MỤC LỤC
1
Lời mở đầu
Ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cũng
phải đối mặt với nguy cơ từ môi trường kinh doanh, và những trở ngại trong nội tại của
doanh nghiệp trong việc hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi ích cho chủ sở hữu. Một trong
những trở ngại đó chính là rủi ro.
Rủi ro có thể mang tính tích cực hoặc tiêu cực, nhưng mặt tiêu cực thường được
quan tâm hơn. Trong doanh nghiệp thường có hai loại rủi ro: rủi ro kinh doanh và rủi ro
tài chính. Đi cùng với 2 loại rủi ro có 2 kiểu đòn bẩy là đòn bẩy hoạt bẩy động và đòn tài
chính.
Thuật ngữ “đòn bẩy” trong tài chính ám chỉ việc sử dụng chi phí cố định để gia
tăng khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đòn bẩy trong tài chính là con dao
hai lưỡi. Nếu hoạt động của doanh nghiệp tốt, đòn bẩy sẽ khuếch đại cái tốt lên gấp bội
lần. Ngược lại, nếu hoạt động doanh nghiệp xấu thì đòn bẩy cũng khuếch đại cái xấu lên
bội lần.
Vấn đề đang quan tâm và cần xác định hiện nay là phân tích đòn bẩy hoạt động,
đòn bẩy tài chính ảnh hưởng như thế nào đến lợi nhuận và rủi ro, nên thay đổi tác động
của chúng ra sao, để công ty kiểm soát được rủi ro tổng thể mà vẫn sử dụng chúng như
công cụ tích cực để đạt được lợi nhuận kỳ vọng trên vốn cổ phần mong muốn, đưa ra
những quyết định phù hợp liên quan nguồn vốn.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của đòn bẩy trong hoạt động kinh doanh nên
em đã chọn đề tài: “PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐÒN BẨY LÊN
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN”
Nội dung của đề tài gồm 3 phần:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐÒN BẨY LÊN HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN.
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒN BẨY LÊN HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ ĐẦU TƯ A&D
Với thời gian nghiên cứu và lượng kiến thức tích luỹ còn có hạn, mặc dù đã có
nhiều cố gắng nhưng đề tài này không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
2
Chương I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ ĐÒN BẨY TRONG TÀI CHÍNH
1.Khái niệm đòn bẩy và một số khái niệm cơ bản liên quan
1.1 Khái niệm đòn bẩy
Đòn bẩy liên quan đến việc sử dụng các chi phí hoạt động cố định và các chi phí tài
chính cố định của một doanh nghiệp.
Đòn bẩy hoạt động là mức độ sử dụng chi phí hoạt động cố định, công ty đầu tư chi
phí cố định với hy vọng số lượng tiêu thụ sẽ tạo ra doanh thu đủ lớn để trang trải chi phí
cố định và chi phí biến đổi. Giống như chiếc đòn bẩy trong cơ học, sự hiện diện của chi
phí hoạt động cố định gây ra sự thay đổi trong số lượng tiêu thụ để khuếch đại sự thay đổi
lợi nhuận (lỗ). Ảnh hưởng của đòn bẩy thể hiện ở chỗ sự biến đổi nhỏ về doanh thu (hoặc
sản lượng) sẽ làm phát sinh sự biến đổi lớn về lợi nhuận (lỗ).
Đòn bẩy tài chính liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài trợ có chi phí cố định.
Đòn bẩy tài chính được định nghĩa như là mức độ theo đó các chứng khoán có thu nhập
cố định (nợ và cổ phiếu ưu đãi) được sử dụng trong cấu trúc nguồn vốn của công ty.
Cấu trúc vốn được định nghĩa là tất cả các nguồn vốn trung và dài hạn có sẵn cho
một doanh nghiệp, bao gồm nợ trung, dài hạn; cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường.
1.2 Các khái niệm cơ bản liên quan
Chi phí khả biến là những chi phí mà giá trị của nó sẽ thay đổi theo sự thay đổi về
mức độ hoạt động. Tổng số của chi phí khả biến sẽ tăng khi mức độ hoạt động tăng, và
ngược lại. Tuy nhiên nếu tính trên một đơn vị của mức độ hoạt động thì chi phí khả biến
lại không đổi trong phạm vi phù hợp. Chi phí khả biến gồm: chi phí nguyên liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí giá vốn hàng bán, chi phí bao bì đóng gói, chi phí hoa
hồng bán hàng…
Chi phí bất biến là những chi phí mà tổng số của nó không thay đổi khi mức độ
hoạt động thay đổi. Vì tổng số không thay đổi nên khi mức độ hoạt động tăng thì chi phí
bất biến tính trên một đơn vị hoạt động sẽ giảm đi, và ngược lại. Thông thường trên các
báo cáo, chi phí bất biến được thể hiện dưới dạng tổng số. Chi phí bất biến gồm những
chi phí có liên quan đến những máy móc thiết bị, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, chi phí quản
lý, chi phí lương văn phòng, chi phí khấu hao, thuê tài chính dài hạn, chi phí bảo trì, bảo
hiểm, chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu…
Chi phí hỗn hợp là chi phí mà thành phần của nó bao gồm cả yếu tố bất biến và yếu
tố khả biến. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thường thể hiện các đặc điểm
của chi phí bất biến, ở mức độ hoạt động vượt quá mức căn bản nó thể hiện đặc điểm của
yếu tố khả biến. Sự pha trộn giữa phần bất biến và khả biến có thể theo những tỷ lệ nhất
định.
3
Ở đây chỉ phân tích trong ngắn hạn bởi vì trong dài hạn tất cả chi phí đều có thể
biến đổi. Qua thời gian, một doanh nghiệp có thể thay đổi quy mô các cơ sở vật chất và
số nhân viên điều hành để đáp ứng với các thay đổi trong doanh thu.
Số dư đảm phí (contribution margin) là chêch lệch giữa doanh thu và chi phí khả
biến. Số dư đảm phí được dùng để bù đắp chi phí bất biến, số dôi ra sau khi bù đắp chính
là lợi nhuận. Số dư đảm phí có thể tính cho tất cả loại sản phẩm, một loại sản phẩm và
một đơn vị sản phẩm.
Tỷ lệ số dư đảm phí là tỷ lệ phần trăm của số dư đảm phí tính trên doanh thu. Chỉ
tiêu này có thể tính cho tất cả các loại sản phẩm, hoặc cho một loại sản phẩm (cũng bằng
một đơn vị sản phẩm)
Khi chi phí sản xuất kinh doanh được phân loại theo cách ứng xử của chi phí, người
quản lý sẽ lập ra báo cáo kết quả kinh doanh theo số dư đảm phí. Đây là một công cụ
được sử dụng rộng rãi làm đơn giản hóa quá trình phân tích để ra quyết định, đặc biệt là
quá trình phân tích đòn bẩy hoạt động, người quản lý sẽ có căn cứ dự đoán các chi phí sẽ
phải ứng xử như thế nào vì các biến động của mức độ hoạt động trong toàn doanh nghiệp.
Gọi Q: sản lượng tiêu thụ, P: giá bán, V: chi phí khả biến đơn vị, F: chi phí bất
biến. Bảng báo cáo kết quả kinh doanh theo số dư đảm phí như sau:
Tổng số Đơn vị
Doanh thu
(-) Chi phí khả biến
Số dư đảm phí
(-) Chi phí bất biến
Lợi nhuận hoạt động
PQ
VQ
(P-V)Q
F
(P-V)Q - F
P
V
P-V
Tại sản lượng Q
1
=> Doanh thu: PQ
1
=> EBIT
1
= (P-V)Q
1
– F
Tại sản lượng Q
2
=> Doanh thu: PQ
2
=> EBIT
2
= (P-V)Q
2
- F
Khi doanh thu tăng một lượng: PQ
2
– PQ
1
Lợi nhuận tăng một lượng là: ∆EBIT = EBIT
2
– EBIT
1
= (P-V)(Q
2
-Q
1
)
PQQ
P
VP
EBIT )(
)(
12
−
−
=∆
4
Số dư đảm phí
Doanh thu
x 100%
Tỷ lệ số dư đảm phí =
Giá bán – biến phí đơn vị
Giá bán
Tỷ lệ số dư đảm phí =
x 100%
Kết luận: Thông qua khái niệm tỷ lệ số dư đảm phí ta rút ra mối quan hệ giữa
doanh thu và lợi nhuận, mối quan hệ đó là: nếu doanh thu tăng (giảm) một lượng thì lợi
nhuận tăng lên (giảm xuống) một lượng bằng doanh thu tăng lên (giảm xuống) nhân với
tỷ lệ số dư đảm phí (điều kiện định phí không đổi).
Từ kết luận trên ta rút ra hệ quả sau: nếu tăng cùng một lượng doanh thu (do tăng
sản lượng tiêu thụ) ở tất cả những sản phẩm, những bộ phận, những công ty… thì những
công ty nào, những bộ phận nào có tỷ lệ số dư đảm phí lớn thì lợi nhuận tăng lên càng
nhiều.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA ĐÒN BẨY LÊN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.Đòn bẩy hoạt động (Operating Leverage)
1.1.Đo lường tác động của đòn bẩy hoạt động
Dưới tác động của đòn bẩy hoạt động, một sự thay đổi trong số lượng hàng bán đưa
đến kết quả lợi nhuận (lỗ) gia tăng với tốc độ lớn hơn. Để đo lường mức độ tác động của
đòn bẩy hoạt động, người ta sử dụng chỉ tiêu độ bẩy hoạt động (degree of operating
leverage - DOL). Độ bẩy hoạt động được định nghĩa là phần trăm thay đổi của lợi nhuận
hoạt động so với phần trăm thay đổi của sản lượng (hoặc doanh thu).
(1)
QQ
EBITEBIT
DOL
/
/
∆
∆
=
Cần lưu ý rằng độ bẩy có thể khác nhau ở những mức sản lượng (hoặc doanh thu)
khác nhau. Do đó, khi nói đến độ bẩy phải chỉ rõ độ bẩy ở mức sản lượng Q, doanh thu S
nào đó. Chúng ta thực hiện thêm một số biến đổi công thức (1) để có thể dễ dàng tính
DOL theo cách khác:
Lợi nhuận hoạt động EBIT = PQ – VQ – F = Q(P-V) – F
Bởi vì đơn giá P, định phí F, và biến phí đơn vị V là cố định nên:
∆EBIT = ∆Q(P-V). Thay vào công thức (1) ta được:
5
Độ bẩy hoạt động (DOL)
ở mức sản lượng Q
(doanh thu S)
Phần trăm thay đổi
lợi nhuận hoạt động
Phần trăm thay đổi
sản lượng (hoặc doanh thu)
=
FQVP
VPQ
DOL
FQVP
VPQ
Q
Q
x
FVPQ
VPQ
Q
Q
FVPQ
VPQ
DOL
Q
Q
−−
−
=
−−
−
=
∆−−
−∆
=
∆
−−
−∆
=
)(
)(
)(
)(
)(
)()(
)(
(2)
Công thức (2) dùng để tính độ bẩy hoạt động theo sản lượng Q, công thức này chỉ
thích hợp đối với những công ty mà sản phẩm có tính đơn chiếc. Đối với công ty sản xuất
sản phẩm đa dạng và không thể tính thành đơn vị, chúng ta sử dụng chỉ tiêu độ bẩy theo
doanh thu. Công thức tính độ bẩy theo doanh thu như sau:
EBIT
FEBIT
FVS
VS
DOL
S
+
=
−−
−
=
S: doanh thu, V: tổng chi phí khả biến
Giả định có hai công ty cùng doanh thu và lợi nhuận, nếu tăng cùng một lượng
doanh thu như nhau, thì những công ty có tỷ lệ số dư đảm phí lớn, lợi nhuận tăng lên
càng nhiều, vì vậy tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn và độ bẩy hoạt động sẽ lớn hơn. Điều
này cho thấy những công ty mà tỷ trọng chi phí bất biến lớn hơn khả biến thì tỷ lệ số dư
đảm phí lớn, từ đó đòn bẩy hoạt động sẽ lớn và lợi nhuận sẽ rất nhạy cảm với sự thay đổi
doanh thu, sản lượng bán.
1.2.Ý nghĩa và tác dụng của đòn bẩy hoạt động
Sau khi nghiên cứu về đòn bẩy hoạt động, chúng ta đặt ra câu hỏi: Hiểu biết về đòn
bẩy hoạt động của công ty có ích lợi thế nào đối với giám đốc tài chính? Là giám đốc tài
chính, bạn cần biết trước xem ở một mức định phí nào đó, sự thay đổi doanh thu sẽ ảnh
hưởng thế nào đến lợi nhuận hoạt động. Độ bẩy hoạt động chính là công cụ giúp bạn trả
lời câu hỏi này. Khi doanh thu tăng hay giảm X % thì EBIT có chiều hướng tăng hay
giảm X %×DOL. Nếu doanh nghiệp có độ bẩy hoạt động cao, chỉ có biến động nhỏ trên
doanh thu sẽ gây ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận.
Đôi khi biết trước độ bẩy hoạt động, công ty có thể dễ dàng hơn trong việc quyết
định chính sách doanh thu và chi phí của mình. Nhưng nhìn chung, công ty không thích
hoạt động dưới điều kiện độ bẩy hoạt động cao, bởi vì trong tình huống như vậy chỉ cần
một sự sụt giảm nhỏ của doanh thu cũng dễ dẫn đến sụt giảm lớn lợi nhuận.
Trái lại, một số doanh nghiệp dự đoán kinh tế sẽ phát triển tốt, thị phần và doanh số
ngày càng khả quan hơn, sẽ trang bị thêm cơ sở vật chất và máy móc hiện đại, độ bẩy
hoạt động lớn sẽ đẩy mạnh mức gia tăng lợi nhuận.
Sử dụng đòn bẩy hoạt động hợp lý có tác dụng khuếch đại gia tăng EBIT. Tuy
nhiên sự khuếch đại này không phải tuyến tính mà theo quy luật giảm dần.
6
Độ bẩy hoạt động
Số dư đảm phí
Lợi nhuận
=
2.Đòn bẩy tài chính (Financial Leverage)
Có một điều khác biệt lý thú giữa đòn bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính là công ty
có thể lựa chọn đòn bẩy tài chính trong khi không thể lựa chọn đòn bẩy hoạt động. Đòn
bẩy hoạt động phụ thuộc phần lớn vào đặc điểm hoạt động của công ty quyết định, chẳng
hạn công ty hoạt động trong ngành hàng không và luyện thép có đòn bẩy hoạt động cao
trong khi công ty hoạt động trong ngành dịch vụ như tư vấn và du lịch có đòn bẩy hoạt
động thấp. Đòn bẩy tài chính thì khác, công ty có quyền lựa chọn những hình thức tài trợ
khác nhau như nợ vay, cổ phiếu ưu đãi hay cổ phiếu thường. Thế nhưng trên thực tế ít khi
có công ty nào không sử dụng đòn bẩy tài chính, vậy lý do gì khiến công ty sử dụng đòn
bẩy tài chính?
Trước hết, nợ vay có những lợi thế sau:
− Chi phí trả lãi vay được tính trừ vào lợi nhuận trước khi tính thuế, hạ thấp chi
phí thực của lãi vay.
− Phân tán rủi ro cho vốn chủ sở hữu.
− Không phải lo sợ vấn đề hiệu ứng pha loãng quyền sở hữu nếu phát hành bổ
sung cổ phiếu gọi vốn.
− Công ty có thể chủ động điều chỉnh cơ cấu vốn tuỳ theo từng thời kỳ.
Tuy nhiên, sức ép vận hành đảm bảo lợi suất cao hơn lãi suất, đảm bảo điểm rơi lợi
nhuận tích lũy đủ thanh toán nợ gốc. Nếu công ty gặp khó khăn tài chính và lợi tức kinh
doanh không đủ bù đắp chi phí về lãi suất, các cổ đông của công ty sẽ phải bù vào chỗ sụt
giảm đó.
Cổ phiếu ưu đãi không phải trả vốn gốc nhưng không được khấu trừ thuế khi tính
thu nhập chịu thuế.
Khi hoạt động kinh doanh hiệu quả, công ty thường quyết định tài trợ vốn từ những
nguồn có chi phí cố định (nợ vay và cổ phiếu ưu đãi), bởi vì người nắm giữ nợ có được
lợi nhuận cố định nên các cổ đông không phải chia sẻ lợi nhuận của họ nếu công ty rất
thành công, có thể tận dụng lợi thế đòn bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận cho cổ đông.
Cổ phiếu ưu đãi không được khấu trừ thuế khi tính thu nhập chịu thuế làm cho chi phí sử
dụng vốn cổ phần ưu đãi cao hơn chi phí sử dụng nợ, vì thế công ty thích sử dụng đòn
bẩy tài chính bằng nợ hơn cổ phiếu ưu đãi.
2.1.Độ bẩy tài chính (DFL)
Độ bẩy tài chính (degree of financial leverage – DFL) là một chỉ tiêu định lượng
dùng để đo lường mức độ biến động của EPS khi EBIT thay đổi. Độ bẩy tài chính ở một
mức độ EBIT nào đó được xác định như là phần trăm thay đổi của EPS khi EBIT thay
đổi 1 phần trăm.
7
Độ bẩy tài chính (DFL)
ở mức EBIT
Phần trăm thay đổi EPS
Phần trăm thay đổi EBIT
=
[ ]
)1/( tPDIEBIT
EBIT
DFL
EBIT
−−−
=⇔
Độ bẩy tài chính là công cụ để biết trước xem ở một mức định phí tài trợ nào đó, sự
thay đổi lợi nhuận trước thuế và lãi vay sẽ ảnh hưởng thế nào đến lợi nhuận trên mỗi cổ
phần. Khi EBIT tăng hay giảm X % thì EPS có chiều hướng tăng hay giảm X %×DFL.
Nếu doanh nghiệp có độ bẩy tài chính cao, chỉ có biến động nhỏ của EBIT sẽ gây ảnh
hưởng lớn đến EPS.
EPS được xác định theo công thức sau:
Trong đó:
I: lãi suất phải trả.
PD: cổ tức cổ phiếu ưu đãi.
t: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
NS: số lượng cổ phần thông thường.
Sự phối hợp các phương án tài trợ sẽ làm thay đổi lãi vay, cổ tức và số lượng cổ
phần dẫn đến thay đổi EPS kỳ vọng. Công thức tính EPS được xác định trong mối quan
hệ EBIT và các yếu tố trên là cơ sở phối hợp các phương án tài trợ để đem lại lợi nhuận
trên vốn cổ phần cao nhất.
2.2.Tác động đòn bẩy tài chính lên lợi nhuận và rủi ro
2.2.1.Tác động nợ vay lên tỷ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (Return on total assets ratio – ROA): chỉ tiêu này
đo lường khả năng sinh lợi trên 1 đồng vốn đầu tư vào công ty.
Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần (Return on equity ratio – ROE): đây là chỉ tiêu mà
nhà đầu tư rất quan tâm vì nó cho thấy khả năng tạo lãi của 1 đồng vốn họ bỏ ra để đầu tư
vào công ty.
Sự khác nhau giữa tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ
phần là do công ty có sử dụng nợ. Nếu công ty không có nợ thì hai tỷ số này sẽ bằng
nhau.
8
Tỷ suất sinh lợi
trên vốn cổ phần
Lợi nhuận ròng
Vốn cổ phần
=
Tỷ suất sinh lợi
trên tổng tài sản
Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
=
NS
PDtIEBIT
EPS
−−−
=
)1)((
Tác động nợ vay lên tỷ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần thể hiện qua việc so
sánh giữa tỷ suất doanh lợi chung và lãi suất vay nợ. Sự chênh lệch giữa tỷ lệ lợi nhuận
đạt được và chi phí sử dụng vốn vay giúp doanh nghiệp biết được khả năng chi trả lãi vay
để có thể đưa ra quyết định tài trợ từ nợ vay hợp lý, quyết định này tác động lên tỷ suất
lợi nhuận trên vốn cổ phần như thế nào? Đây là vấn đề rất được cổ đông quan tâm.
Gọi NV: nợ vay, i: lãi suất vay, VCP: vốn cổ phần, TS: tổng tài sản (bằng vốn cổ
phần và nợ vay).
Công ty đầu tư tổng tài sản bằng vốn cổ phần thì toàn bộ lợi nhuận hoạt động sẽ
thuộc về cổ đông. Nếu đầu tư tổng tài sản bằng cả vốn cổ phần lẫn vốn vay thì lợi nhuận
hoạt động sẽ trừ đi chi phí lãi vay trước khi cổ đông nhận được lợi nhuận của mình.
Khi tỷ suất sinh lợi chung lớn hơn lãi suất cho vay:
i
TS
EBIT
VCP
iNVEBIT
TS
VCPEBIT
iNVEBIT
iNV
TS
VCPTSEBIT
i
TS
EBIT
>>
−
⇒
>−⇒
>−
−
⇒
>
.
.
.
0.
)(
Ngược lại, khi tỷ suất sinh lợi chung nhỏ hơn lãi suất cho vay thì:
i
TS
EBIT
VCP
iNVEBIT
TS
VCPEBIT
iNVEBIT
iNV
TS
VCPTSEBIT
i
TS
EBIT
<<
−
⇒
<−⇒
<−
−
⇒
<
.
.
.
0.
)(
=> Kết luận: đòn cân nợ có tiềm năng làm tăng tỷ suất doanh lợi trên vốn cổ phần
nhưng đồng thời cũng đem lại cho vốn cổ phần một nguy cơ rất lớn: nếu tỷ suất doanh lợi
chung cao hơn lãi suất vay nợ, thì tỷ suất doanh lợi trên vốn cổ phần sẽ trở nên cao hơn.
Trái lại, nếu tỷ suất doanh lợi chung thấp hơn lãi suất vay nợ, tỷ suất doanh lợi trên vốn
cổ phần sẽ trở nên thấp hơn cả chi phí trả lãi vay.
2.2.2.Phân tích mối quan hệ EBIT (Earnings before interest and taxs) – EPS
(Earnings per share)
Phân tích mối quan hệ EBIT – EPS là phân tích sự ảnh hưởng của những phương
án tài trợ khác nhau đối với lợi nhuận trên cổ phần. Từ sự phân tích này, chúng ta sẽ tìm
ra một điểm bàng quan (indifferent point). Dù phối hợp các phương án tài trợ thế nào thì
công ty cũng kỳ vọng EPS cao, tuy nhiên tại EBIT bàng quan thì phương án tài trợ nào
cũng đều mang lại EPS như nhau.
9
Dựa vào công thức trên đây, chúng ta có thể xác định điểm bàng quan bằng một
trong hai phương pháp: phương pháp đại số và phương pháp hình học.
Xác định điểm bàng quan bằng phương pháp đại số
Áp dụng công thức tính EPS theo EBIT cho mỗi phuơng án, sau đó thiết lập
phương trình cân bằng như sau:
2
222,1
1
112,1
)1)(()1)((
NS
PDtIEBIT
NS
PDtIEBIT −−−
=
−−−
Trong đó:
EBIT
1,2
: EBIT bàng quan giữa 2 phương án tài trợ 1 và 2.
I
1
, I
2
: lãi phải trả ứng với phương án 1 và 2.
PD
1
, PD
2
: cổ tức cổ phiếu ưu đãi theo phương án 1 và 2.
NS
1
, NS
2
: số cổ phần thông thường ứng với phương án 1 và 2.
Xác định điểm bàng quan bằng phương pháp hình học
Sử dụng đồ thị biểu diễn quan hệ giữa EBIT và EPS để có thể tìm ra được điểm
bàng quan, tức là điểm giao nhau giữa các phương án tài trợ ở đó EBIT theo bất kỳ
phương án nào cũng mang lại EPS như nhau. Để làm điều này, chúng ta xây dựng đồ thị
xác định điểm bàng quan theo ba phương án như hình vẽ sau:
Đối với mỗi phương án, lần lượt vẽ đường thẳng phản ánh quan hệ giữa EPS với tất
cả các điểm của EBIT. Tìm điểm thứ nhất bằng cách lần lượt cho EPS = 0 để tìm ra EBIT
tương ứng. Điểm thứ hai, cho EBIT bất kỳ để tìm ra EPS tương ứng. Mỗi phương án đều
xác định được hai điểm, nối hai điểm đó lại sẽ tạo thành đường thẳng phản ánh quan hệ
giữa EBIT và EPS của phương án đó.
Ý nghĩa điểm bàng quan
Từ phương pháp hình học cũng như phương pháp đại số, chúng ta tìm thấy điểm
bàng quan giữa hai phương án tài trợ bằng nợ và cổ phiếu thường là X. Điều này có nghĩa
là nếu EBIT thấp hơn điểm bàng quan X thì phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường tạo
10
EPS
EBIT
Nợ
CP thường
Điểm bàng quan
EPS
ra được EPS cao hơn phương án tài trợ bằng nợ, nhưng nếu EBIT vượt qua X thì phương
án tài trợ bằng nợ mang lại EPS cao hơn phương án tài trợ bằng cổ phiếu thường.
Sau khi phân tích quan hệ EBIT – EPS. Các công ty có thể lựa chọn tài trợ hoạt
động kinh doanh của mình hoặc bằng nợ vay, cổ phần ưu đãi hay vốn cổ phần để tận
dụng tối đa lợi ích từ đòn bẩy tài chính. Nếu như thế, các công ty phải được tài trợ hoặc
là toàn bộ nợ vay, cổ phiếu ưu đãi hay toàn bộ vốn cổ phần. Nhưng nếu giải pháp tốt nhất
là kết hợp tất cả các phương án tài trợ, vậy tỷ lệ mỗi loại là bao nhiêu là tốt nhất? Chúng
ta sẽ thảo luận các khía cạnh chủ yếu của nợ vay so với vốn cổ phần hay cơ cấu vốn (chỉ
xem xét nợ vay đại diện cho nguồn tài trợ có chi phí cố định và vốn cổ phần) như thế nào
để mang lại lợi nhuận trên mỗi cổ phần cao nhất.
Hình vẽ mối quan hệ giữa EBIT, EPS và đòn cân nợ
Hình trên thể hiện quan hệ giữa EBIT – EPS trong những kế hoạch tài trợ khác
nhau. Tỷ lệ nợ càng cao độ dốc các đường biểu diễn càng lớn, điều này ngụ ý rằng độ
nhạy cảm của EPS đối với sự thay đổi của EBIT là rất lớn. Sử dụng đòn bẩy tài chính
phóng đại thu nhập cả dương và âm cho cổ đông, khi EBIT vượt qua điểm hòa vốn sự gia
tăng EBIT làm EPS tăng cao hơn đối với phương án sử dụng nhiều nợ vay hơn. Ngược
lại, khi chưa đạt đến EBIT hòa vốn, thậm chí bằng 0 thì phương án có đòn bẩy tài chính
lớn hơn làm EPS âm càng nhiều.
Các thay đổi về sử dụng nợ sẽ tạo nên các thay đổi EPS. Khi tỷ lệ nợ trên tài sản
càng cao làm EPS kỳ vọng gia tăng. Mặc dù các chi phí lãi suất tăng, nhưng tác động này
được bù trừ nhiều hơn do số lượng cổ phiếu đã phát hành sụt giảm khi nợ vay được thay
thế cho vốn cổ phần, đồng thời nó cũng làm tăng rủi ro.
3. Tổng hợp đòn bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính
Khi đòn bẩy tài chính được sử dụng kết hợp với đòn bẩy hoạt động, sẽ tạo ra đòn
bẩy tổng hợp (Combined or total leverage). Như vậy, đòn bẩy tổng hợp là việc công ty sử
dụng kết hợp cả chi phí hoạt động và chi phí tài trợ cố định. Khi sử dụng kết hợp, đòn
bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính có tác động đến EPS khi số lượng tiêu thụ thay đổi
qua hai bước. Bước thứ nhất, số lượng tiêu thụ thay đổi làm thay đổi EBIT (tác động của
đòn bẩy hoạt động). Bước thứ hai, EBIT thay đổi làm thay đổi EPS (tác động của đòn bẩy
tài chính). Để đo lường mức độ biến động của EPS khi số lượng tiêu thụ thay đổi người
ta dùng chỉ tiêu độ bẩy tổng hợp (degree of total leverage – DTL).
11
EBIT
Nợ vay ít
Nợ vay nhiều
Vốn cổ phần
0
∆EPS
A
∆EPS
B
∆EBIT
Độ bẩy tổng hợp của công ty ở mức sản lượng (hoặc doanh thu) nào đó bằng phần
trăm thay đổi của EPS trên phần trăm thay đổi của sản lượng (hoặc doanh thu).
Về mặt tính toán, độ bẩy tổng hợp (DTL) chính là tích số của độ bẩy hoạt động với
độ bẩy tài chính:
DTL
Q đơn vị hoặc S đồng
= DOL × DFL
Thay vào công thức tính DOL, DFL ta có được:
[ ]
)1/( tPDIEBIT
VS
DTL
S
−−−
−
=
(V: tổng biến phí)
CHƯƠNG III: LIÊN HỆ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒN BẨY LÊN HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ ĐẦU TƯ A&D
Sau đây chúng ta cùng xem xét tác động của đòn bẩy trong tài chính tác động như
thế nào lên hoạt động kinh doanh cua doanh nghiệp trong 2 quý I và II.
1. Phân tích đòn bẩy hoạt động
Để đo lường tác động của đòn bẩy hoạt động, trước tiên chúng ta xem đòn bẩy hoạt
động ảnh hưởng đến lợi nhuận hoạt động khi doanh thu thay đổi như thế nào.
Bảng ảnh hưởng của đòn bẩy hoạt động lên lợi nhuận
Đvt: ngàn đồng
Chỉ tiêu Quý 1 Quý 2
A. Trước khi thay đổi doanh thu
Doanh thu
Biến phí
Số dư đảm phí
Định phí
Lợi nhuận hoạt động
25.594.117
22.193.193
3.400.924
1.341.990
2.058.934
35.873.259
31.536.006
4.337.253
1.655.065
2.682.188
12
Độ bẩy tổng hợp (DTL)
ở mức Q đơn vị (hoặc S đồng)
Phần trăm thay đổi EPS
Phần trăm thay đổi sản lượng
(hoặc doanh thu)
=
DTL
Phần trăm thay đổi EPS
Phần trăm thay đổi sản lượng
(hoặc doanh thu)
=
Phần trăm thay đổi EBIT
Phần trăm thay đổi EBIT
B. Sau khi doanh thu tăng 30%
Doanh thu
Biến phí
Số dư đảm phí
Định phí
Lợi nhuận hoạt động
33.272.352
28.851.151
4.421.201
1.341.990
3.079.211
46.635.237
40.996.808
5.638.429
1.655.065
3.983.364
Phần trăm thay đổi
lợi nhuận hoạt động
49,5% 48,5%
Chúng ta cũng có thể nhanh chóng biết được phần trăm thay đổi lợi nhuận hoạt
động khi doanh thu thay đổi thông qua khái niệm tỷ lệ số dư đảm phí: nếu doanh thu tăng
một lượng thì lợi nhuận tăng lên một lượng bằng doanh thu tăng lên nhân với tỷ lệ số dư
đảm phí.
Quý 1: lợi nhuận tăng = 30% × 25.594.117 × 13% = 1.020.277 ngàn đồng.
Tốc độ tăng lợi nhuận = 1.020.277 / 2.058.934 = 49,5%
Quý 2: lợi nhuận tăng = 30% × 35.873.259 × 12% = 1.301.176 ngàn đồng.
Tốc độ tăng lợi nhuận = 1.301.176 / 2.682.188 = 48,5%
Doanh thu tăng với tốc độ 30% thì biến phí cũng tăng cùng với tốc độ như vậy để
gia tăng số lượng sản phẩm tương ứng, nhưng định phí không thay đổi tạo ra tác động
của đòn bẩy hoạt động làm tốc độ tăng lợi nhuận hoạt động quý 1, quý 2 tăng nhanh hơn
tốc độ tăng doanh thu, mặc dù có sự sụt giảm trong tốc độ gia tăng lợi nhuận hoạt động
của quý 2 so với quý 1.
Đo lường tác động của đòn bẩy hoạt động
Chỉ tiêu Quý 1 Quý 2
Độ bẩy hoạt động
65,1
%30
%5,49
=
62,1
%30
%5,48
=
Do công ty hoạt động ở nhiều lĩnh vực như đầu tư, xây dựng, …nên sản phẩm cũng
đa dạng và không thể tính thành đơn vị, vì vậy sử dụng công thức tính độ bẩy hoạt động
theo doanh thu như sau:
13
Độ bẩy hoạt động
Số dư đảm phí
Lợi nhuận
=
Độ bẩy hoạt động (DOL)
ở mức doanh thu
Phần trăm thay đổi
lợi nhuận hoạt động
Phần trăm thay đổi
doanh thu
=
Quý 1: Độ bẩy hoạt động = 3.400.924 / 2.058.934 = 1,65
Quý 2: Độ bẩy hoạt động = 4.337.253 / 2.682.188 = 1,62
Độ bẩy hoạt động cả hai quý đều dương chứng tỏ công ty đã vượt qua sản lượng
hòa vốn. Độ bẩy hoạt động quý 1 bằng 1,65 có nghĩa là từ mức doanh thu 25.594.117
ngàn đồng, cứ 1% thay đổi trong doanh thu đưa đến thay đổi 1,65% trong lợi nhuận hoạt
động theo cùng chiều với thay đổi trong doanh thu. Nói cách khác, một gia tăng 10%
trong doanh thu đưa đến một gia tăng 16,5% trong lợi nhuận hoạt động. Tương tự, một
sụt giảm 10% trong doanh thu đưa đến một sụt giảm 16,5% trong lợi nhuận hoạt động.
Độ bẩy hoạt động quý 2 bằng 1,62 có nghĩa là từ mức doanh thu 35.873.259 ngàn
đồng, cứ 1% thay đổi trong doanh thu đưa đến thay đổi 1,62% trong lợi nhuận hoạt động
theo cùng chiều với thay đổi trong doanh thu, một gia tăng 10% trong doanh thu đưa đến
một gia tăng 16,2% trong lợi nhuận hoạt động và ngược lại.
Sự sụt giảm trong độ bẩy hoạt động từ quý 1 sang quý 2 thể hiện khi doanh thu thay
đổi thì lợi nhuận quý 1 nhạy cảm hơn và rủi ro cũng lớn hơn so với quý 2.
2. Phân tích đòn bẩy tài chính
Độ bẩy tài chính (DFL)
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay để tính sự tác động của đòn bẩy tài chính không chỉ
có lợi nhuận từ bán hàng và cung cấp dịch vụ, những lĩnh vực hoạt động đầu tư khác của
công ty còn tạo ra các khoản doanh thu và chi phí hoạt động tài chính, doanh thu và chi
phí khác. Lợi nhuận hoạt động (để tính độ bẩy hoạt động) sau khi cộng các khoản doanh
thu và trừ chi phí này (không bao gồm chi phí lãi vay) sẽ tạo thành lợi nhuận trước thuế
và lãi vay.
Bảng ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính lên lợi nhuận
Đvt: ngàn đồng
Chỉ tiêu Quý 1 Quý 2
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT)
Lãi suất (I)
Lợi nhuận dành cho cổ đông thường
Số lượng cổ phần (NS)
Lợi nhuận trên cổ phần (EPS)
2.065.807
0
2.065.807
4.000.000
516 đồng
2.591.054
336.514
2.254.540
4.000.000
564 đồng
Tác động của sự tăng lên 30% trong EBIT
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) 2.685.549 3.368.370
14
Lãi suất (I)
Lợi nhuận dành cho cổ đông thường
Số lượng cổ phần (NS)
Lợi nhuận trên cổ phần (EPS)
0
2.685.549
4.000.000
671 đồng
336.514
3.031.856
4.000.000
758 đồng
Phần trăm thay đổi EPS
(EPS
t
- EPS
t-1
)/ EPS
t-1
30% 34,4%
Chỉ tiêu Quý 1 Quý 2
Độ bẩy tài chính
1
%30
%30
=
15,1
%30
%4,34
=
Có thể tính độ bẩy tài chính theo cách khác, công thức là:
[ ]
)1/( tPDIEBIT
EBIT
DFL
EBIT
−−−
=
Vì công ty không có huy động vốn bằng cổ phiếu ưu đãi và đang trong thời gian
miễn thuế nên [PD /(1-t)] = 0.
Quý 1:
1
0807.065.2
807.065.2
=
−
=DFL
Quý 2:
15,1
514.336054.591.2
054.591.2
=
−
=DFL
Độ bẩy tài chính quý 1 bằng 1 có nghĩa mỗi thay đổi 1% trong EBIT từ mức EBIT
cơ bản 2.065.807 ngàn đồng sẽ đưa đến một thay đổi 1% trong EPS theo cùng chiều với
thay đổi trong EBIT.
Độ bẩy tài chính quý 2 bằng 1,15 có nghĩa mỗi thay đổi 1% trong EBIT từ mức
EBIT cơ bản 2.591.054 ngàn đồng sẽ đưa đến một thay đổi 1,15% trong EPS theo cùng
chiều với thay đổi trong EBIT. Nói cách khác, một gia tăng 10% trong EBIT đưa đến một
gia tăng 11,5% trong EPS. Tương tự, một sụt giảm 10% trong EBIT đưa đến một sụt
giảm 11,5% trong EPS.
Ở quý 1 tốc độ tăng EPS bằng với tốc độ tăng EBIT, trả lãi vay nên đòn bẩy tài
chính vẫn chưa phát huy tác dụng. Sang quý 2 công ty đã chi trả lãi vay 336.514 ngàn
đồng, và độ bẩy tài chính không còn là 1 nữa mà đã tăng lên 1,15. do công ty đã vay dài
hạn 9.093.734 ngàn đồng nhưng chưa đến thời điểm thực hiện nghĩa vụ chi.
15
Độ bẩy tài chính (DFL)
ở mức EBIT
Phần trăm thay đổi EPS
Phần trăm thay đổi EBIT
=
3. Phân tích đòn bẩy tổng hợp
Chỉ tiêu Quý 1 Quý 2
Độ bẩy hoạt động (1)
Độ bẩy tài chính (2)
Độ bẩy tổng hợp (1×2)
1,65
1,00
1,65
1,62
1,15
1,86
Độ bẩy tổng hợp quý 1 bằng 1,65 có nghĩa mỗi thay đổi 1% trong doanh thu từ
mức doanh thu cơ bản là 25.594.117 ngàn đồng sẽ đưa đến một thay đổi 1,65% trong
EPS theo cùng chiều với thay đổi của doanh thu.
Độ bẩy tổng hợp quý 2 bằng 1,86 có nghĩa mỗi thay đổi 1% trong doanh thu từ mức
doanh thu cơ bản 35.873.259 ngàn đồng sẽ đưa đến một thay đổi 1,86% trong EPS theo
cùng chiều với thay đổi của doanh thu. Nói cách khác, một gia tăng 10% trong doanh thu
đưa đến một gia tăng 18,6% trong EPS và ngược lại.
Ở quý 1, độ bẩy tài chính bằng 1 nên công ty chỉ chịu sự tác động của đòn bẩy hoạt
động là 1,65. Sang quý 2, đòn bẩy hoạt động mặc dù có giảm nhẹ nhưng các khoản nợ
vay đã bắt đầu phát huy tính hiệu quả làm độ bẩy tài chính tăng đến 1,15 dẫn đến độ bẩy
tổng hợp cao hơn quý 1, ở mức 1,86. Độ bẩy tổng hợp quý 2 tác động lớn hơn quý 1 làm
EPS biến động nhiều hơn khi doanh thu thay đổi, hay lợi nhuận trên mỗi cổ phần có thể
tăng nhanh hơn và rủi ro cũng lớn hơn khi doanh thu giảm.
Ở quý 2, độ bẩy hoạt động giảm và độ bẩy tài chính tăng là hợp lý để tránh tác
động tổng hợp cùng lúc làm tăng rủi ro tổng thể. Tuy nhiên sự giảm xuống của DOL
không mang tính chủ quan, công ty chỉ quyết định được một phần trong việc đầu tư vào
tài sản cố định. Nhưng đòn bẩy tài chính thì khác, sự gia tăng của DFL là do công ty chủ
động đi vay nợ. Vì vậy hoàn toàn có thể đưa ra giải pháp tài trợ nhu cầu vốn tương lai
hiệu quả, hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận trên vốn cổ phần.
16
KẾT LUẬN
Một công ty đồng thời có tỷ lệ đòn bẩy hoạt động và đòn bẩy tài chính cao thì sẽ rất
rủi ro trong đầu tư khá lớn. Một tỷ lệ đòn bẩy hoạt động cao có nghĩa là doanh nghiệp
đang tạo ra ít doanh thu nhưng có lợi nhuân biên tế trên mỗi đơn vị sản phẩm cao. Điều
này tiềm ẩn rủi ro cho việc dự báo chính xác doanh thu trong tương lai. Chỉ cần một sự
sai lệch nhỏ trong dự báo doanh thu so với thực tế diễn ra thì nó đã có thể tạo ra một
khoảng cách sai lệch đáng kể giữa dòng tiền thực tế và dòng tiền theo dự toán. Điều này
rất quan trọng, nó có thể sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng hoạt động của công ty trong
tương lai. Rủi ro doanh nghiệp gặp phải sẽ tăng lên cực đại khi tỷ lệ đòn bẩy hoạt động
cao kết hợp thêm với tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao trong khi tỷ suất sinh lợi trên tài sản
không cao hơn mức lãi suất vay nợ. Từ đó có thể làm giảm tỉ suất sinh lợi trên vốn chủ sơ
hữu (ROE) và lợi nhuận của doanh nghiệp
Giám đốc tài chính cần lưu ý rằng đòn bẩy trong tài chính là con dao hai lưỡi. Nếu
doanh nghiệp đạt được EBIT ít hơn định phí hoạt động và chi phí tài trợ cố định thì sử
dụng đòn bẩy có thể làm giảm lợi nhuận của các cổ đông,vì vây mỗi khi quyết định sử
dụng đòn bẩy trong kinh doanh các giám đốc tài chính cần hết sức thận trọng.
Do thời gian hạn hẹp để có thể tìm hiểu thực tế sự đa dạng của môi trường kinh
doanh cũng như hạn chế về trình độ và lý luận nên đề tài của em cũng không tránh khỏi
những sai sót. Em rất mong nhận được những nhận xét, đáng giá của các thầy, các cô
giáo giúp em có thể hoàn thành đề tài của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện
Mùi Văn Anh
17