Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

B3 hoạt động nhận thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.78 KB, 12 trang )

HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC
MỤC TIÊU:
Sau khi học xong người học có thể:
1. Hiểu được các khái niệm cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng
2. Phân tích được các quy luật cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng
Hoạt động nhận thức là một trong 3 mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người
(nhận thức, tình cảm và hành động). Nó quan hệ chặt chẽ với các mặt kia,
nhưng khơng ngang bằng về ngun tắc. Nó cũng có quan hệ mật thiết với các
hiện tượng tâm lý khác của con người.
Hoạt động nhận thức là hoạt động phản ánh bản thân hiện thực khách quan. Đó
là hoạt động nhận biết, đánh giá về thế giới quanh mình. Khi chúng ta nhìn
nhận, xem xét một vấn đề nào đó, khi chúng ta tìm hiểu đánh giá một con
người, thì có nghĩa là chúng ta đang tiến hành nhận thức chúng. Khi nhận thức
một sự vật, một hiện tượng, một con người, nghĩa là ta trả lời các câu hỏi: đó là
cái gì? Nó có ý nghĩa gì? Tại sao lại như vậy? Người đó là ai? Bản chất người
đó là như thế nào?... Hoạt động nhận thức là cơ sở của mọi hoạt động tâm lý
khác của con người, nhờ có nhận thức con người mới có tình cảm, xúc cảm, ý
chí và hành động. Có nhận thức đúng về đối tượng thì chúng ta mới có tình
cảm, xúc cảm đúng đắn, mới có những hành động đúng hợp với quy luật của sự
vật hiện tượng.
Hoạt động nhận thức diễn ra theo những cấp độ khác nhau, mỗi một cấp độ
nhận thức có những tính chất, qui luật riêng của mình. Cấp độ nhận thức thấp
nhất là nhận thức cảm tính, cấp độ nhận thức cao hơn là nhận thức lý tính. Giữa
cảm tính và lý tính có một cấp độ trung gian đó là trí nhớ. Trí nhớ giúp chúng ta
lưu giữ những gì đã nghe, đã thấy, đã cảm, trên cơ sở đó giúp tư duy rút ra bản
chất của sự vật hiện tượng. Các cấp độ của nhận thức có liên quan, gắn bó chặt
chẽ với nhau, bổ sung, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động nhận thức
của con người.
1. Nhận thức cảm tính.
Nhận thức cảm tính có 2 q trình cơ bản là cảm giác và tri giác.
1.1 Cảm giác


1.1.1 Định nghĩa


Mỗi sự vật hiện tượng xung quanh ta đều được bộc lộ bởi hàng loạt những
thuộc tính bề ngồi như màu sắc (xanh, đỏ, tím. Vàng….), kích thước (cao thấp,
vng tròn…), trọng lượng ( nặng nhẹ..), khối lượng (To, nhỏ, nhiều, ít..), tính
chất (nóng, lạnh, cay, đắng..). Những thuộc tính đó được liên hệ với bộ não con
người là nhờ cảm giác.
Cảm giác là một quá trình nhận thức đơn giản nhất, phản ánh những đặc điểm
riêng lẻ, bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các
giác quan tương ứng của con người.
Ở mức độ cảm giác chúng ta mới chỉ có những hiểu biết rất mơ hồ, rất chung
chung về thế giới xung quanh, thậm chí cảm giác có thể khơng chính xác.
Chẳng hạn khi mới tiếp xúc với một người, ta đánh giá “Anh này trơng có vẻ
khơng đàng hồng”, nhưng chưa biết rõ là anh ta khơng đàng hồng ở điểm nào,
căn cứ vào đâu lại đánh giá như vậy. Lời nhận xét đó mới chỉ ở mức độ cảm
giác mà thơi. Vì vậy khi nhận xét con người, chúng ta cần chú ý là cảm giác
không phải bao giờ cũng đúng.
Tuy là hiện tượng tâm lý sơ đẳng, song cảm giác là nền tảng của nhiều hoạt
động tâm lý khác của cả người và động vật. Với con vật, cảm giác là hình thức
định hướng cao nhất trong mơi trường. Cịn với con người, cảm giác là hình
thức định hướng đầu tiên, song nó đã giúp đỡ tích cực con người trong việc điều
khiển, điều chỉnh hoạt động trong môi trường. Giác quan của một số loài vật
phản ánh khá tinh vi và nhạy bén, như mắt của chim đại bàng,, tai của dơi. Giác
quan của người qua quá trình phát triển lâu dài, qua rèn luện, nhờ kinh nghiệm,
vốn sống và hoạt động nghề nghiệp mà khơng ngừng hồn thiện, trở nên tinh vi
và nhạy bén hơn nhiều so với giác quan của các loài vật.
Chất lượng của cảm giác được xác định bởi tính nhạy cảm. Tính nhạy cảm là
khả năng cảm nhận về sự vật hiện tượng. Tính nhạy cảm giúp con người định
hướng một cách nhanh chóng trong hoạt động cũng như trong giao tiếp. Nó làm

cho con người trở nên tinh vi hơn, nhạy bén hơn và tế nhị hơn. Tính nhạy cảm
phụ thuộc vào tình trạng của các giác quan, tuổi tác, kinh nghiệm, tính nghề
nghiệp, sự rèn luyện và giới tính của con người.
1.1.2 Các loại cảm giác
Căn cứ vào vị trí của nguồn kích thích và bộ máy thụ cảm người ta chia thành
cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong.


 Cảm giác bên ngoài là những cảm giác do kích thích từ bên ngồi gây
nên. Bao gồm:
- Cảm giác nhìn (thị giác): cảm giác nhìn nảy sinh do sự tác động của sóng
ánh sáng phát ra từ các sự vật. Cơ sở giải phẫu sinh lí của cảm giác nhìn
là cơ quan phân tích thị giác. Cảm giác nhìn cho ta biết những thuộc tính
hình dạng, độ lớn, số lượng màu sắc, kích thước, số lượng và độ xa của
các sự vật. Cảm giác nhìn chiếm vị trí quan trọng nhất trong việc thu
nhận thông tin từ thế giới bên ngồi. Khoảng 90% lượng thơng tin thu
được bằng giác quan là do thị giác đem lại. “Trăm nghe không bằng một
thấy”
- Cảm giác nghe (thính giác): cảm giác nghe là cảm giác do những sóng âm
tức là những dao động của khơng khí, những sóng âm được lan ra mọi
phía từ nguồn phát ra âm thanh đến tai người nghe. Cơ sở giải phẫu sinh
lí của cảm giác nghe là bộ máy phân tích thính giác. Cảm giác nghe phản
ánh những thuộc tính như cường độ, cao độ và sắc của âm thanh.
Cảm giác nghe cũng có ý nghĩa to lớn trong đời sống. Nhờ cảm giác nghe
mà ta nghe được tiếng nói, có thể giao tiếp với người khác bằng ngôn
ngữ…
- Cảm giác ngửi (khứu giác): cảm giác ngửi là cảm giác do các phần tử của
các chất bay hơi tác động lên màng ngoài của khoang mũi cùng khơng
khí gây nên. Cảm giác ngửi cho ta biết được thuộc tính mùi của đối tượng
gây nên.

- Cảm giác nếm (vị giác) cảm giác nếm do sự tác động của các thuộc tính
hóa học của các chất hịa tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác
ở lưỡi gây nên. Cảm giác nếm có 4 loại: cảm giác ngọt, cảm giác chua,
cảm giác mặn và cảm giác đắng. Sự đa dạng của các vị thức ăn phụ thuộc
đáng kể vào tính chất của sự kết hợp giữa các cảm giác kể trên và vào sự
phối hợp với cảm giác ngửi. Nếu hoàn toàn mất cảm giác ngửi thì trong
một mức độ đáng kể khó phân biệt được các vị khác nhau của đồ ăn.
- Cảm giác da (xúc giác): là cảm giác do những kích thích cơ học và nhiệt
học tác động lên da tạo nên. Cảm giác da gồm 5 loại: cảm giác đụng
chạm, cảm giác nén, cảm giác nóng, cảm giác lạnh, cảm giác đau. Cảm
giác da cho ta biết sự đụng chạm, sức ép của vật vào da cũng như nhiệt
độ của vật.
 Cảm giác bên trong: là những cảm giác do những kích thích bên trong cơ
thể gây nên. Cảm giác bên trong bao gồm:


- Cảm giác vận động: là cảm giác phản ánh những biến đổi xảy ra trong
các cơ quan vận động. Cảm giác vận động báo hiệu về mức độ co của cơ
và vị trí của các phần thân thể chúng ta. Khi các cơ gân, khớp, xương
trong cơ thể chuyển động sẽ tạo nên cảm giác vận động. Cảm giác thăng
bằng: là cảm giác phản ánh vị trí và phương hướng chuyển động của đầu.
Khi cơ quan thăng bằng bị kích thích quá mức sẽ gây mất thăng bằng, ta
sẽ cảm thấy chóng mặt và buồn nơn.
1.1.3 Các quy luật cơ bản của cảm giác
- Quy luật về ngưỡng cảm giác: Muốn có cảm giác thì phải có kích thích
tương ứng tác động vào giác quan. Song không phải mọi kích thích cũng đều
gây ra được cảm giác. Nếu cường độ kích thích quá bé (hạt bụi rơi vào cánh tay
chẳng hạn) thì chưa gây ra được cảm giác, cịn cường độ kích thích quá lớn (ví
dụ ngọn đèn pha chiếu vào mắt) thì cũng làm mất cảm giác. Vậy để gây được
cảm giác thì cường độ kích thích phải nằm trong một giới hạn nhất định. Giới

hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.
- Quy luật về sự thích ứng của cảm giác. Độ nhạy cảm của các cơ quan phân
tích khơng phải là cố định, mà nó có thể thay đổi dưới ảnh hưởng của hàng loạt
những điều kiện tâm lý và sinh lý, trong đó có hiện tượng thích ứng. thích ứng
đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm cho phù hợp với cường độ kích thích – khi
cường độ kích thích tăng lên thì độ nhạy cảm giảm xuống và khi cường độ kích
thích giảm xuống thì độ nhạy cảm tăng lên. Thích ứng là sự quen dần của cảm
giác và có thể dẫn đến mất hẳn cảm giác khi kích thích tác động một cách
khơng đổi vào giác quan.
- Quy luật về sự tác động lẫn nhau giữa các cãm giác. Cảm giác của con
người không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà chúng tác động qua lại lẫn
nhau. Một cảm giác có thể thay đổi tính nhạy cảm do sự ảnh hưởng của các cảm
giác khác. Ví dụ “ nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”.
1.1.4 Rối loạn cảm giác.
Do cơ thể hoạt động khơng bình thường, hoặc do bệnh lý mà thu nhận cảm giác
không đúng.
- Tăng cảm giác: tăng khả năng thu nhận kích thích có thật. Khi ngưỡng cảm
giác tuyệt đối dưới giảm xuống, bệnh nhân đáp ứng một cách quá mẫn cảm với
kích thích, nhiều khi những kích thích trung bình hoặc nhẹ cũng làm cho người
bệnh khơng chịu nổi. ví dụ: những bệnh nhân suy nhược thần kinh, bệnh nhân
lên cơn dại rất khó chịu với những tác động của ánh sáng, tiếng động… sợ gió,
sợ nước..


- Giảm cảm giác: Giảm khả năng thu nhận kích thích có thật. Khi ngưỡng cảm
giác tuyệt đối dưới tăng cao, người bệnh không tiếp thu được những tác động có
cường độ kích thích trung bình hoặc thấp. Những người bệnh đó thấy xung
quanh mình như mờ mờ, ảo ảo, mọi tiếng động như xa xôi, mọi thức ăn trở nên
nhạt nhẽo.
- Mất cảm giác: Khơng có khả năng thu nhận kích thích có thật.

- Loạn cảm giác: Cảm giác khơng đúng, người bệnh có những cảm xúc khơng
bình thường, kỳ lạ hoặc có sự lẫn lộn về cảm giác. Trong rối loạn cảm giác bản
thể, bệnh nhân thấy đau nhức, tê, buồn, khó chịu trong cơ thể, trong nội tạng
một cách vơ cớ, khó hiểu. Hoặc người bệnh tiếp nhận các cảm giác thông
thường trở nên nặng nề hơn, ví dụ cảm thấy nóng nực hơn, lạnh hơn, cảm giác
nghẹt thở, cảm giác ngứa ngáy làm cho người khó chịu. Trong những trường
hợp đó người bệnh sẽ bị kích thích mạnh, thiếu kiên nhẫn, có khi trở nên hung
dữ.
1.2 Tri giác
1.2.1 Định nghĩa
Khác với cảm giác, tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó
khơng phải là tổng số các thuộc tính riêng lẻ mà là một sự phản ánh sự vật hiện
tượng nói chung trong tổng hịa các thuộc tính của nó.
Tri giác là một quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
bề ngồi của từng sự vật hiện tượng riêng lẻ khi chúng trực tiếp tác động vào
giác quan. Tri giác hình thành từ cảm giác nhưng được phát triển lên. Tri giác là
sự phản ánh cao hơn so với cảm giác, phản ánh một cách tổng hợp các thuộc
tính của sự vật hiện tượng cho một hình ảnh trọn vẹn trên não bộ. Tri giác là khi
chúng ta đã nhận ra sự vật hiện tượng một cách khá rõ ràng, cụ thể.
1.2.2 Các loại tri giác
Dựa vào đối tượng được phản ánh trong tri giác, có thể chia làm ba loại:
- Tri giác không gian: là sự phản ánh cái không gian tồn tại một cách khách
quan. Nhờ khả năng tri giác các thuộc tính khơng gian của đối tượng mà
ta biết được hình dạng, độ lớn, vị trí của sự vật, hình nổi, độ xa và
phương hướng của chúng. Trên cơ sở đó con người có thể định hướng và
điều chỉnh hành động của mình trong thế giới.
- Tri giác thời gian: Là sự phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách
quan của các hiện tượng trong hiện thực. Nhờ tri giác các thuộc tính thời
gian của đối tượng mà ta biết được độ lâu, độ nhanh, nhịp điệu, tính liên
tục hoặc gián đoạn của sự diễn biến trong thế giới xung quanh, những

biến đổi xảy ra trong thế giới.


- Tri giác sự chuyển động (vận động): là sự phản ánh những biến đổi về vị
trí của các sự vật trong khách quan nhờ đó ta biết được phương hướng,
tốc độ, thời gian chuyển động của sự vật
Ba loại tri giác trên đây thường có liên quan mật thiết, bổ sung cho nhau giúp
con gnười tri giác trọn vẹn sự vật hiện tượng và thế giới khách quan. Sự phát
triển các loại tri giác này phụ thuộc vào kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn của
con người.
1.2.3 Các quy luật của tri giác.
- Quy luật về tính đối tượng của tri giác: Hình ảnh trực quan mà tri giác mang
lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng nhất định nào đó trong hiện
thực khách quan.
- Quy luật về tính lựa chọn của tri giác: Tri giác thực chất là một q trình lựa
chọn tích cực: Khi ta tri giác một đối tượng nào đó có nghĩa là đã tách đối tượng
tri giác ra khởi bối cảnh xung quanh để tri giác tốt hơn. Trong trường hợp này
bối cảnh xung quanh là nền của đối tượng. sự vật hiện tượng càng khác với bối
cảnh tri giác thì tri giác càng lựa trọn dễ dàng. Tính lựa trọn của tri giác thể hiện
thái độ tích cực của con người đối với sự vật hiện tượng đang được tri giác. Nhờ
có tính chất này mà hiệu quả của tri giác được nâng cao và kết quả tri giác càng
phù hợp với hoạt động chủ thể. Bản chất của quá trình tri giác tích cực là q
trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung quanh. Tính đối tượng của tri giác
phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như đặc điểm vật kích thích (cường độ,
nhịp điệu vận động, sự tương phản…) đặc điểm của môi trường xung quanh
(ánh sáng, khoảng cách, tác động của người khác…) và còn phụ thuộc vào yếu
tố chủ quan như nhu cầu, hứng thú, tình cảm, xu hướng, tâm trạng, kinh nghiệm
sống, tuổi tác, sức khỏe, nghề nghiệp của chủ thể… Tính lựa chọn giúp tri giác
khắc phục cách nhìn sự vật hiện tượng một cách phiến diện, định kiến.
- Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác: Khả năng gọi tên, đặt tên sự vật hiện

tượng và xếp sự vật hiện tượng vào một nhóm, loại nào đó. Đây chính là tính ý
nghĩa của hình ảnh tri giác. Tính ý nghĩa này phụ thuộc vào vốn hiểu biết, kinh
nghiệm, khả năng tư duy, ngôn ngữ của chủ thể và liên quan đến tính trọn vẹn
của tri giác (tri giác càng đầy đủ các thuộc tính, bộ phận của sự vật hiện tượng
thì việc gọi tên, chỉ ra cơng dụng của nó càng cụ thể, chính xác)
- Quy luật về tính ổn định của tri giác: Là khả năng phản ánh sự vật, hiện tượng
không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi. Ví dụ, trong ánh sáng trắng hay
đỏ, người bác sĩ vẫn tri giác đó là cái ống nghe. Tính ổn định của tri giác khi ta
tri giác độ lớn, hình dạng, màu sắc của đối tượng. Nó phụ thuộc trước hết vào
cấu trúc ổn định của đối tượng trong một thời gian nhất định và phụ thuộc vào


cơ chế tự điều chỉnh đặc biệt của hệ thần kinh. Ngồi ra tính ổn định cịn phụ
thuộc vào kinh nghiệm, vốn sống… của chủ thể vào đối tượng tri giác.
- Quy luật tính tổng giác: Là q trình vận dụng toàn bộ đời sống tâm lý cá nhân
và đặc điểm nhân cách vào các quá trình tri giác. Là khả năng sử dụng các giác
quan, toàn bộ các hoạt động tâm lý, đặc điểm nhân cách của chủ thể khi tri giác.
Là năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người giúp nhận thức thế
giới ngày càng tinh vi, sâu sắc và tổng thể.
Các quy luật tri giác có liên quan chặt chẽ, bổ sung cho nhau và làm cho tri giác
con người trở nên tích cực, nhạy bén và sinh động.
1.2.4 Rối loạn tri giác
- Ảo tưởng: là tri giác sai lệch về toàn bộ về sự vật hiện tượng có thật của thế
giới khách quan. Ví dụ nhìn đoạn dây thừng tưởng là con rắn, nhìn hình nộm
tưởng con người. Trong lâm sàng thường gặp những loại tri giác sai với thực tại
như tri giác sai lệch thị giác, thính giác, vị giác… Có nhiều loại tri giác sai lệch
gắn với trạng thái cảm xúc, gắn với lời nói (do lo âu, trầm cảm, hưng phấn…)
Ảo ảnh kỳ lạ là một dạng đặc biệt của tri giác sai với thực tại, nó thường xuất
hiện ngồi ý chí, khơng liên quan đến cảm xúc người bệnh như trong trạng thái
mê sảng, mơ màng. Ví dụ: bệnh nhân nhìn vào bức tranh hoặc vào đám mây

thấy biến đổi dần dần thành người có khuân mặt kỳ dị, quái lạ.
- Ảo giác: Là những tri giác như có thật về một sự vật hiện tượng khơng hề có
trong thực tại khách quan như ảo thanh, ảo thị, ảo giác xúc giác… những ảo
giác xuất hiện hoặc mất đi ngoài ý muốn người bệnh và thường đi kèm với các
rối loạn ý thức, tư duy của người bệnh. Có 2 loại ảo giác. Ảo giác thật: là những
ảo giác được người bệnh chấp nhận như những sự vật hiện tượng có thực trong
hiện thực khách quan, khơng phân biệt được giữa ảo giác và sự thật. Ảo giác giả
là ảo giác mà người bệnh nhận ra như những sự vật hiện tượng lạ lùng, không
giống với hiện thực khách quan và họ có thể phân biệt được giữa ảo giác và sự
thật,
- Rối loạn tri giác: là những rối loạn bệnh lý tri giác đi kèm với rối loạn tâm lý
khác của người bệnh làm cản trở sự thống nhất, trọn vẹn về sự vật hiện tượng
trong hiện thực khách quan. Rối loạn tri giác có 2 loại: + Tri giác sai thực tại:
trong trường hợp người bệnh biết rằng bản chất của đối tượng tri giác không
thay đổi, mà chỉ thay đổi một vài chi tiết thuộc tính. Như vẫn thấy cái nhà
nhưng cái nhà đó có vẻ to hơn bình thường. Giải thể nhân cách: là những rối
loạn tri giác về sơ đồ cơ thể như: Người bệnh thấy mình như khơng có tim, tay
chân có thể dài ra, người nhẹ như bông…


2. Nhận thức lý tính.
2.1 Tư duy.
2.1.1 Khái niệm
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực
khách quan, mà trước đó ta chưa biết.
Ở mức độ nhận thức cảm tính con người mới phản ánh được những thuộc tính
trực quan cụ thể, bên ngồi. Những mối quan hệ không gian, thời gian và trạng
thái vận động của sự vật hiện tượng. Là những phản ánh trực tiếp những tác
động của sự vật hiện tượng.

Ở mức độ nhận thức lý tính, con người có tư duy. Tư duy đi sâu phản ánh
những thuộc tính bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. Ví dụ, qua tư duy
mà chúng ta biết được bản chất vật chất của các hiện tượng tâm lý; biết được
bản chất của sự di truyền sinh vật là các gen di truyền… Tư duy còn đi sâu phản
ánh những mối quan hệ nhân quả, liên hệ mang tính quy luật của các sự vật hiện
tượng, như mối quan hệ nhân quả giữa thiếu iod và bệnh bướu cổ, giữa viêm
gan siêu vi và triệu chứng vàng da, vàng niêm mạc. Mặt khác, tư duy cịn có thể
phản ánh những sự vật hiện tượng mới, khái qt, hiện tại khơng có, khơng trực
tiếp tác động vào giác quan, ví dụ con người tìm cách thiết kế tịa nhà hiện đại,
bác sĩ tìm phương pháp mổ tối ưu cho bệnh nhân.
Tư duy của con người mang bản chất xã hội, sáng tạo và có tính ngơn ngữ.
Những tình huống tư duy của con người được đặt ra do nhu cầu cuộc sống, lao
động học tập và hoạt động xã hội, được quy định bởi nguyên nhân xã hội, nhu
cầu xã hội. Sự phát triển các hình thức, thao tác tư duy của con người liên quan
đến sự phát triển lịch sử - xã hội. Trong quá trình tư duy, con người sử dụng
phương tiện ngôn ngữ. Kết quả hoạt động tư duy của con người là đóng góp lớn
lao cho nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội loài người.
- Bản chất của tư duy thể hiện:
+ Tư duy nảy sinh từ đời sống và hoạt động sống
+ Tư duy bị quy định bởi xã hội
+ Nhận thức phát triển từ thao tác: Hình tượng->Ngơn ngữ->Tư duy trừu
tượng-> Tư duy khái qt
2.1.2 Phân loại tư duy
Phân loại theo phương diện phát triển chủng loại cá thể (phương diện lịch sử
hình thành và phát triển tư duy), gồm 3 loại: - Tư duy trực quan-hành động: có
ở người và một số động vật cao cấp. Trong loại tư duy này, việc giải quyết vấn
đề dựa vào các hình ảnh trực quan của sự vật hiện tượng khách quan. – Tư duy


trừu tượng: là tư duy phát triển cao hơn và chỉ có ở người bao gồm: + Tư duy

hình tượng: kết quả của loại tư duy này cho ta một hình tượng. Mỗi hình tượng
mang một nội dung khái niệm bản chất. Qua hình tượng, ta có thể hiểu được
những khái niệm có chứa trong đó. Ví dụ hình tượng “ơng gióng nói lên sức
mạnh chống ngoại xâm của dân tộc ta…”. + Tư duy ngôn ngữ logic: là loại tư
duy phát triển ở mức độ cao nhất. Trong loại tư duy này việc giải quết vấn đề
dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ logic và gắn bó chặt chẽ với ngôn ngữ,
lấy ngôn ngữ làm phương tiện.
Ba loại tư duy trên đây liên quan chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Tư duy
trừu tượng được thực hiện dựa trên cơ sở của 2 loại tư duy trực quan thấp hơn.
Ở người trưởng thành, khi đã phát triển tư duy trừu tượng điều đó có nghĩa là
khơng còn phát triển tư duy trực quan-hành động và tư duy trực quan hình ảnh
nữa mà trái lại tư duy trừu tượng tác động tác động vào tư duy trực quan thêm
cụ thể, thêm sinh động. Và tư duy trực quan tác động vào tư duy trừu tượng
thêm sâu sắc hơn làm cho các tư duy tồn tại, không ngừng phát triển và hồn
thiện.
2.1.3 Đặc điểm của tư duy
- Tính có vấn đề của tư duy: Khơng phải bất kỳ tác động nào của hoàn
cảnh cũng đều làm nảy sinh tư duy. Trên thực tế, tư duy chỉ nảy sinh khi
gặp những hồn cảnh có vấn đề. Hồn cảnh có vấn đề là những tình
huống trong đó bằng những vốn hiểu biết cũ, bằng những phương pháp
hành động cũ, con người khơng thể giải quyết được nó. Nét chung của
hồn cảnh có vấn đề là có sự mâu thuẫn giữa mục đích đề ra và việc chưa
biết cách đạt được mục đích đó. Tuy nhiên khơng phải bất kỳ một hồn
cảnh có vấn đề nào cũng kích thích đoực tư duy, mà chỉ có những tình
huống nào được con người nhận thức một cách đầy đủ, được chuyển
thành nhiệm vụ tư duy thì mới làm nảy sinh tư duy.
- Tính khái quát của tư duy: Tư duy có khả năng xuất khỏi sự vật, hiện
tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cá biệt, cụ thể, chỉ giữ lại những
thuộc tính bản chất chung cho nhiều sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở đó mà
khái quát những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng có những thuộc tính

bản chất chung cho một nhóm, một loại, một phạm trù, qua đó biết được
bản chất, quy luật của những sự vật hiện tượng cùng loại nhờ đó có thể
giải quyết, cải tạo thế giới xung quanh và biết được hiện tại, dự đoán
được cả tương lai.
- Tính gián tiếp của tư duy: Tư duy của co người có thể phản ánh gián tiếp,
tư duy có thể phản ánh sự vật khi chúng khơng còn trực tiếp tác động vào


giác quan của ta hoặc chỉ cần một vài dấu hiệu hoặc quan hệ nào đó của
sự vật cũng giúp con người đó phản ánh được tồn bộ sự vật ấy. Con
người sử dụng những công cụ, phương tiện (máy móc, trang thiết bị kỹ
thuật…) để nhận thức đối tượng mà không thể tri giác trực tiếp được.
- Tư duy liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ: sở dĩ tư duy con người có những
đặc điểm vừa nêu trên là vì tư duy con người gắn liền với ngơn ngữ. Tư
duy lấy ngôn ngữ làm phương tiện. Ngôn ngữ thể hiện tư duy. Tư duy và
ngôn ngữ thống nhất với nhau, nhưng không đồng nhất và tách rời nhau
được. Nếu khơng có ngơn ngữ thì sản phẩm của tư duy sẽ không được
chủ thể và người khác tiếp nhận, cũng như chính bản thân q trình tư
duy cũng khơng diễn ra được.
2.2 Tưởng tượng
2.2.1.1 Khái niệm
Trong thực tiễn, nhiều khi gặp hồn cảnh có vấn đề, nếu chỉ bằng tư duy, con
người không thể giải quết được. Trong những trường hợp này, con người
phải dùng một phương thức hoạt động khác, đó là nhận thức bằng tưởng
tượng.
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ
sở những hình ảnh đã có.
Hình ảnh mới của tưởng tượng là hình ảnh đã có của trí nhớ được gọi là
biểu tượng. Biểu tượng của tưởng tượng là những hình ảnh mới, khái quát do

con người tự tạo ra. Cịn biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật hiện
tượng trước đây đã tác động vào não nay nhớ lại, tái hiện lại. Biểu tượng của
tưởng tượng được tạo ra trên cơ sở những biểu tượng của trí nhớ. Tưởng tượng
của con người phụ thuộc vào những đặc điểm tâm lý của cá nhân như tri giác, tư
duy, tình cảm, hứng thú, năng khiếu… Và phụ thuộc vào thực tiễn của cuộc
sống, kinh nghiệm chung của xã hội loài người.
2..2.2 Các loại tưởng tượng:
- Tưởng tưởng tiêu cực và tưởng tượng tích cực
Tưởng tưởng tiêu cực: Là loại tưởng tưởng tạo ra những hình ảnh khơng
được thực hiện trong cuộc sống, vạch ra những chương trình của hành vi khơng
được thực hiện và ln ln khơng thể thực hiện.
Tưởng tượng tích cực: Là tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp
ứng những nhu cầu, kích thích tích cực thực tế của con người.
- Ước mơ và lý tưởng


Ước mơ là một loại tưởng tưởng sáng tạo, nhưng không trực tiếp hướng
vào hoạt động hiện tại.
Lý tưởng: Là một hình ảnh mẫu mực, chói rọi, rực sáng, cụ thể, hấp dẫn
của tương lai mong muốn. Nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy con
người vuơn tới tương lai. Lý tưởng có tính tích cực và hiện thực cao hơn
ước mơ.
 Các cách sáng tạo ra hình ảnh mới trong tưởng tượng
- Thay đổi kích thước, số lượng của sự vật hay thành phần của sự vật.
- Nhấn mạnh các chi tiết, thành phần, thuộc tính của sự vật.
- Chắp ghép (kết dính)
- Liên hợp
- Điển hình hố
- Loại suy
Tưởng tượng đóng vai trị quan trọng trong bất kỳ hoạt động nào của con người.

Tưởng tượng giúp con người định hướng hoạt động của mình bằng cách xây
dựng trước mơ hình tâm lý về kết quả cuối cùng của hoạt động và đảm bảo việc
thành lập chương trình đi đến kết quả đó. Khơng hình dung ra được kết quả
cơng việc của mình, người ta khó có thể bắt đầu công việc được. Đây là sự khác
nhau cơ bản giữa lao động của con người và những hành động bản năng của lồi
vật.
Tóm lại, hoạt động nhận thức là hoạt động cơ bản của đời sống tâm lý con
người, nó là cơ sở của cuộc sống của tài năng, của sự phát triển nhân cách con
người, bởi vậy chúng ta phải chú ý đến những đặc điểm sau đây của họ:
Thứ nhất, khi đánh giá khả năng nhận thức của con người, chúng ta nên chú ý
đến những đặc điểm sau đây:
- Sự nhạy bén, tinh tế, linh hoạt trong nhận thức
- Khả năng quan sát nhanh chóng. Chính xác và bao qt được nhiều đói
tượng
- Khả năng tư duy (từ việc phát hiện vấn đề nhanh, chính xác, cho đến việc
giải quyết vấn đề một cách linh hoạt và có tính sáng tạo.)
- Trí tưởng tượng phong phú, khả năng liên tưởng được những khái niệm
rất xa về mặt ý nghĩa, khả năng dự đoán và lường trước được những sự
kiện trong tương lai.
- Trình độ nhận thức, bao gồm trình độ văn hóa, trình độ kiến thức, vốn
hiểu biết thực tế, vốn kinh nghiệm…
Thứ hai, rèn luyện khả năng nhận thức, khả năng trí tuệ của bản thân cụ thễ là:
- Rèn luyện tính nhạy cảm.


- Rèn luyện khả năng quan sát, nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách chính
xác và khách quan.
- Rèn luyện năng lực tư duy (phát hiện vấn đề nhanh, giải quyết vấn đề
chính xác, linh hoạt). Rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh,
trừu tượng hóa, khái quát hóa và khả năng vận dựng các kiến thức, các

mệnh lệnh, chỉ thị một cách sáng suốt, phù hợp với thực tế.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×