Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Ước muốn chăm sóc cuối đời và các yếu tố liên quan của người bệnh từ 65 tuổi trở lên tại bệnh viện đại học y dược thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 124 trang )

.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------HUỲNH VĂN CẢNH -

HUỲNH VĂN CẢNH

KHÓA 2019 – 2021

TỪ 65 TUỔI TRỞ LÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC

- NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG

ƯỚC MUỐN CHĂM SÓC CUỐI ĐỜI

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG

VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021

.


.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------

HUỲNH VĂN CẢNH

ƯỚC MUỐN CHĂM SÓC CUỐI ĐỜI
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH
TỪ 65 TUỔI TRỞ LÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGÀNH: ĐIỀU DƯỠNG
MÃ SỐ: 8720301

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỀU DƯỠNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. TRẦN THỤY KHÁNH LINH
2. GS. TS. DIANE ERNST

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021

.


.

LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học trong phạm vi luận
văn thạc sĩ với sự hướng dẫn của các thầy cô Đại học Y dược Thành phố Hồ
Chí Minh. Các số liệu được ghi nhận, nhập liệu, phân tích một cách hồn tồn
trung thực, khách quan, và được xác nhận tại nơi khảo sát. Kết quả từ cơng
trình nghiên cứu này chưa được cơng bố trong bất kỳ nghiên cứu khoa học nào
khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HUỲNH VĂN CẢNH

.


i.

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
MỤC LỤC ......................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................. iv
DANH MỤC CÁC HÌNH ................................................................................. v
DANH MỤC CÁC BẢNG............................................................................... vi
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ........................................................................... 4
Mục tiêu tổng quát ............................................................................................ 4
Mục tiêu cụ thể .................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 5
1.1. Định nghĩa chăm sóc giảm nhẹ .................................................................. 5
1.2. Định nghĩa chăm sóc cuối đời .................................................................... 6

1.3. Nội dung chăm sóc cuối đời....................................................................... 6
1.4. Các bước chăm sóc cuối đời ...................................................................... 7
1.5. Kế hoạch chăm sóc y tế cho tương lai ....................................................... 9
1.6. Những ước muốn cuối đời ......................................................................... 9
1.7. Chăm sóc cuối đời ở người cao tuổi trên thế giới và Việt Nam .............. 10
1.8. Thang đo Go Wish ................................................................................... 12
1.9. Các nghiên cứu liên quan ......................................................................... 13
1.10. Học thuyết Callista Roy ......................................................................... 17
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 23
2.1. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................. 23
2.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 23
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................ 24
2.4. Cỡ mẫu của nghiên cứu ............................................................................ 24

.


.

i

2.5. Chiến lược lấy mẫu .................................................................................. 24
2.6. Các chỉ số và biến số nghiên cứu ............................................................. 24
2.7. Phương pháp và công cụ đo lường, thu thập số liệu ................................ 30
2.8. Quy trình nghiên cứu ............................................................................... 34
2.9. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu .................................................. 35
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu ...................................................................... 37
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 39
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ........................................................ 39
3.2. Sử dụng bộ thẻ trò chơi Go Wish............................................................. 43

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN ............................................................................. 68
4.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu ........................................................ 68
4.2. Sử dụng bộ thẻ trò chơi Go Wish............................................................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 80
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI .............................................................................. 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

.


v.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT

TIẾNG VIỆT
Bác sĩ

BS
CSCĐ

Chăm sóc cuối đời

CSGN

Chăm sóc giảm nhẹ

NB


Người bệnh

NBCT

Người bệnh cao tuổi

NCT

Người cao tuổi

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TCYTTG

Tổ chức Y tế Thế giới

.


.

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang

Hình 1. 1. Roy và mơ hình thích ứng .............................................................. 19
Hình 1. 2. Mơ hình thích ứng của Callista Roy .............................................. 21
Hình 1. 3. Ứng dụng khung học thuyết về sự thích nghi ................................ 21

.


.

i

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2. 1. Bảng liệt kê các biến số về đặc điểm người bệnh ......................... 24
Bảng 2. 2. Bảng liệt kê các biến số về đặc điểm bệnh lý ................................ 28
Bảng 2. 3. Bảng liệt kê các biến số Go Wish .................................................. 30
Bảng 3. 1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm chung của người bệnh
cao tuổi ................................................................................................ 39
Bảng 3. 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo đặc điểm bệnh lý của người bệnh
cao tuổi ................................................................................................ 41
Bảng 3. 3. Tỷ lệ các loại ước muốn chăm sóc cuối đời của người bệnh cao tuổi
............................................................................................................. 43
Bảng 3. 4. Tốp 10 những ước muốn rất quan trọng ........................................ 49
Bảng 3. 5. Ước muốn quan trọng “nhất” của người bệnh cao tuổi chọn lựa từ
tốp những ước muốn rất quan trọng.................................................... 53
Bảng 3. 6. Mối liên quan giữa đặc điểm chung của người bệnh cao tuổi và ước
muốn quan trọng “nhất” được người bệnh cao tuổi chọn “Tơi ước muốn
khơng cịn bị đau đớn nữa” ................................................................. 56
Bảng 3. 7. Mối liên quan giữa đặc điểm chung của người bệnh cao tuổi và ước
muốn quan trọng “nhất” được người bệnh cao tuổi chọn “Tơi ước muốn

khơng cịn khó chịu nữa” .................................................................... 58
Bảng 3. 8. Mối liên quan giữa đặc điểm chung của người bệnh cao tuổi và ước
muốn quan trọng “nhất” được người bệnh cao tuổi chọn “Tôi ước muốn
khơng bị khó thở nữa” ........................................................................ 60
Bảng 3. 9. Mối liên quan giữa đặc điểm bệnh lý của người bệnh cao tuổi và
những ước muốn quan trọng “nhất” được người bệnh cao tuổi chọn “Tơi
ước muốn khơng cịn bị đau đớn nữa” ................................................ 62

.


.

i

Bảng 3. 10. Mối liên quan giữa đặc điểm bệnh lý của người bệnh cao tuổi và
những ước muốn quan trọng “nhất” được người bệnh cao tuổi chọn “Tôi
ước muốn khơng cịn khó chịu nữa” ................................................... 64
Bảng 3. 11. Mối liên quan giữa đặc điểm bệnh lý của người bệnh cao tuổi và
những ước muốn quan trọng “nhất” được người bệnh cao tuổi chọn “Tơi
ước muốn khơng bị khó thở nữa” ....................................................... 66

.


.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) theo Tổ Chức Y tế Thế giới (TCYTTG) là
cách tiếp cận giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh (NB) và gia

đình họ khi đối mặt với các vấn đề liên quan đến bệnh đe dọa đến tính mạng,
thơng qua việc đánh giá và điều trị giảm đau sớm đồng thời giải quyết một cách
toàn diện các vấn đề khác liên quan đến thể chất, tâm lý xã hội và tâm linh [39].
Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ XXI.
Tiếng nói của người cao tuổi (NCT) về Y tế có 34% người cho biết họ gặp khó
khăn hoặc rất khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi
họ cần [6]. Trên toàn thế giới, mỗi năm ước tính có khoảng 40 triệu người cần
CSGN, 78% trong số đó họ sống ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Trong
khi đó, chỉ có khoảng 14% những người cần CSGN hiện đang nhận được nó
[45]. Đối với Việt Nam mới chỉ có một số ít những NB được tiếp cận tới các
dịch vụ CSGN, với tỷ lệ tử vong 32,34/1000 NCT, mỗi năm tại Việt Nam sẽ có
hơn 297.000 NCT tử vong, đối tượng NB này phải trải qua gánh nặng triệu
chứng vô cùng nặng nề vào giây phút cuối đời [3] [13]. “Sinh – lão – bệnh –
tử” là quy luật cuộc đời của mỗi con người sinh ra, lớn lên trưởng thành về già,
ốm đau bệnh tật, và rồi tất cả mọi người đều phải trải qua giai đoạn cuối đời.
Giai đoạn cuối đời của mỗi con người cần phải trải qua một cách nhẹ nhàng,
tuy nhiên họ có thể gặp khó khăn, đau đớn vì bệnh tật, đòi hỏi CSGN trong giai
đoạn cuối đời là thật sự cần thiết.
Nhân viên y tế và gia đình có thể gợi mở câu chuyện để trị chuyện cuối
đời cho NB để họ có thể nói ra những khó khăn, những lo sợ hay về những
quan niệm sống cũng như ước muốn cuối đời, mở ra được những cuộc trị
chuyện với NB. Trên thế giới có một số cơng cụ để nhân viên y tế sử dụng như
là “Hello” và “Go Wish” bằng cách mời NB tham gia một trị chơi để hai bên
cùng trị chuyện và tìm hiểu ước nguyện. Qua đây, thẻ trò chơi Go Wish là cuộc

.


.


trò chuyện cuối đời sớm cho phép NB chịu trách nhiệm và chọn ra con đường
riêng của NB về cuối đời. Trong nghiên cứu của Azadeh Lankarani-Fard và
cộng sự tại Hoa Kỳ (2010) về sử dụng trò chơi Go Wish thì giá trị “tốp 1” được
NB chọn ước muốn quan trọng nhất là “Tơi ước muốn khơng cịn bị đau đớn
nữa” [27]. Một nghiên cứu khác của Marvin O. Delgado-Guay và cộng sự
(2016) tại Hoa Kỳ về những điều ước cuối đời bằng trò chơi thẻ Go Wish của
những NB ung thư tiến triển thì ước muốn rất quan trọng của các NB trong cả
hai lần khảo sát thứ nhất và thứ hai đều là “tơi ước muốn được bình an với
Chúa” (74% và 71%) [18]. Đối với nghiên cứu tại Việt Nam, một nghiên cứu
về CSCĐ của tác giả Lê Đại Dương và cộng sự (2017) cho thấy 60% NBCT
muốn biết rõ tình trạng bệnh của mình và 94% NB muốn được mất tại nhà [3].
Bên cạnh đó, gia đình NB sẽ ln nhớ đến giây phút cuối của NB rằng họ ra đi
thanh thản hay phải chịu nhiều đau đớn. Việc CSCĐ cần tôn trọng ý muốn và
mục tiêu điều trị của NB cũng như gia đình của họ, do đó việc hiểu biết ý muốn
NB về cách họ muốn được chăm sóc là vơ cùng quan trọng. Mặt khác, CSCĐ
vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm về mặt xã hội, ít được bàn luận và nghiên cứu.
Như vậy, vấn đề đặt ra là những cuộc trò chuyện về cuối đời có thể gây
khó khăn cho NB, gia đình và những người nhân viên y tế. Nhưng có thể tạo
cơ hội cho NB và gia đình bày tỏ mong muốn của họ về việc chăm sóc cuối
đời. Biết và tôn trọng mong muốn của NB khi chăm sóc về cuối đời có thể cải
thiện ý thức kiểm sốt của NB và mong muốn của NB, chính vì thế việc tìm
hiểu ước muốn của NBCT nhằm định hướng sự trao đổi của nhân viên y tế mà
đặc biệt là điều dưỡng và phát triển các chính sách y tế liên quan đến kế hoạch
CSGN phù hợp là vô cùng cần thiết. Điều dưỡng chăm sóc trực tiếp và thường
xuyên bên cạnh NB cần đánh giá ước muốn của NBCT qua một công cụ tiện
lợi. Điều này tạo cơ hội cho họ bày tỏ về ước muốn cuối đời đồng thời cải thiện
ý thức tự chủ. Qua đó, điều dưỡng cùng nhân viên chăm sóc sức khỏe khác thiết

.



.

lập kế hoạch chăm sóc phù hợp cho NB. Bộ thẻ trò chơi “Go Wish” đã được
chuyển ngữ sang tiếng Việt và đang áp dụng tại Khoa Lão – Chăm sóc Giảm
nhẹ, Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu tìm hiểu khả năng chấp nhận tiếp cận và thống kê ước muốn quan
trọng của NBCT và các vấn đề CSGN dường như tồn tại rất hiếm ở Việt Nam,
nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Ước muốn chăm sóc cuối đời và các yếu
tố liên quan của người bệnh từ 65 tuổi trở lên tại Bệnh viện Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh” nhằm tìm hiểu các ước muốn rất quan trọng của
NBCT về CSCĐ và các yếu tố liên quan ảnh hưởng đến ước muốn của NBCT.

.


.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá ước muốn của người bệnh cao tuổi về chăm sóc cuối đời bằng
cơng cụ thẻ trị chơi Go Wish và các yếu tố liên quan.
Mục tiêu cụ thể
1. Xác định tỷ lệ các loại ước muốn chăm sóc cuối đời của người bệnh
cao tuổi.
2. Xác định tỷ lệ các loại ước muốn quan trọng nhất về chăm sóc cuối
đời của người bệnh cao tuổi.
3. Xác định các yếu tố liên quan đến ước muốn quan trọng nhất về chăm
sóc cuối đời của người bệnh cao tuổi.


.


.

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa chăm sóc giảm nhẹ
Chăm sóc giảm nhẹ theo Tổ Chức Y tế Thế giới là cách tiếp cận giúp
cải thiện chất lượng cuộc sống của NB và gia đình họ đối mặt với các vấn đề
liên quan đến bệnh đe dọa đến tính mạng, thơng qua việc phịng ngừa và giảm
đau bằng phương pháp xác định sớm và đánh giá hoàn hảo và điều trị đau và
các vấn đề khác, thể chất, tâm lý xã hội và tâm linh. Các vấn đề CSGN:
Giúp giảm đau và các triệu chứng đau khổ khác.
Khẳng định cuộc sống và coi việc chết là một quá trình bình thường.
Dự định khơng vội vã hoặc hỗn cái chết.
Tích hợp các khía cạnh tâm lý và tinh thần của chăm sóc NB.
Cung cấp một hệ thống hỗ trợ để giúp NB sống tích cực nhất có thể cho
đến khi chết.
Cung cấp một hệ thống hỗ trợ để giúp gia đình đối phó trong thời gian
NB mắc bệnh và mất người thân.
Sử dụng một cách tiếp cận nhóm để giải quyết các nhu cầu của NB và
gia đình của họ, bao gồm cả tư vấn về mất người thân, nếu được chỉ định.
Sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống và cũng có thể ảnh hưởng tích cực
đến q trình bệnh tật.
Được áp dụng sớm trong quá trình điều trị bệnh, kết hợp với các liệu
pháp khác nhằm kéo dài sự sống, như hóa trị hoặc xạ trị, và bao gồm các nghiên
cứu cần thiết để hiểu rõ hơn và quản lý các biến chứng lâm sàng đau khổ [39].
Theo Bộ Y tế Việt Nam: CSGN cho NB ung thư và AIDS là sự kết hợp
nhiều biện pháp để làm giảm sự đau khổ và cải thiện chất lượng cuộc sống của
NB thơng qua sự phịng ngừa, phát hiện sớm và điều trị đau và những vấn đề

tâm lý và thực thể khác, và cung cấp sự tư vấn và hỗ trợ tập trung vào những
vấn đề xã hội và tâm linh mà NB và gia đình đang phải gánh chịu [1].

.


.

Hiện tại, hầu hết việc điều trị NB mắc bệnh ung thư hay các bệnh nặng
mạn tính đe dọa cuộc sống mới chỉ dừng lại ở việc lên phác đồ điều trị hay sử
dụng máy móc thiết bị hiện đại mà chưa dành sự quan tâm đúng mức đến các
việc điều trị triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như các vấn đề
tâm lý và xã hội liên quan đến NB và gia đình NB. Tâm lý sợ sệt và lo lắng
thường làm NB cũng như gia đình dễ thiếu bình tĩnh và đơi khi mất phương
hướng. Các đối tượng NB này thường tâm lý dễ xúc động, khả năng miễn dịch
rất kém, ảnh hưởng tiêu cực cho tình trạng bệnh lý và sức khỏe của NB do vậy
mơi trường sống, mơi trường chữa bệnh tích cực là vấn đề hết sức quan trọng
trong việc điều trị.
CSGN giúp cho NB tiếp nhận được quá trình điều trị tốt hơn, nâng cao
được chất lượng sống và có niềm tin, tinh thần lạc quan. Nghiên cứu cho thấy
rằng CSGN và nhiều thành phần của nó mang lại lợi ích cho NB lẫn người nhà:
các triệu chứng (do bệnh hay do tác dụng phụ của điều trị) đều được kiểm soát
tốt hơn; NB và gia đình được giao tiếp, chia sẻ với bác sĩ (BS), điều này đáp
ứng được nhu cầu tâm lý - tình cảm của họ, giúp NB thoải mái và bình an trong
tâm hồn, giảm nhẹ gánh nặng tâm lý – xã hội mà NB và gia đình họ phải chịu
đựng.
1.2. Định nghĩa chăm sóc cuối đời
CSCĐ là những chăm sóc nhằm giúp đỡ các cá nhân với bệnh lí khơng
chữa được, tiến triển hay giai đoạn cuối để họ sống càng thoải mái càng tốt cho
đến khi họ qua đời. Để đạt được mục tiêu đó, nhu cầu hỗ trợ và giảm nhẹ của

cả NB và gia đình cần được xác định và đáp ứng trong giai đoạn cuối cuộc đời
và giai đoạn sau khi NB qua đời. Chăm sóc bao gồm quản lí đau và các triệu
chứng khác, cung cấp hỗ trợ về thực hành, tâm lí, tinh thần và xã hội (từ Hội
đồng Quốc gia CSGN Anh Quốc 2006) [34].
1.3. Nội dung chăm sóc cuối đời

.


.

Thảo luận nhu cầu cá nhân và mong muốn của NB để nhận được sự hỗ
trợ các chuyên gia. NB được tham gia vào lập kế hoạch chăm sóc phù hợp với
thứ tự ưu tiên của NB. Mọi sự mong muốn và lựa chọn của NB sẽ được tham
khảo để sử dụng trong việc ra quyết định.
Mọi nhân viên y tế xã hội đều được đào tạo về giao tiếp về CSCĐ, kĩ
năng đánh giá nhu cầu của NB và người chăm sóc, thảo luận các yêu cầu, lập
ra kế hoạch chăm sóc cho mỗi NB và người chăm sóc, nhằm đảm bảo dịch vụ
cung cấp sẽ thỏa mãn cả nhu cầu và mong muốn của NB.
Phối hợp chăm sóc và hỗ trợ giữa các đơn vị y tế đảm bảo các nhu cầu
NB được đáp ứng. Các đơn vị tham gia cung cấp CSCĐ phải thực hiện theo
một quy trình chung, phải có các trung tâm điều phối CSCĐ tại địa phương;
phải thử nghiệm và triển khai hệ thống đăng kí CSCĐ nhằm đảm bảo các đơn
vị cung cấp dịch vụ có thể truy cập và có thơng tin về mong muốn của NB.
NB và người chăm sóc được tiếp cận nhanh chóng với lời khuyên và
đánh giá lâm sàng bởi các chuyên gia bất kể họ ở đâu: qua đường dây hỗ trợ
24/7 và dịch vụ tiếp cận nhanh tại nhà, các chuyên gia CSGN tại địa phương.
Chăm sóc chất lượng cao và trợ giúp trong những ngày cuối cuộc đời NB, các
cơ sở y tế cung cấp hỗ trợ cho người thân và người chăm sóc có mong muốn ở
cùng NB tại bệnh viện.

Các dịch vụ y tế chăm sóc và tơn trọng phẩm giá NB trước và cả sau
khi NB tử vong. Hỗ trợ và lời khuyên phù hợp cho thân nhân chăm sóc NB ở
mỗi giai đoạn bệnh.
Cơ sở chăm sóc được bố trí và phối hợp tốt đảm bảo NB tiếp cận được
sự chăm sóc cần thiết, khi NB cần bất kể trong tình trạng hay trong hoàn cảnh
nào, và chọn lựa của NB được tôn trọng và sử dụng để ra quyết định cho chính
họ [34].
1.4. Các bước chăm sóc cuối đời

.


.

Do hiện nay mơ hình CSCĐ ở nước ta chưa hồn thiện, quy trình chăm
sóc dưới đây được tham khảo từ chiến lược CSCĐ của Vương Quốc Anh, hiện
là quốc gia đứng đầu thế giới về CSGN và CSCĐ.
Bước 1: Thảo luận khi cuộc sống gần đi đến hồi kết: Giao tiếp cởi mở
và chân thật.
Bước 2: Đánh giá, lên kế hoạch chăm sóc, tái đánh giá: Thống nhất kế
hoạch chăm sóc, định kì đánh giá lại và cập nhật kế hoạch phù hợp nhu cầu
NB.
Bước 3: Điều phối việc chăm sóc cho các cá nhân NB: Điều phối theo
chiến lược việc chăm sóc cho NB.
Bước 4: Cung cấp dịch vụ chất lượng cao ở các cơ sở điều trị khác nhau:
Đảm bảo chất lượng cao trong chăm sóc ở mọi cơ sở điều trị: bệnh viện, nhà
cận tử, nhà dưỡng lão, xe cứu thương…
Bước 5: Chăm sóc cho những ngày cuối đời.
Bước 6: Chăm sóc sau khi NB qua đời [34].
Qua quan sát thực tế lâm sàng và công tác hàng ngày của bản thân, Điều

dưỡng chưa có nhiều thời gian để thảo luận cuộc sống đi đến hồi kết và những
ước nguyện cuối đời, để lắng nghe những ước muốn cuối đời.
Lúc đó khi NB cịn tỉnh táo để họ đưa ra ý nguyện của họ, để nhân viên
y tế hỗ trợ. Hiện nay mơ hình chăm sóc ở giữa bệnh viện và nhà, được cung
cấp bởi nhân viên y tế và tình nguyện viên. NB có tiên lượng sống <6 tháng sẽ
được hỗ trợ nếu có nguyện vọng hay khi BS cho là cần thiết, họ sẽ được hỗ trợ
y khoa, tâm lí và tâm linh, để đạt được sự bình an, thoải mái và giữ được phẩm
chất cá nhân. Đồng thời cũng cung cấp dịch vụ CSGN tại nhà trong cộng đồng
và hỗ trợ gia quyến trước và sau khi NB qua đời [12]. Di chúc sức khỏe (Living
will) hay được biết với dạng khác là hướng dẫn chăm sóc sức khỏe cho tương
lai (Advance Directive) là một hướng dẫn bằng văn bản mô tả ý muốn, mục

.


.

tiêu chăm sóc y tế, mong muốn điều trị hay sự hài lịng với tình trạng sức khỏe
hiện tại, mong muốn liên quan đến việc sử dụng hoặc loại bỏ các quy trình duy
trì sự sống trong trường hợp bị bệnh hoặc bị thương trong các vấn đề y khoa
[25].
1.5. Kế hoạch chăm sóc y tế cho tương lai
Thảo luận kế hoạch chăm sóc cho tương lai (Advance care planning) là
một q trình trong đó một người đã trưởng thành và có đầy đủ năng lực tâm
thần. Kế hoạch chăm sóc cho tương là một q trình thảo luận tự nguyện về
việc chăm sóc trong tương lai giữa một cá nhân và các nhà cung cấp dịch vụ
chăm sóc của họ, không phân biệt kỹ luật. Nếu cá nhân muốn, gia đình và bạn
bè có thể được biết. Khuyến nghị rằng với sự đồng ý của cá nhân cuộc thảo
luận này được lập bằng văn bản, xem xét thường xuyên và thông báo cho những
người chủ chốt liên quan trong sự chăm sóc của họ. Một cuộc thảo luận kế

hoạch chăm sóc cho tương lai có thể bao gồm: mối quan tâm và mong muốn
của cá nhân, giá trị quan trọng của họ hoặc mục tiêu cá nhân để chăm sóc, hiểu
biết của họ về bệnh tật và tiên lượng của họ, sở thích và mong muốn của họ đối
với các hình thức chăm sóc hoặc điều trị có thể có lợi trong tương lai và sự sẵn
có của những thứ này [38].
1.6. Những ước muốn cuối đời
1.6.1. Nguyện vọng không hồi sức
Nguyện vọng không hồi sức (Do not resuscitate order - DNR) là văn
bản do BS thiết lập nhằm ghi nhận nguyện vọng của NB, lưu giữ trong hồ sơ
bệnh án, với mục đích chỉ định rằng nhân viên y tế không nên tiến hành thủ
thuật hồi sức tim phổi (CPR) khi NB trong tình trạng ngưng hơ hấp hay tuần
hoàn [25].
1.6.2. An tử/cái chết êm ái nhân đạo

.


0.

An tử/Cái chết êm ái nhân đạo – Euthanasia là một can thiệp có chủ ý
trực tiếp bởi nhân viên y tế với biểu hiện rõ ràng của dự tính kết thúc một cuộc
sống nhằm xoa dịu đau khổ không thể điều trị được. Có hai dạng là chủ ý và
không chủ ý. An tử chủ ý là khi một NB hoàn toàn tỉnh táo, đầy đủ năng lực
tinh thần để ra quyết định, mắc một tình trạng đe dọa tính mạng, chủ động đưa
yêu cầu được chết. An tử không chủ ý khi NB không thể đưa ra đồng thuận do
mất năng lực nhận thức (hôn mê, trạng thái thực vật ...) và thường là phán quyết
từ tòa án. An tử chủ động là việc có biện pháp can thiệp đặc hiệu để kết thúc
cuộc sống còn an tử thụ động là ngưng hay tạm dừng điều trị duy trì sự sống.
Cách chia chủ động và thụ động vẫn cịn nhiều tranh cãi. Hiện tại một số quốc
gia có luật pháp cho phép hình thức này: Hà Lan, Canada, Colombia, Bỉ và

Luxemburg (chưa được pháp luật Việt Nam công nhận) [23].
1.6.3. Tự tử có sự hỗ trợ của thầy thuốc
Tự tử có sự hỗ trợ của thầy thuốc – Physician Assisted Dying là khi BS
kê đơn cho NB một liều thuốc gây tử vong để NB tự sử dụng với mục tiêu rõ
ràng là giúp NB thực hiện hành vi tự tử. Điều này hoàn toàn khác về mặt luật
pháp và y đức với hiện tượng hiệu ứng kép là khi một điều trị mang tính tốt lại
khơng chủ ý lấy đi tính mạng của NB. Hiện tại hình thức này được luật pháp
cho phép ở bang Oregon, Washington, Vermont và California tại Hoa Kì [24].
1.7. Chăm sóc cuối đời ở người cao tuổi trên thế giới và Việt Nam
“Sinh, lão, bệnh, tử” là một quy luật tự nhiên. Con người khi trở nên
già đi (hay còn gọi là q trình lão hóa), thì diễn ra sự suy giảm cấu trúc và
chức năng sinh học của cơ thể. Trong giai đoạn này, bệnh tật xuất hiện ngày
càng nhiều và việc chữa trị, phục hồi sức khỏe cũng trở nên khó khăn hơn so
với người trẻ tuổi [9]. Các cơng cụ sàng lọc các mối quan tâm có sẵn cho các
BS sử dụng. Một số BS muốn đi xa vấn đề hơn, hỗ trợ NB vào cuối cuộc đời
trong cuộc tìm kiếm tâm linh của họ. Các BS khác bày tỏ mối quan tâm về việc

.


1.

gây ra nhiều đau khổ cho NB trong một thời điểm có nhu cầu đáng kể. Mơ tả
về các cơng cụ giáo dục, cũng như sự khác biệt giữa các nhà tâm linh và các
chuyên gia tinh thần đã xuất hiện. Việc tích hợp các giáo sĩ vào đội ngũ y tế
chăm sóc NB vào cuối đời cũng sẽ tăng cường chăm sóc cho tồn bộ NB [33].
Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tỷ lệ dân số từ 60
tuổi trở lên năm 2010 là 9,3%, năm 2011 là 9,8% và dự báo tỷ lệ này là 20,7%
vào năm 2040 đến 24,8% vào năm 2049 [10], Và tất yếu là với sự gia tăng
NCT, số lượng NCT tử vong mỗi năm sẽ tăng theo. Bên cạnh đó lão hóa đi

kèm với bệnh tật và đa thuốc gây ra mất chức năng theo thời gian và suy yếu ở
NCT. Tất cả yếu tố này gây nên một sức ép lớn với ngành y tế đặc biệt là các
đơn vị chăm sóc cho NCT ở giai đoạn cuối đời. Tuy vậy hiện nay chúng ta vẫn
chưa được trang bị nhiều kiến thức để có chăm sóc tốt nhất cho NB ở giai đoạn
đặc biệt này của cuộc sống.
Sử dụng thẻ trò chơi Go Wish để giảng dạy tại các trường Đại học ở
Hoa Kỳ, năm 2013 chương trình giảng dạy năm với mục tiêu là các BS tốt
nghiệp, những người sẽ tác động và biến đổi xã hội như những người chữa
bệnh, học giả, các nhà giáo dục và những người ủng hộ. Một loạt các khóa học
mang tên thầy thuốc, NB và xã hội được phát triển bởi chương trình đạo đức
và chuyên nghiệp sinh học Salim El-Hoss và được giới thiệu theo yêu cầu các
khóa học trong chương trình giảng dạy cho sinh viên. Đối sinh viên y khoa năm
thứ hai luân phiên thông qua bốn tiêu chuẩn gồm tâm linh trong Y học, CSGN
và chăm sóc tồn diện NB, đạo đức trong y học, chăm sóc NB và chăm sóc trải
nghiệm quan tâm. Các lớp học họp mỗi tuần một lần trong 2 giờ, và mỗi tiêu
chuẩn bắt đầu hơn 4 tuần [36].
Đối với Việt Nam vấn đề đào tạo CSGN cho sinh viên mới bắt đầu vào
những năm gần đây, chỉ tập trung vào một số thành phố lớn của nước ta được
đào tạo về CSGN như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngồi ra, chưa có định

.


2.

hướng để các sinh viên y khoa đi theo chuyên ngành này, và điều dưỡng được
đào tạo, tập huấn về CSGN cịn rất ít.
1.8. Thang đo Go Wish
Đến thời điểm hiện tại thì khơng có nhiều bộ cơng cụ để đánh giá ý
muốn của NB về vấn đề CSCĐ và hơn nữa bộ công cụ để đánh giá ý muốn của

NCT lại càng ít hơn. Những cơng cụ như: Thang Ý Muốn CSCĐ – Preferences
for Care near the End of Life scale (PCEOL) với 31 câu hỏi [22]; hay thang
đánh giá Thái Độ về An Tử - Attitude Towards Euthanasia (ATE) gồm 10 câu
hỏi [44]; Thái độ về Tự Tử có Thầy Thuốc Hỗ Trợ - Attitude Toward
Physican Assisted Suicide (PAS) gồm 12 câu hỏi [19]; Đánh Giá Thái Độ
NCT về Các Vấn Đề Cuối Đời “Assess the attitudes of older people to endof-life issues (AEOLI)” gồm 27 câu hỏi [15]… Các bộ câu hỏi này bao phủ rất
ít vấn đề về CSCĐ cho NB cao tuổi ở các nước trên thế giới và Việt Nam hầu
như khơng có bộ câu hỏi nào. Vì thế năm 2007 thì một trị chơi thẻ Go Wish ra
đời, một công cụ lập kế hoạch chăm sóc về các vấn đề cuối đời phát triển bởi
Coda Alliance để giúp mọi người có cuộc trị chuyện về CSCĐ, thẻ trò chơi
này gồm 36 thẻ là tiếng anh và được dịch sáng ngôn ngữ nhiều nước như: Trung
Quốc, Thụy Điển, Nhật Bản, … và Việt Nam (do một số thẻ có nhiều ý nghĩa
nên đối với Việt Nam được phiên dịch ra 42 thẻ).
Để xác định sự hiểu biết của cộng đồng và quan điểm về một loạt các
vấn đề đạo đức liên quan đến cái chết và chết. Một nghiên cứu của J McCarthy
và cộng sự (2010) nói đến quan điểm về cái chết, cơng chúng không quen thuộc
với các điều khoản gắn liền với CSCĐ. Mặc dù hầu hết muốn được thông báo
nếu họ bị bệnh nan y, họ cũng giá trị hỗ trợ gia đình trong vấn đề này. Hầu hết
các người trả lời tin rằng NB có thẩm quyền có quyền từ chối điều trị cứu sống.
Hầu hết cũng (nhầm lẫn) tin rằng các gia đình, một mình hoặc với các BS, có
thẩm quyền đưa ra quyết định về bắt đầu hoặc ngừng điều trị cho NB bất tài.

.


3.

Hầu hết người dân Ireland quan tâm nhiều hơn đến chất lượng về cái chết của
họ hơn cái chết Cam kết tôn giáo là quan trọng đối với hầu hết người dân Ireland
và điều này tác động đến họ quan điểm về điều trị và chăm sóc y tế ở cuối đời

sống [30].
Trị chơi thẻ Go Wish là một cơng cụ lập kế hoạch chăm sóc trước được
phát triển bởi Coda Alliance để giúp mọi người có cuộc trị chuyện về CSCĐ.
Ban đầu, công cụ này được thiết kế như một bài tập dễ dàng, giải trí cho cư dân
cơ sở trợ giúp chức năng thấp, thành viên gia đình của họ và trợ lý điều
dưỡng/CNA của họ (nhiều người có trình độ tiếng Anh hạn chế.) Sử dụng cơng
cụ này có thể được bảo vệ bởi nhân viên hoặc thậm chí là một người chăm sóc
sau khi hướng dẫn tối thiểu. Nó hóa ra là một cơng cụ rẻ tiền và có thể áp dụng
để giúp mọi người thảo luận về CSCĐ. Các thẻ tập trung vào các cuộc hội thoại,
cung cấp vốn từ vựng quan trọng để đưa ra tiếng nói cho NB về nhu cầu và mối
quan tâm của họ, và đưa ra một phương tiện để chia sẻ những ý tưởng đó. Cơng
cụ Go Wish đã phát triển thành các thẻ được thiết kế và in ấn chun nghiệp
được đóng hộp như một bộ trị chơi [31].
1.9. Các nghiên cứu liên quan
1.9.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu của Nancy Freeborne và cộng sự (2000) về vấn đề những
hiểu biết liên quan đến thời gian gần chết của NB bị bệnh nặng, đây là một
nghiên cứu đoàn hệ trên 9105 NB bị bệnh nặng, trong đó có 444 người chết
trong vịng 6 tháng. Có 1286 NB trong nghiên cứu này là từ 80 tổi trở lên, trong
đó có 321 người chết trong vịng 6 tháng. Đa số các NB có triệu chứng từ trung
bình đến nặng vô cùng phức tạp trước khi chết bao gồm: đau (18% – 33%) và
khó thở (12% – 56%), triệu chứng đau thời điểm 3 ngày trước khi chết tăng lên
(34% – 45%) và khó thở (28 – 83%) [21].

.


4.

Nghiên cứu về CSGN và sử dụng chăm sóc sức khỏe cuối đời ở NB cao

tuổi bị ung thư tuyến tụy của Nizar Bhulani và cộng sự (2018), cụ thể, Trong
số 54130 NB, 3166 (5,8%) được CSGN và 70% nhận được trong 30 ngày cuối
đời. Tỷ lệ NB được CSGN đã tăng từ 1,4% năm 2000 lên 7,4% năm 2009 (P
<0,001). NB được CSGN có nhiều khả năng là người già, người châu Á và phụ
nữ. Trong dân số chưa từng có và dân số có xu hướng phù hợp, các chuyến
thăm trung bình đến kết quả cuối cùng trong 30 ngày cuối đời cao hơn đáng kể
đối với những NB được CSGN và có chi phí chăm sóc cao hơn đáng kể. Tương
tự, thời gian ở lại ICU trong 30 ngày cuối đời cao hơn ở những NB không được
CSGN ở cả NB có xu hướng phù hợp và NB chưa từng có. Chi phí chăm sóc
và số lần nhập viện ICU khơng khác nhau giữa các nhóm CSGN và khơng giảm
nhẹ ở NB có xu hướng và NB chưa từng có [11].
Một nghiên cứu đồn hệ tại Hoa Kỳ của Emese Somogyi-Zalud và
cộng sự (2002) cho thấy trong số 1266 NB cao tuổi chấp nhận tham gia vào
nghiên cứu, 72 người đã chết trong quá trình nhập viện. Tuổi trung bình của
những người đã chết là 86 tuổi. Trong số những NB tử vong, số lượng hoạt
động trung bình của suy giảm sinh hoạt hàng ngày là hai (khoảng 1 - 4) trước
khi nhập viện, và 70% báo cáo chất lượng cuộc sống cơ bản của họ là công
bằng hoặc kém. Hầu hết các NB đã chết đã tun bố rằng họ khơng muốn
chăm sóc tích cực; 70% muốn sự chăm sóc của họ tập trung vào sự thoải mái
hơn là kéo dài cuộc sống, và 80% có lệnh không hồi sức. Tuy nhiên, phần lớn
(63%) NB được điều trị một hoặc nhiều lần điều trị duy trì sự sống trước khi
họ chết. 54% được nhận vào các đơn vị chăm sóc chuyên sâu hoặc mạch vành,
43% được đặt máy thở, 18% nhận CPR, 18% được cho ăn bằng ống, 17%
được phẫu thuật, 15% được đặt ống thông tim phải, 14% được truyền máu và
6% được chạy thận nhân tạo. Chăm sóc chun sâu khơng ảnh hưởng đến thời
gian sống sót [40].

.



5.

Một nghiên cứu của Susan Catt, và cộng sự (2005) có 266 NB cao tuổi
tại Anh đã được khảo sát ý muốn thái độ CSCĐ bằng bảng câu hỏi AEOLI. So
với người trẻ hơn, NCT > 74 tuổi ít muốn an tử hơn. Dù NCT >74 tuổi cho rằng
người trẻ gặp khó khăn hơn khi đối diện cái chết, họ khơng nghĩ chăm sóc cuối
đời nên ưu tiên cho đối tượng trẻ. Giáo dục, tình trạng kinh tế xã hội, kiến thức
về viện cận tử, lo lắng về cái chết khơng có ảnh hưởng nhiều đến thái độ và ý
muốn NCT [14].
Một nghiên cứu định tính tại Singapore của tác giả Chetna Malhotra và
cộng sự (2012) trên 63 NCT cho thấy định nghĩa của họ về thế nào là CSCĐ là
tốt, 8 thành phần CSCĐ tốt đã được xác định: có sự thoải mái về thể xác vào
cuối đời, tránh sự kéo dài khơng phù hợp của q trình hấp hối, duy trì sự nhạy
cảm đối với niềm tin tơn giáo và tâm linh, tránh gánh nặng cho gia đình, tránh
sự chăm sóc đắt đỏ, được chăm sóc bởi một người đáng tin cậy BS, duy trì sự
kiểm sốt đối với các quyết định chăm sóc và đạt được cảm giác hoàn thành
[17].
Nghiên cứu tại Thụy Điển của tác giả Carol Tishelman và cộng sự
(2019) ở 63 NCT thì ước muốn quan trọng nhất được xếp lên hàng đầu là có
người thân bên cạnh để chia sẽ và khơng cịn bị đau đớn nữa [42].
Một nghiên cứu định tính tại Hoa Kỳ năm 2018 của tác giả Mei Ching
Lee và cộng sự nghiên cứu 60 người Mỹ gốc Hoa ngoài cộng đồng cho thấy
ước muốn quan trọng nhất là để không bị đau đớn (70%), và các ước muốn kế
tiếp là khơng trở thành gánh nặng cho gia đình, tin tưởng vào BS của tơi, duy
trì nhân phẩm và được giúp đỡ cầu nguyện [29].
Nói tóm lại kết quả về ước muốn NCT về CSCĐ rất khác nhau giữa các
nền văn hóa gây khó khăn cho việc áp dụng kết quả từ nghiên cứu này sang
một bối cảnh khác.
1.9.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam


.


6.

Quá trình nghiên cứu về CSGN ở Việt Nam hầu như rất hiếm, có thể do
văn hóa xã hội khác nhau về nền văn hóa. Ngồi ra, từ năm 1993 vấn đề tình
trạng đau do ung thư và CSGN đã được nói đến. Giảm đau ung thư và CSGN
ở Việt Nam đang được chú ý. Đánh giá ban đầu về các hướng dẫn của TCYTTG
đã cho thấy chúng có hiệu quả [35]. CSGN bắt đầu ở Việt Nam vào năm 2001,
nhưng sự phát triển ổn định trong các dịch vụ chăm sóc và giáo dục giảm nhẹ
bắt đầu vài năm sau đó khi sự hợp tác đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật liên tục của
các chuyên gia cam kết đã được tạo ra với Bộ Y tế, các bệnh viện công lớn và
các trường đại học y. Một phân tích theo kinh nghiệm về nhu cầu chăm sóc NB
của Bộ Y tế năm 2006 đã được thực hiện theo hướng dẫn lâm sàng CSGN quốc
gia, bắt đầu đào tạo BS lâm sàng cho BS và điều dưỡng, và sửa đổi các quy
định kê đơn thuốc gây nghiên. Khi các chương trình đào tạo nâng cao và chuyên
gia về CSGN đã có sẵn, sinh viên tốt nghiệp các chương trình này bắt đầu giúp
thiết lập các dịch vụ CSGN trong bệnh viện của họ. Tuy nhiên, CSGN dựa vào
cộng đồng khơng được bảo hiểm y tế của chính phủ và do đó gần như hồn
tồn khơng có. Cơng việc đang được tiến hành để kiểm tra giả thuyết rằng bảo
hiểm chăm sóc tại nhà khơng chỉ có thể cải thiện kết quả của NB mà còn bảo
vệ rủi ro tài chính cho NB của gia đình và giảm chi phí cho hệ thống chăm sóc
sức khỏe bằng cách giảm nhập viện gần cuối đời. Một chính sách CSGN quốc
gia và kế hoạch chiến lược là cần thiết để duy trì tiến độ đối với các dịch vụ
CSGN hiệu quả chi phí có thể truy cập tồn cầu [26].
Nghiên cứu của tác giả Phan Đỗ Phương Thảo và cộng sự (2014) về
chương trình CSGN tại nhà cho thấy chương trình CSGN tại nhà đã kiểm soát
được hầu hết các triệu chứng khó chịu NB than phiền và một phần quan trọng
nhu cầu tâm lý – xã hội của NB và người nhà được cải thiện qua 2 lần chăm

sóc như cảm giác an lành, cảm nhận cuộc sống có ý nghĩa của NB và mức độ
tự tin của người nhà trong việc chăm sóc NB. Bên cạnh đó một số nhu cầu tâm

.


×