đối với Tồ án nhân dân các cấp, Tồ án Quân sự và thực hiện việc kiểm tra
xét xử của các Tồ án nói trên. Chánh án Tịa án nhân dân tối cao do Quốc
hội bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Chủ tịch nước. Phó Chánh án Toà án
nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm hoặc cách chức trên cơ sở kiến
nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
7. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan chính trị của Lào kiểm sát
việc thực thi pháp luật, bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố, Viện
17
Kiểm sát nhân dân huyện, Viện Kiểm sát Quân sự. Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao chỉ đạo việc hoạt động của cơ quan kiểm sát nhân dân các cấp. Phó
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm hoặc
cách chức trên cơ sở kiến nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao.
8. Các tổ chức chính trị – xã hội và đồn thể nhân dân
Các tổ chức chính trị của Lào- xã hội Lào và đoàn thể nhân dân gồm:
Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Cơng đồn, Đồn thanh niên nhân dân cách
mạng Lào, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh và nhiều tổ chức xã hội và các
đoàn thể nhân dân khác.
3, Ngun nhân hình thành vị trí, vai trò của nhà nước
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (tiếng Lào: Phak Pasaxon Pativat
Lao) là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất ở Lào theo Hiến pháp.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được chính thức thành lập vào ngày 22
tháng 3 năm 1955. Đảng đã lãnh đạo phong trào, cuộc nổi dậy chống
lại Chính phủ Hồng gia Lào và hỗ trợ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Cuộc nổi dậy lên đến đỉnh điểm vào năm
1975, với việc Đảng Nhân dân Cách mạng Lào giành chính quyền. Trong
những năm đầu tiên cầm quyền, Đảng đã tăng cường quyền kiểm soát đối với
xã hội và cố gắng thiết lập một nền kinh tế kế hoạch dựa trên mơ hình của
Liên Xô. Trong những năm 1980, chịu ảnh hưởng của cải cách thị trường ở
Trung Quốc và Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã khởi xướng các
chương trình cải cách kinh tế nhằm tư nhân hóa các cơng ty nhà nước và hợp
pháp hóa tài sản tư nhân.
Hình thức tổ chức của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là nguyên tắc
tập trung dân chủ. Cơ quan cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc,
nơi sẽ bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan tối cao quyết định các vấn đề của
Đảng. Sau Đại hội, Trung ương sẽ bầu ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư, và bầu
18