Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

văn hóa vùng miền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.23 KB, 75 trang )

I. GIỚI THIỆU VỀ VÀI NÉT VĂN HÓA:
Chúng ta không bao giờ có thể hiểu được tường tận những nền văn hóa khác
nhau. Không phải thứ gì hợp lý trong nền văn hóa này cũng có nghĩa là nó sẽ hợp
lý trong nền văn hóa khác. Ở trường sinh viên được những chức năng quản lý:
hoạch định – tổ chức - thực hiện – kiểm tra có vẻ không khó khăn gì. Nhưng liệu
trên thực tế có thể áp dụng nó cho tất cả mọi người? Trong khi mọi người xung
quanh chúng ta có vô số tính cách khác nhau: có người siêng năng cũng có người
lười biếng, nóng tính cũng như vui vẻ và một phần tính cách này được hình
thành thông qua tác động của nền văn hóa họ chịu ảnh hưởng từ khi sinh ra hoặc
đang sống. Do đó tìm hiểu nền văn hóa chính là để tìm ra cách làm việc tốt hơn.
Mỗi con người, mỗi vùng miền đều có những nhu cầu, động cơ làm việc, sở thích
khác nhau. Hiểu được điều đó thì mới có thể làm chủ cuộc chơi. Không có một
cách quản lý chung tốt nhất cho tất cả mọi người.
1. Văn hóa là gì:
Nghĩa gốc “văn hóa” là một từ Hán Việt bao gồm hai từ “văn trị” và “giáo
hóa”. Nghĩa là cai trị và giáo huấn mọi người một cách nhân từ, tử tế, công bằng.
Còn trong ngôn ngữ phương Tây, từ tương ứng với “văn hóa” của tiếng Việt bắt
nguồn từ chữ Latinh "Cultus" có nghĩa là gieo trồng.
Trên thế giới có vô số cách định nghĩa “văn hóa” nhưng tựu chung lại văn hóa
là sản phẩm của con người. Bao gồm những thứ hữu hình như: nhà cửa, ẩm thực,
quần áo, lễ hội và những điều vô hình như: giá trị và chuẩn mực. Thông thường
chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được bề nổi của văn hóa khi sử dụng các giác quan để
quan sát. Nhưng thực chất đó chỉ là bề nổi của một tảng băng trôi. Những thứ
không thể hiện ra bên ngoài còn lớn hơn và quan trọng hơn rất nhiều. Nhưng để
hiểu được điều này cần phải có thời gian dài tìm hiểu, quan sát và trải nghiệm.
Văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người – con
người, con người – tự nhiên, con người - xã hội. Sau đó chính văn hóa lại tham gia
1
vào việc tạo nên con người. Một vấn đề là đúng trong nền văn hóa này chưa chắc
đã đúng trong nền văn hóa khác.
Vd: Với người Việt Nam thịt heo hay thịt bò đều là thịt. Nhưng người Ấn Độ


theo đạo Hindu lại xem bò là thần và tuyệt đối không ăn thịt bò. Còn người Hồi
Giáo thì lại không ăn thịt heo vì cho đó là thứ dơ bẩn.
Một số danh ngôn về văn hóa nổi tiếng:
Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu
khi người ta đã học tất cả - Edouard Herriot.
Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và
những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do
thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió
nào - Mahatma Gandhi.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và
đòi hỏi sinh tồn - Hồ Chí Minh
2. Hình thành Sự phân hóa vùng miền của đất nước hình chữ S:
Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:
Quan niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa của người
Kinh, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh của người
Kinh chiếm đa số.
Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt
Nam cư trú trên mảnh đất Việt Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có văn
hóa dân tộc/quốc gia.
Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc gia,
đây là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc
người.
Trong đó quan điểm thứ 3 được đánh giá là chính xác nhất. Vì không hề có
một nền văn hóa nào đứng độc lập một mình. Luôn có sự giao thoa giữa các nền
văn hóa với nhau, trong đó nổi bật nhất vẫn là nền văn hóa của người Kinh hiện
đang chiếm đa số (86%).
2
Đặc trưng:
Thứ nhất: Văn hóa Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời và chịu ảnh hưởng

của nền văn minh lúa nước, trong đó quan trọng nhất là nền văn hóa Đông Sơn với
sự ra đời của hai nhà nước đầu tiên của người Việt: Văn Lang và Âu Lạc. Trong
giai đoạn này nền văn hóa thuần nhất chưa có sự tác động của các nền văn hóa bên
ngoài. Sau đó, nền văn hóa Việt Nam đã có sự tiếp xúc, giao lưu với nền văn hóa
Trung Hoa trong suốt hàng ngàn năm bị đô hộ và vùng lên đấu tranh giành độc
lập. Tiếp đó là sự xâm nhập của văn hóa phương Tây trong thế kỷ XIX khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta. Tuy nhiên nền văn hóa nước ta đã đứng vững hòa
nhập chứ không hòa tan, tiếp thu những cái hay và loại bỏ những cái xấu để hình
thành nên nền văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam.
Thứ hai: Văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng bao gồm trong đó nền tiểu
văn hóa của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có những nét đặc trưng riêng trong
phong tục, tập quán, ngôn ngữ, trang phục nhưng đồng thời cũng có sự giao
thoa, hợp nhất.
Thứ ba: Sự khác biệt về địa lý, khí hậu, phân bố các dân tộc và dân cư đã tạo
ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam: từ nền văn hóa
làng xã hình thành từ nền văn minh lúa nước đặc trưng của người Kinh ở đồng
bằng sông Hồng, đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây bắc
và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời mở mang bờ cõi ở Bắc
Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam Trung Bộ.
Từ những vùng đất “mới” ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa,
người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
II. NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA MIỀN BẮC:
1. Miền Bắc cái nôi của tổ quốc:
1.1. Không gian văn hóa:
a. Phạm vi:
Bắc Bộ nằm ở vùng cực Bắc lãnh thổ Việt Nam, có phía bắc giáp Trung Quốc,
phía tây giáp Lào và phía đông giáp biển Đông.
Địa hình Bắc Bộ đa dạng và phức tạp. Bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển và
thềm lục địa. Có lịch sử phát triển địa hình và địa chất lâu dài, phong hóa mạnh
3

mẽ. Có bề mặt thấp dần, xuôi theo hướng tây bắc - Đông Nam, được thể hiện
thông qua hướng chảy của các dòng sông lớn.
Có đường bờ biển dài, có cửa ngõ lớn và quan trọng thông thương với các khu
vực lân cận và thế giới qua cảng biển Hải Phòng.
Vùng lãnh thổ này miền Bắc được chia thành 3 vùng lãnh thổ nhỏ:
Tây Bắc Bộ:
Bao gồm 6 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Điện Biên, Hoà Bình, Lai Châu, Sơn La.
Vùng này chủ yếu nằm ở hữu ngạn sông Hồng. Riêng Lào Cai, Yên Bái đôi khi
vẫn được xếp vào tiểu vùng Đông Bắc.
Đông Bắc bộ:
Bao gồm 9 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh.
Đồng bằng sông Hồng:
Bao gồm 10 tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng
Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Phúc.
b. Khí hậu:
Bắc Bộ quanh năm có nhiệt độ tương đối cao và ẩm, nền khí hậu chịu ảnh
hưởng từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và mang tính chất khí hậu lục địa. Trong
khi một phần khu vực Duyên hải lại chịu ảnh hưởng tính chất khí hậu cận nhiệt
đới ấm và gió mùa ẩm từ đất liền.
Toàn vùng có khí hậu cận nhiệt đới ẩm quanh năm với 4 mùa rõ
rệt xuân, hạ, thu, đông. Đồng thời hàng năm chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc
và gió mùa Đông Nam
Thời tiết mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9 nóng ẩm và mưa cho tới khi gió mùa
nổi lên. Mùa đông từ tháng 10 tới tháng 4 trời lạnh, khô, có mưa phùn. Thường
hứng chịu nhiều tác động xấu của thời tiết.
c. Dân số:
4
Khu vực đồng bằng Sông Hồng có mật độ dân cư dày đặc nhất (khoảng 1225
người/km2). Trong khi đó ở khu vực Trung du miền núi với diện tích rộng lớn, tài

nguyên thiên nhiên phong phú lại thiếu nguồn nhân lực khai thác và có mật độ dân
số thấp hơn rất nhiều so với khu vực đồng bằng (khu vực Tây Bắc có mật độ dân
69 người/km).
d. Kinh tế:
Khu vực đồng bằng sông Hồng:
Đóng vai trò quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chung ở Việt
Nam.
Là nơi có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi.
Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, dân cư đông đúc, mặt bằng dân trí
cao.
Có truyền thống lâu đời về thâm canh lúa nước.
Có nhiều trung tâm công nghiệp và hệ thống đô thị phát triển.
Vẫn còn thiếu nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp đang phát triển
và luôn phải nhập từ các vùng khác.
Khu vực Đông Bắc và Tây Bắc:
Là khu vực giàu tài nguyên để phát triển nông nghiệp, trồng cây công nghiệp,
cây đặc sản và chăn nuôi gia súc.
Có thế mạnh đặc biệt trong gieo trồng các cây công nghiệp có nguồn gốc cận
nhiệt và ôn đới. Trung du và miền núi phía bắc cũng là khu vực trồng cây chè lớn
nhất. Các loại chè nổi tiếng được trồng nhiều ở Sơn La, Hà Giang, Yên Bái
và Thái Nguyên.
Tốc độ phát triển kinh tế của toàn vùng là khá toàn diện. Tuy nhiên, riêng với
khu vực Trung du và miền núi phía bắc, nhất là vùng tây bắc vẫn còn nghèo so với
các vùng khác trong cả nước.
1.2. Chủ thể văn hóa:
5
Bắc Bộ là cái nôi hình thành dân tộc Việt với nhiều lễ hội đặc trưng vì thế
cũng là nơi sinh ra các nền văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn nhau : Văn hóa
Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Từ trung tâm này, văn hóa Việt
lan truyền vào Trung Bộ rồi Nam Bộ. Với điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi,

nguồn tài nguyên phong phú, khí hậu hình thành 4 mùa rõ rệt: mùa xuân, mùa hạ,
mùa thu, mùa đông, vừa "xa rừng", vừa "nhạt biển". Chính vì vậy văn hóa châu
thổ vùng Bắc Bộ có những nét đặc trưng của văn hóa Việt, nhưng lại có những nét
riêng biệt của vùng này.
Tính cách:
Tính tình sâu sắc, tinh tế, thâm thúy ,rất lễ phép,chăm chỉ trong công việc và
đặc biệt có trên có dưới đó là do ảnh hưởng của chế độ vua chúa trước đây. Mặt
khác bảo thủ, hoài cổ và có lối nói "vòng vo tam quốc"
Có truyền thống ăn học, tầng lớp trí thức đông đảo, luôn đề cao hệ thống trường
sở và chế độ thi cử để kén chọn người hiền tài đã có cách đay gần ngàn năm.
Cũng chính do ảnh hưởng của lề lối phong kiến nên họ tương đối khó,đòi hỏi
lễ nghi, trọng nam khinh nữ,con trai thì gia tưởng và khó tính.
Khí hậu khắc nghiệt cùng với cuộc sống khó khăn cũng làm cho người miền
Bắc tính tình nóng nảy.
Trang phục giản dị,gọn gàng,màu sắc nhã nhặn.
Người phụ nữ thường đảm đang, chung thủy, có sự hiểu biết và vẫn còn khép
nép do ảnh hưởng của thời xưa.
Họ sống phức tạp suy nghĩ đắn đo,lời ăn tiếng nói cầu kì,hoa mĩ nên nhiều khi
trở thành lối sống giả.
Quan hệ xã hội:
Người dân Việt Nam đều có chung cơ cấu Gia đình - Làng - Nước. Tuy nhiên,
ở Bắc Bộ, yếu tố này sâu đậm hơn, nhất là dấu ấn quê hương, đất đai, mồ mả tổ
tiên, đình làng, cây đa, bến nước nơi con người gắn bó với cộng đồng nơi cư trú,
các gia đình ở sát cạnh nhau, làng có hàng tre bao bọc, có cổng làng, có lễ hội, có
nơi vui chơi cộng đồng vừa "một giọt máu đào hơn ao nước lã" vừa "bán anh em
6
xa mua láng giềng gần" khiến con người gắn bó chặt chẽ với nhau, khó lòng dứt
bỏ ra đi.
Tìm hiểu đối phương một cách chi tiết, cẩn thận khi thiết lập một mối quan hệ
và khó thiết lập lại mối quan hệ khi hai bên xảy ra mâu thuẫn.

Giao tiếp với mọi người
Độc đoán, độc tài, đối với họ "xếp là số 1"
Chú ý tới từng cử chỉ nhỏ của từng nhân viên, nếu bị xếp ghét rồi thì khó ghi
điểm lại.
Phong cách ăn uống:
Từ lâu việc ăn đã thành nghi thức: Ăn cưới, ăn khao, tiếp khách, ăn cỗ tính
chất giao tiếp thể hiện rõ trong ăn uống (ăn trông nồi, ngồi trông hướng, lời chào
cao hơn mâm cỗ, sống vì mồ mả chứ không vì cả bát cơm, ).
Thích ứng với khí hậu ở châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có chú ý tăng
thành phần thịt và mỡ, nhất là mùa đông lạnh, để giữ nhiệt năng cho cơ thể.
Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam
Bộ nhưng lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc Bộ nhiều lắm, các
món kho thường cho nhiều gừng củ. Các món mặn thường dùng gia vị bột ngọt
khá nhiều, nêm mặn chủ yếu là muối, món nước quen thuộc là nước trà (chè),
uống bia ướp lạnh không dùng đá.
Người Bắc Bộ thích ăn trong khung cảnh cùng gia đình.
Phong cách mặc:
Trước đây, cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích
ứng với thiên nhiên Bắc Bộ đó là màu nâu. Đàn ông với y phục đi làm là chiếc
quần lá tọa, áo cánh màu nâu sống. Đàn bà cũng chiếc váy thâm, chiếc áo nâu, khi
đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với áo dài mớ ba
mớ bảy (áo cánh),vấn khăn, trùm khăn mỏ quạ, đàn ông với chiếc quần trắng, áo
dài the, chít khăn đen.
Ngày nay y phục của người Việt Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều, nhưng
vẫn giữ được nét ăn mặc kín đáo, màu sắc nhẹ nhàng và giản dị.
7
Phong cách ở:
Nhà cửa của người Việt ở Bắc Bộ thường kiên cố, quy củ theo khuôn viên,
thường "5 gian", 2 gian đầu hồi là buồng ngủ của vợ chồng và để đồ, còn 3 gian
giữa là nơi thờ cúng, sinh hoạt chung.

Tâm lý của họ là lo củng cố nhà cửa "thứ nhất làm nhà " và "an cư mới lập
nghiệp".
Thường chọn nhà quay về hướng Nam được coi như là một sự đúc kết có tính
quy luật, vừa để tránh ngọn gió mùa đông bắc, vừa để đón nhận ánh sáng tía nắng
ấm của mặt trời.
Vì vây nếu bạn chọn một không gian hợp phong thủy miền Bắc cho cuộc hẹn
bàn công việc sẽ khiến họ thích thú.
Văn hóa con người Việt Nam chúng ta hết sức đa dang không chỉ giừa miền
Bắc, miền Trung, Miền Nam, mà ngay chính trong miền Bắc thì lại mang những
đặc trưng riêng của mỗi nơi.Như ở miền Bắc có thể phân ra vùng đồng bằng Sông
Hồng tiêu biểu có Hà Nội, vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc mang những nét văn
hóa hoàn toàn khác biệt.
2. Nét văn hóa của người Hà Nội:
2.1. Những nét nổi bật:
Thanh lịch
Nói đến vẻ đẹp của người Hà Nội chúng ta có thể nói gọn trong hai chữ
“Thanh” và “Lịch” .Có nhiều câu thơ đã được viết ra để tôn vinh vẻ đẹp, cái lịch
lãm, tế nhị, tự tin trong từng câu nói của người HN như:
“ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”
Hay
“Người thanh tiếng nói cũng thanh.
Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu.”
8
Óc thực tế, sáng tạo và nhạy cảm với cái mới
Do hoàn cảnh đô thị hội tụ người bốn phương nên khách quan đòi hỏi người
Hà Nội có đầu óc thực tế, thể hiện ở các mặt: Xem xét tính toán trong làm ăn để có
lợi nhiều. "Khéo tay hay làm, đất lề Kẻ Chợ" là câu ngạn ngữ quen thuộc ca ngợi
tài hoa, sáng tạo của những người thợ thủ công kinh thành. Người Hà Nội xưa và
nay có khả năng thích nghi rất nhanh, rất nhạy cảm, khá năng động và không ngại

tiếp nhận những cái mới và tìm tòi, cải tiến, sáng tạo thành cái của mình. Điều này
thể hiện trong các công trình kiến trúc, văn hóa, trong việc du nhập các luồng tư
tưởng tôn giáo, không chỉ tiếp xúc giao lưu với các nền văn hóa phương Bắc mà
cả với nền văn hóa phương Tây
Nghị lực, trung thực, thẳng thắn và giàu nghĩa khí
Người dân ở các vùng của đất nước đưa nghề thủ công về Hà Nội, tạo thành
nghề 36 phố phường sầm uất. Nghị lực của người Hà Nội còn được thể hiện ở con
đê ngăn lũ sông Hồng đắp suốt chiều dài lịch sử ngàn năm xây dựng đô thành.
Trọng học thức, chuộng cái đẹp
Chính vì Hà Nội là nơi hội tụ và đỉnh cao của nền văn hóa dân tộc, nên vùng
đất và con người Thăng Long cũng là nơi có tinh thần ham học và quý trọng trí
thức. Với học thức khá cao cùng với môi trường sống nơi đây nên con người Hà
Nội cũng cảm nhận nét đẹp thiên nhiên, con người một cách tinh tế hơn.
2.2. Những nét văn hóa:
a. Văn hóa giao tiếp:
Cái thanh, cái đẹp của tiếng nói Hà Nội là ở chỗ chuẩn xác, phát âm đúng,
mẫu mực cho cả nước. Cái thanh lịch của người Hà Nội còn thể hiện trong giao
tiếp xã hội, ứng xử, giao tiếp, xử lý các mối quan hệ một cách mềm mại, uyển
chuyển mà hiệu quả cao. Người Hà Nội với vốn từ giàu có, lại biết sử dụng đúng
nơi đúng chỗ, hợp cảnh, hợp tình, tạo nên một phong cách riêng không pha trộn
vừa hào hoa, nhã nhặn, vừa lịch lãm nhún nhường.
Trong quan hệ với bạn bè, khách khứa, người Hà Nội bao giờ cũng có một
thái độ hiếu khách truyền thống, nồng nhiệt mà không thô bạo, niềm nở mà không
suồng sã. Khi khách đến nhà, người chủ dù bận việc cũng phải đứng dậy mời
9
chào. Nếu đang mặc quần áo ngắn, quần cộc, áo cánh thì phải “xin lỗi” khách, mà
mặc quần áo dài nghiêm chỉnh rồi mới tiếp khách.
Trong cách pha trà đãi khách của người Hà Nội cũng thể hiện trình độ và sự
tinh tế riêng. Chè để đãi khách bao giờ cũng là chè ngon, có nhà cẩn thận còn đem
ướp sen, nhài hay hoa ngâu để tăng thêm hương vị

b. Văn hóa mặc:
Nét thanh lịch của người Hà Nội được thể hiện ở trang phục. Trong trang phục
của cả nam và nữ, của người già và trẻ em… luôn giữ được vẻ trang nhã, hài hòa,
giản dị và mỗi người ăn vận đúng với vị thế xã hội và nghề nghiệp của mình.
Trang phục áo dài của thanh nữ Hà Nội vẫn là nét đẹp tiêu biểu của người phụ
nữ Việt Nam.
c. Văn hóa ăn uống:
Trong ăn uống của người Hà Nội thể hiện nét thanh lịch ở trình độ thẩm mỹ
cao, sự tinh tế trong công việc chế biến thức ăn, chính chất sành điệu trong ăn
uống ấy mà người Hà Nội đã sáng tạo nhiều món ăn nổi tiếng trở thành đặc sản Hà
thành như: Phở, bún thang, bún ốc, chả cá, bánh cuốn Thanh trì, chè kho, cốm
vòng, bánh tôm Hồ Tây… Chỉ cần quan sát mâm cơm ngày tết hay mâm cơm
khách của người Hà Nội là thấy ngay được tính lịch sự và chu đáo trong đó. Trong
một mâm bao giờ cũng có rất nhiều món, mỗi món một chút, mỗi món cho một
khẩu vị riêng. Đặc biệt, cách bài trí các món ăn đều được trình bày rất đẹp và hấp
dẫn.
Khi ăn uống, người Hà Nội bao giờ cũng giữ nề nếp “ăn trông nồi, ngồi trông
hướng” và luôn luôn thận trọng, ý tứ khi trong mâm có người già cao tuổi hay
khách khứa. Khi đi ăn tiệm thì cũng rất sành điệu để tìm nơi, tìm vị, chọn thời,
chọn cơ, mà đã hợp với nơi nào thì thuỷ chung với nơi đó.
Từ ngàn xưa, người Thăng Long - Hà Nội đã có nếp sống “có lịch có lề”. Vài
năm trở lại đây, câu chuyện văn hóa của người Hà Nội đang có sự xuống cấp trầm
trọng được nhắc đến nhiều.
Năm 1986 là thời kỳ “mở cửa”, đất nước chuyển từ bao cấp sang nền kinh tế
thị trường thì tất cả bung ra và văn hóa của người Hà Nội đã bị ảnh hưởng. Nhưng
từ năm 2000 trở về đây bắt đầu có sự suy thoái mạnh mẽ, trầm trọng. Lúc này
10
trong con người đã mất đi suy nghĩ, tư duy về “thuyết nhân quả”, “luật luân hồi”.
Nhiều người, họ không còn biết sợ, họ bất chấp tất cả trong cuộc “đấu tranh sinh
tồn”. Cộng thêm nguyên nhân nữa là là do một lượng người ngoại tỉnh vào Hà Nội

quá nhiều , chính vì phải bon chen sinh tồn ở thủ đô nên người ngoại tỉnh nảy sinh
nhiều tính xấu. Từng có lối sống rất “chân – thiện – mỹ” tức chân thành, cởi mở,
thiện cảm với mọi người và biết cảm thụ âu sắc về cái đẹp, nhưng vì từng nhìn
thấy những hành vi không đẹp của người ngoại tỉnh, người gốc Hà Nội dần dần đề
phòng, thờ ơ với những người xung quanh và có thành kiến với người ngoại tỉnh.
Chính điều này cũng góp phần tạo nên một văn hóa kinh doanh ở đây.
d. Văn hóa kinh doanh:
Ở Hà Nội, bạn sẽ không tin vào tai mình khi vào cửa hàng mà được ai đó nói
lời cảm ơn. Bởi người Hà Nội luôn sẵn sàng tâm thế bị “mắng mỏ” khi ra đường.
Cũng bởi ở miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng, thói quen văn hóa - lịch sử
đã để lại một quan điểm cho rằng làm nghề phục vụ là hạ cấp.
Ở Hà Nội, thậm chí có những người đi ô tô, áo quần sành điệu có khi ví lại mỏng
dính. Người Hà Nội thích ăn mặc có gu riêng, chứng tỏ bản thân hơn người khác.
Nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đình Đầu lý giải các câu chuyện trên rằng bởi Hà
Nội là một đô thị mang tính hướng nội, nép mình nhờ sự bảo vệ của sông Hồng.
Do Hà Nội bảo thủ nên không dễ dàng chấp nhận cái mới, rất gắn bó với
những sản phẩm đã được thị trường khẳng định. Ở đây môi trường là yếu tố quyết
định, anh có thể tài giỏi, nhưng cái anh có thể là thay đổi bản thân thích ứng với
môi trường, chứ anh không thể nào thay đổi được môi trường. Việc đi du học cũng
giống như vậy, hãy thay đổi bản thân phát triển đến mức tốt nhất có thể ở trong
môi trường cũ rồi hãy nghĩ tới chuyện thay đổi môi trường (ra nước ngoài học
tập).
Sự thích ứng nhanh và tính căn cơ của người miền Bắc. Vì môi trường mở và
thoáng cũng đồng nghĩa với áp lực cạnh tranh lớn. Ra Bắc thì "dịch vụ" là át chủ
bài. Ở Bắc rất quen thuộc cảnh "kem đứng, cháo quát, phở xếp hàng", có thể nói
doanh nghiệp nơi đây có 1 văn hoá dịch vụ phụng sự khách hàng còn yếu kém.
Những trường hợp thành công của doanh nhân Nam ra Bắc có thể kể tới Phở 24
của Lý Quý Trung, siêu thị Nguyễn Kim - Best Carings
Kiểu phục vụ coi khách hàng như kẻ đi xin, thậm chí mắng chửi, hành hung
khách nếu không vừa lòng của nhiều tiểu thương ở Hà Nội khiến người ta tự hỏi,

11
liệu đó có phải một “đặc sản” của Hà Nội ? Mua hàng, được “khuyến mại” cái
lườm, câu chửi, sờ mà không mua, coi chừng bị đốt vía, ăn đòn.
3. Nét văn hóa của vùng Tây Bắc:
Tây Bắc thực ra là tên gọi theo phương vị, lấy Thủ đô Hà Nội làm điểm chuẩn,
hiện tại là địa bàn gồm các tỉnh:Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái, Điện Biên,
Hòa Bình, gần hai chục dân tộc sinh sống ở đây. Chỉ kể những dân tộc tương đối
đông dân ta đã có dân tộc Thái gồm Thái Đen, Thái Trắng, Thái Đỏ. H'Mông với
các Người H’Mông Trắng, Xanh, Đen, Hoa, Dao (với các người Quấn chẹt, Nga
Hoàng, Dao đỏ), Mường, Khơmú, Laha, Xinhmun, Tày….Ngoài ra, còn có một bộ
phận người Kinh vốn là con cháu nghĩa binh Hoàng Công Chất đã sống lâu đời ở
đây, và một bộ phận người Hoa, vốn là dòng dõi quân Lưu Vĩnh Phúc. Mỗi dân
tộc đều có văn hóa mang bản sắc riêng.
3.1. Những nét nổi bật:
Văn hóa Thái với những yếu tố diễn biến từ văn hóa Đông Nam Á nổi lên như
một sắc thái đại diện cho văn hóa Tây Bắc.
Tây Bắc, một vùng văn hoá với xứ sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất
dịu ngọt của những thiên tình sử tiễn dặn người yêu nhưng cũng đầy tiếng than thở
của những thân phận làm dâuTây Bắc. Không thật giàu về vật chất nhưng lại giàu
về văn hóa,đặc trưng bởi không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng với
điệu múa xòe tiêu biểu là điệu múa xòe hoa rất nổi tiếng được nhiều người biết. Ai
đã từng qua Tây Bắc không thể quên được hình ảnh những cô gái Thái với những
bộ váy áo thật rực rỡ đặc trưng cho nơi đây.
Là một bộ phận của nền văn minh đồng thau Đông Sơn với trống đồng và
công cụ bằng đồng mà chủ nhân của nền văn hóa này là người Laha.
3.2. Những nét văn hóa:
a. Con người:
Sống chân thật, giản dị và rất hòa thuận, có một tấm lòng vị tha, tình nghĩa sâu
đậm,giúp đỡ nhau vô tư.Trong gia đình, trong bản không bao giờ thấy người ta to
tiếng với nhau. Đặc biệt không bao giờ trẻ con bị mắng mỏ nặng lời, chứ không

nói đến việc bị đánh đòn. Trẻ con hiểu nhiệm vụ của chúng và rất tự giác thực
hiện. Khi khó khăn, đói kém người ta đến họ hàng xin lương thực. Người được hỏi
12
xin sẵn sàng chia sẻ số lương thực còn lại, dù biết rằng sau đó chính họ cũng sẽ
lâm vào cảnh thiếu đói và cũng phải lên rừng đào củ mài, củ bới thay cơm.
Điều đó lí giải được vì sao sự tồn tại suốt mấy chục năm của các "quán tự
giác" trên khắp nẻo đường Tây Bắc. Đồng bào treo chuối, mía, trứng, để giá tiền
vào từng loại, khách qua đường tự lấy ăn rồi bỏ tiền vào cái túi vải treo cạnh đó.
Khách có tiền lớn thì có thể đổ tiền trong túi ra, tự lấy tiền thừa rồi bỏ tiền của
mình và số tiền sẵn có của quán hàng trở lại vào túi. Chủ quán không có mặt,
nhưng chẳng ai dám cả gan ăn cắp - kể cả những lái xe người Kinh đi qua đường.
Sở thích: trang trí trang phục, chăn màn, đồ dùng với các sắc độ của gam màu
nóng ; rất nhiều màu đỏ, xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng rơm, rồi da cam,
tím và nếu có xanh thì phải là xanh da trời tươi.Còn họa tiết, bố cục, phối màu của
trang trí thì rất nhiều và phong phú, đến nỗi chỉ một chiếc khăn thêuThái, một bộ
nữ phục H'mông, Lô Lô, Dao đỏ, một mặt chăn Mường, một điểm màn Kháng
cũng đủ tầm cỡ để phải làm riêng một chuyên khảo.
Sự thông minh, khéo tay của người phụ nữ trog việc thêu thùa và thuần thục
bên khung cửi (qua những bộ trang phục, trang sức, cấc đồ gia dụng như chăn,
màn, túi xách…). Phụ nữ đã học thêu ngay từ nhỏ, những thời gian rãnh rỗi
thường ngồi thêu.
Bản làng có một thái độ rất kính trọng với rừng. Chẳng phải vì rừng có ma
thiêng, mà vì rừng là nơi con người nương tựa để tồn tại. Luật Thái có hàng chục
điều quy định về việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt là những quyết định về
bảo vệ rừng đầu nguồn.
b. Nghệ thuật:
Do người Thái có chữ viết riêng nên kho tàng văn học dân và một số luật lệ
còn được lưu giữ và truyền lại khá nguyên vẹn qua các bản ghi chép trên giấy bản
hoặc trên lá cây. Đồng bào có nhiều tác phẩm văn học bằng chữ Thái. Mỗi dân tộc
trong vùng đều có một kho vốn sáng tác ngôn từ giàu có và đủ thể loại từ tục ngữ,

thành ngữ, đồng dao, giao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa chú, các áng văn trong
lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể trong đám cưới,
các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười… Có cả truyện thơ dài hàng ngàn
câu như Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (H'mông), Vườn hoa núi
Cối (Mường),truyện thơ lịch sử kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc như
bản sử ca Dõi theo bước đường chinh chiến của ông cha.
13
Người Thái tuy đã có một vài nghệ nhân giỏi sáng tác thơ ca nổi tiếng và mặc
dầu dân tộc này có chữ viết cổ, nhưng tác phẩm của họ vẫn lưu truyền chủ yếu
bằng phương thức truyền miệng…
Có một sở thích âm nhạc chung cho hầu hết các dân tộc Tây Bắc, một sở thích
không thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre,
bằng đồng hay bằng bạc. Nếu sưu tầm và gộp chung lại thì có đến vài chục loai
hình thuộc hệ nhạc cụ này. Nhiều loại đã được cả nước biết đến như Pí pặp, khèn
bè Thái, sáo và khèn H'mông.
Thơ ca Tây Bắc được sáng tác để hát, chứ không phải để đọc. Những truyện
thơ, những áng sử thi được trình diễn bằng cả những liên khúc âm nhạc mà nhiều
bài trích ra từ đó đã được cả nước biết đến như bài "inh lả ơi" chẳng hạn.
"Xòe" là đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây
Bắc. Người Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia
đông đảo của già trẻ, gái trai trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Người H'mông nổi
tiếng về các điệu múa khèn, đá châm hùng dũng của nam giới. Người Khơmú và
Xinhmun lại độc quyền điệu múa lắc mông, lượn eo…
Một số lễ hội tiêu biểu nơi đây như:
Lễ hội hoa ban: Đây là lễ hội của dân tộc Thái. Tổ chức vào tháng Hai âm
lịch, khi hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Đây là ngày hội của tình yêu đôi lứa,
ngày hội của hạnh phúc gia đình, hội cầu mùa, no ám nơi bản mường cũng là dịp
thi tái vui chơi, hát giao duyên.
Lễ hội cầu an bản Mường: Đây là lễ hội của dân tộc Thái và dân tộc
Mường.Đây là một sinnh hoạt văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng, diễn ra vào cuối

tháng Giêng đầu tháng Hai âm lịch. Lễ hội gắn với tục giết trâu và tạ thần linh thể
hiên qua hình tượng thủy thần, thuồng luồng
Lễ hội Lồng Tồng: Là lễ hội của người Tày. Được tổ chức hằng năm vào tháng
Giêng, tháng Hai âm lịch. Mang ý nghĩa cầu phúc, cầu mùa màng bội thu, cuộc
sống bình yên, no ấm. Trong lễ hội thường diễn ra các trò chơi dân gian như: ném
còn, hát lượn, bịt mắt bắt dê
c. Tục cưới hỏi của người Thái:
Qua nhiêu bước trong đó có 2 bước cơ bản:
14
Cưới lên (đong khửn): Đưa rể đến cư trú nhà vợ - là bước thử thách phẩm giá,
khả năng lao động của chàng rể. Người Thái Đen có tục búi tóc ngược lên đỉnh
đầu cho người vợ ngay sau lễ cưới này.
Cưới xuồng ( đong lông): Sau thời gian ở rễ, được 2 bên đồng ý, chú rể mới
đưa gia đình trở về nhà trai.
Khi chàng trai người Thái đen đến tuổi lấy vợ (trước đây là 13-14 tuổi), nay
mười tám, đôi mươi sẽ tự đi tìm người con gái mà mình ưng ý hoặc do bố mẹ
"nhắm cho". Tiếp đến, nhà trai nhờ một ông Mối (tiếng Thái gọi là Phòlam) đến
nhà cô gái để làm mối. Nếu được gia đình cô gái ưng ý, chàng trai sẽ bắt đầu cuộc
đời ở rể, có thể chỉ 3 tháng hoặc kéo dài cho đến khi chàng rể được nhà cô gái
chấp nhận.
Chọn ngày lành, tháng tốt, nhà trai chuẩn bị cho con trai một số sính lễ để đến
ở rể. Lễ vật gồm: một chiếc áo, một con gà mổ sẵn, một gói cơm, một chai rượu và
một cái "Tôống bai" là cái đựng vía (khoắn) được làm bằng một sợ dây mây một
đầu được cuộn xoắn lại (theo như lời người Thái đen cho biết thì vật này để cho
vía chú rể trú ngụ ở đó). Ông Mối sẽ là người trực tiếp đưa chàng trai đến nhà cô
gái. Sau khi kiểm xong lễ vật, nhà gái để mọi thứ lên bàn thờ để báo cho tổ tiên
biết nhà đã có chàng rể. Trong thời gian ở rể chàng trai được đối xử như một thành
viên mới của gia đình.
Để đôi uyên ương được ngủ chung với nhau thì hai gia đình phải tiến hành
làm lễ "tăng cẩu" (búi tóc), chính thức công nhận họ là vợ chồng. Búi tóc của

người phụ nữ Thái đen từ thời điểm này được coi như là một dấu hiệu thông tin
cho mọi người biết họ đã có chồng. Để làm lễ này, nhà trai lại phải mang tới nhà
gái một số lễ vật. Theo tục lệ, lễ "Tăng cẩu" được thực hiện ở gian gần bếp, người
ta chuẩn bị một chậu nước lá thơm. Đại diện phía nhà trai gội đầu, chải tóc và búi
tóc cho cô dâu. Tóc được búi lên, cuộn lại bằng một dây xà tích bằng bạc và cài
một chiếc trâm bạc giữ cho tóc không bị xổ ra. Trong lúc búi tóc cho cô gái, đại
diện hai nhà cùng uống rượu và hát đối đáp "khắp toóc". Nội dung của các bài
khắp nói lên hoàn cảnh của mỗi nhà và những lời dặn dò đôi trai gái.
d. Kiến trúc nhà ở:
Ở theo Bản, Làng. Một bản khoảng 50 nóc nhà sàn,Bản Thái thường nằm ở
ven đồi, chân núi, nhìn ra cánh đồng, ở đấy thế nào cũng có ít nhất một dòng suối
15
to nhỏ tùy nơi. Bản nào ở chân núi đá thì hay dùng mạch nước ngầm làm nước ăn,
gọi là "Mỏ nước”.
Chủ yếu là ở trong nhà sàn. Đây là loại nhà được người Thái kiến thiết bằng
những chất liệu từ thiên nhiên, gần gũi với nơi họ sinh sống, có cái mái đầu hồi
khum khum hình mai rùa, trên đỉnh đầu hồi ấy có hai vật trang trí người Thái gọi
là "Sừng cuộn" vì đầu phía trên của nó thường được thao tác thành một vòng tròn
xoáy trôn ốc. Trong ngôi nhà sàn của người Thái, ngoài các buồng thông thường,
ở hai phía đầu hồi còn có hai phần được sử dụng với từng mục đích khác nhau,
một đầu là khan dùng để làm công việc bếp núc,phía cầu thang chính lên nhà. Đây
là phần dùng để tiếp khách và nếu gia đình nào có chàng rể đang trong giai đoạn
thử thách thì sẽ ngủ ở đây Mỗi nhà người Thái thường có hai bếp, một bếp để
tiếp khách, sưởi ấm, một bếp khác để nấu cơm.
e. Trang phục:
Trong trang phục truyền thống,nam giới mặc quần áo thổ cẩm màu chàm xanh
hoặc chàm đen,mặc quần cắt để thắt lưng, áo cánh xẻ ngực,có túi ở hai bên vấu
vạt, nhưng vài chục năm gần đây nam giới đã chuyển sang mặc âu phục là chủ
yếu.
Phụ nữ Thái hiện nay vẫn gắn bó với trang phục truyền thống: áo cỏn màu

trắng, xanh hoặc đen bó sát thân với hàng khuy bạc trắng, váy dài đen quấn suông
hoặc được thêu viền hoa văn ở gấu, thắt eo bằng vải lụa màu xanh lá cây. Cùng
với váy, áo phụ nữ Thái Đen đội khăn Piêu với các hoa văn bằng nhiều loại chỉ
màu rất sặc sỡ và đẹp. Đồ trang sức của phụ nữ chủ yếu là vòng bạc, xuyến bạc
đeo ở cổ và tay; hoa tai bằng bạc hoặc vàng.
f. Ẩm thực:
Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít dùng các món ngọt, lợ,
đậm và nồng. Món ăn truyền thống của người Thái là Xôi. Người Thái nổi tiếng
với "Cơm lam" (xôi nhồi ống nứa).
Thức ăn của người Thái rất tự nhiên nhưng lại rất phong phú và giàu vitamin,
đạm. Sông, suối, khe, rạch trở thành nguồn cung cấp tôm, cua, cá, ốc, ếch, đầy
chất dinh dưỡng. Thảm thực vật, đồi núi là nguồn cung cấp rau sạch, măng, nấm,
rêu, nhiều vitamin.
16
Những món độc đáo nơi đây như nặm pịa, món nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp
muối, làm mắm từ thịt cá tươi. Đặc biệt là các món chế biến từ cách nướng, lùi,
đồ, sấy Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi hay uống rượu cần,
hút thuốc lào. Họ rất thích uống rượu. Đối với họ uống rượi là phong tục cho nên
họ tự chế biến lấy để tiêu thụ. Rượu của người Thái có ba loại chính: Lảu xiêu (cất
hay trắng), Lảu xả (Rượu cần), Lảu vang (rượu nếp cái).
Chẳm chéo là món chấm không thể thiếu được trong các bữa ăn bình thường
cũng như khi đãi khách của đồng bào Thái. Nguyên liệu chính là: ớt, muối, mak
khén (còn gọi là hạt tiêu rừng có mùi thơm và vị cay nồng), tỏi, rau thơm lá
hành…có thể thêm gân gà luộc chín,ruột cá,…. Cách chế biến rất đơn giản: Ớt khô
hoặc tươi đem nướng lên cho thơm và ròn để lấy vị cay, tỏi và khén, 4 thứ giã
chung là có thể cho ta một bát chéo cơ bản.
g. Hoạt động sản xuất:
Canh tác lúa nước là hoạt động sản xuất chính của người Thái, lúa gạo là
nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Tuy nhiên người Thái cũng làm
nương để trồng lúa, ngô, lạc, vừng… và nhiều thứ cây trồng khác. Trong từng gia

đình còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, trồng bông, nuôi tằm để dệt vải, một
số nơi còn làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm với
những nét hoa văn độc đáo sắc màu rực rỡ, bền đẹp.
Họ có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, bắc máng lấy nước làm ruộng
nên trong dân gian thường truyền câu ca “Xá ăn theo lửa, Thái ăn theo nước”.
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu hợp lí
được đúc kết như một câu thành ngữ: “mương, phai, lái, lị” (khơi mương, đắp
đập,đẫn nước, đặt mắng) trên các cánh đồng thung lũng.Người Kinh vùng núi Phú
Thọ (cũ) học theo cách làm này và gọi chệch đi là "lần nước". Do chủ động tưới
tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là
tháo nước bắt cá. Cá nuôi trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt
lúa. Cho nên, món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng.
Họ làm ruộng cấy một vụ nếp, nay chuyển sang 2 vụ lúa tẻ. Họ còn làm nương để
trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc biệt là bông, cây thuốc
nhuộm, dâu tằm để dệt vải.
17
Phương tiện vận chuyển: Người Thái vận chuyển bằng gánh là phổ biến, ngoài
ra gùi theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ nay. ở dọc các
con sông lớn họ rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
 Văn hóa các tộc người vùng Tây Bắc khá phong phú và đa dạng, giàu bản
sắc, gắn liền với quá trình tụ cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn và nhiều thời
điểm khác nhau. Chính vì vậy trong chiến lược phát triển vùng cũng như tiểu
vùng, điều có ý nghĩa sống còn là giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa truyền
thống và hiện đại, truyền thống và đổi mới tại khu vực này.
4. Văn hóa vùng Đông Bắc:
Các dân tộc chính cư trú ở đây gồm: Kinh, Tày, Dao,Thái, Mông, Nùng…
Một số danh lam thắng cảnh nổi bật:
Chùa Bồ Đà (Bắc Giang), Đền Suối Mơ (Bắc Giang), Thành cổ Xương Giang
( Bắc Giang), ATK-Chợ Đồn (Bắc Kạn), Hồ Ba Bể ( Bắc Kạn), núi Phan Si Phăng
(Lào Cai) văn hoá vật chất:

Nét riêng của người Tày – Nùng:
a. Văn hóa nhà ở:
Người Tày - Nùng có hai loại nhà chính : nhà sàn và nhà đất.
− Nhà sàn là dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn
bốn mái. Nêú là nhà sàn bốn mái, hai mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn
hai mái chính. Cửa có thể mở ở mặt trước hoặc đầu hồi, cầu thang lên
xuống bằng tre, gỗ, nhưng số bực bao giờ cũng lẻ, không dùng bậc chẵn.
− Nhà đất là loại nhà xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng cũng có rất
nhiều thay đổi so với ngôi nhà sàn về quy mô, kết cấu, bố cục bên trong. Ở
một số vùng còn có loại nhà nửa sàn nửa đất, đây là một loại nhà đặc biệt,
vừa mang tính chất nhà đất vừa mang tính chất nhà sàn.
b. Văn hóa trang phục:
Trang phục của người Tày - Nùng có tính thống nhất, được phân biệt theo giới
tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương. Y phục của nam giới người Tày theo
một kiểu, gồm có áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu và giày vải. Chiếc áo
4 thân được cắt may theo kiểu xẻ cao, có hàng cúc vải ở trước ngực, cùng hai túi.
18
Hàng cúc của áo này bao giờ cũng là 7 cái. Quần của nam giới được may theo kiểu
đũng chéo, cả quần lẫn áo của nam giới Tày được may bằng vải chàm. Về đồ trang
sức, họ ít dùng đồ trang sức. Vì vậy, trang phục của người đàn ông Tày khá giản
dị, không có sự trang trí bằng hoa văn.
c. Văn hóa đời sống:
Giữa nam giới Tày và nam giới Nùng chỉ khác nhau đôi chút về kích thước
trong trang phục. Trong khi đó, trang phục của nữ giới lại đa dạng và phong phú.
Người phụ nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm, khác với người phụ nữ Tày mặc
chiếc áo lót trong màu trắng. Y phục nữ Tày - Nùng gồm có áo cánh, áo dài 5
thân, quấn, thắt lưng, khăn đội đấu, hài vải. Đồ trang sức cũng đơn giản, ngày
trước chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà tích bằng bạc. Chiếc
khăn của phụ nữ Tày là khăn vuông, khi lễ tết, họ buộc thêm chỉ đỏ, xanh quanh
vành khăn rồi thắt nút ra phía sau. Phụ nữ người Nùng có khác đôi chút là họ

thường bịt răng vàng, ưa thích đồ trang sức bằng bạc như vòng chân, vòng tay,
vòng cổ, khuyên tai, hoa tai
d. Văn hóa ăn uống:
Về mặt ăn uống, tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và
khẩu vị của cư dân có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của cư dân Tày -
Nùng, một mặt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kĩ thuật chế biến của các tộc
lân cận như Hoa, Việt v.v Họ chế biến ngô một cách tinh tế, ngô được giã, hay
xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh. Thức ăn chính là gạo tẻ, nhưng việc
chế biến các món ăn từ gạo nếp lại càng được chú trọng. Trong ngày tết, cốm là
món đặc biệt hấp dẫn. Các loại xôi màu hấp dẫn thường có mặt trong ngày lễ tết
của cư dân Tày - Nùng. Thịt lợn, thịt vịt quay thường được làm cầu kì như thịt lợn
quay Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê. Bữa ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình
đẳng, nhân ái. Tất cả các thành viên trong nhà ăn chung một mâm, khách đến nhà
rất được ưu ái, nể trọng.
Đời sống văn hóa tinh thần:
a. Tín ngưỡng:
Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư dân Tày - Nùng hướng
niềm tin của con người tới thần bản mệnh, trời - đất, tổ tiên. Các thần linh của họ
rất đa dạng, có khác là nhiều thần như thần núi, thần sông, thần đất. Ngoài ra lại có
19
các vua, có Giàng Then, ý thức cộng đồng được củng cố thông qua việc thờ thần
bản mệnh của mường hay của bản. ý thức về gia đình, dòng họ được, củng cố
thông qua việc thờ phụng tổ tiên. Mỗi gia đình có một bàn thờ tổ tiên đặt ở vị trí
trạng trọng nhất trong nhà. Ngoài ra, trong nhà họ còn thờ vua bếp. Diện mạo tôn
giáo cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo
giáo đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người dân , chùa thờ Phật ít hơn
dưới đồng bằng, nhưng cũng có những chùa đáng lưu ý, như chùa Hang, chùa úc
Kỳ ở Bắc Thái, chùa Diên Khánh, chùa Vinh Quang, chùa Nhị Thanh, chùa Tam
Thanh ở Lạng Sơn. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gần giống với người Việt,
nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín ngưỡng vật linh vốn có từ lâu

đời trong dân gian. Lễ hội của cư dân Tày - Nùng rất phong phú.
b. Lễ hội:
Ngày hội của toàn cộng đồng là hội Lồng tồng (hội xuống đồng), diễn ra gồm
hai phần : Lễ và hội. Nghi lễ chính là rước thần đình và thần nông ra nơi mở hội ở
ngoài đồng. Một bữa ăn được tổ chức ngay tại đây. Phần hội căn bản là các trò
chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật Như vậy, về bản chất, hội lồng
tồng là một sinh hoạt văn hóa. Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng, không
thể không nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại
cũng là nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến
một loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt
vãn hóa đặc thù của vùng . Tộc người chủ thể : Tày-Nùng với lịch sử và văn hóa
của họ tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính
thống nhất của văn hóa Đông Bắc Bộ và văn hoá cả nước.
III. NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA MIỀN TRUNG:
20
1. Miền Trung vẽ đẹp kiên cường:
1.1 Không gian văn hóa:
a. Phạm vi:
Miền Trung Việt Nam (Trung Bộ) có phía Bắc giáp khu
vực đồng bằng sông hồng và Trung du miền núi vùng Bắc
Bộ; phía Nam giáp các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa
– Vũng Tàu vùng Nam Bộ; phía Đông giáp Biển Đông, phía
Tây giáp 2 nước Lào và Campuchia. Dải đất miền Trung
được bao bọc bởi những dãy núi chạy dọc bờ phía Tây và
sườn bờ biển phía Đông, vùng có chiều ngang theo hướng
Đông - Tây hẹp nhất Việt Nam (khoảng 50 km) và nằm trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình .
b. Địa hình:
Địa hình miền Trung gồm 3 khu vực cơ bản là Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và
Nam Trung Bộ.

Bắc Trung Bộ:
Bao gồm các dãy núi phía Tây. Nơi giáp Lào có độ cao trung bình và thấp.
Riêng miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa có độ cao từ 1000 - 1500m. Khu vực
miền núi Nghệ An – Hà Tĩnh là đầu nguồn của dãy Trường Sơn có địa hình rất
hiểm trở, phần lớn các núi cao nằm rải rác ở đây. Các miền đồng bằng có tổng
diện tích khoảng 6.200km2, trong đó đồng bằng Thanh Hoá do nguồn phù sa
từ sông Mã và sông Chu bồi đắp, chiếm gần một nửa diện tích và là đồng bằng
rộng nhất của Trung Bộ.
Tây Nguyên:
Có diện tích khoảng 54.473,7km2, nằm về vị trí phía Tây và Tây Nam Trung
Bộ (phía Tây dãy Trường Sơn). Tây Nguyên có phía Tây giáp 2 nước Lào và
21
Campuchia, phía Đông giáp khu vực kinh tế Nam Trung Bộ và phía Nam giáp khu
vực Đông Nam Bộ. Địa hình Tây Nguyên đa dạng, phức tạp, chủ yếu là cao
nguyên với núi cao ở độ cao từ 250 - 2500m.
Nam Trung Bộ:
Thuộc khu vực cận giáp biển. Địa hình ở đây bao gồm đồng bằng ven biển và
núi thấp, có chiều ngang theo hường Đông - Tây (trung bình 40 – 50 km), hạn hẹp
hơn so với Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ
biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền đồng bằng có
diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải dọc theo hướng Nam tiến dần ra
sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng chủ yếu do sông và biển
bồi đắp, khi hình thành nên thường bám sát theo các chân núi.
Xét chung, địa hình Trung Bộ có độ cao thấp dần từ khu vực miền núi xuống
đồi gò trung du, xuôi xuống các đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển rồi ra
đến các đảo ven bờ.
c. Khí hậu:
Miền trung nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên thời tiết hanh lạnh
và có những đợt khô nóng. Một đặc điểm quan trọng của miền khí hậu này là mùa
mưa và mùa khô không cùng lúc với mùa mưa và khô của hai miến khí hậu còn

lại. Mùa hè, trong khi cả nước có lượng mưa lớn nhất, thì miền khí hậu này lại
đang ở thời kỳ khô nhất.
1.2. Lịch sử và văn hóa:
Bắc Trung Bộ là mảnh đất đầy biến động trong suốt chiều dài lịch sử, có lẽ
không một vùng đất nào trên đất nước lại có nhiều nét tương phản sâu sắc và đạt
nhiều cực trị như vùng này, cả về tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội và lịch sử.
Sông Gianh (Quảng Bình) là giới tuyến trong suốt thời kì Trịnh – Nguyễn
phân tranh (non một thế kỉ). Sông Bến Hải (Quảng Trị), suốt 20 năm là ranh giới
phân chia hai miền nam – Bắc. Tiếng súng đầu tiên ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) mở đầu
cho thời kì thực dân Pháp xâm lược và đô hộ nước ta. Cuộc đọ sức đầu tiên giữa
quân giải phóng và bọn xâm lược Mỹ diễn ra ở Núi Thành đã khẳng định chân lý
vĩ đại: chúng ta có thể thắng được giặc Mỹ. Ngay từ thế kỉ XVIII, Hội An đã là
một thương cảng sấm uất trong mối quan hệ giao bang quốc tế.
22
Tây Nguyên từ xưa vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc
thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa,
các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước các cuộc tấn công
của vương quốc Champa nhằm cướp bóc nô lệ. Sau khi Nguyễn Hoàng xây dựng
vùng cát cứ phía Nam, các chúa Nguyễn ra sức loại trừ các ảnh hưởng còn lại của
vương quốc Champa và cũng phái một số sứ đoàn để thiết lập quyền lực ở khu vực
Tây Nguyên. Các bộ tộc thiểu số ở đây dễ dàng chuyển sang chịu sự bảo hộ của
người Việt, vốn không có thói quen buôn bán nô lệ. Trong một số tài liệu vào thế
kỷ 16, 17 đã có những ghi nhận về các bộ tộc Mọi Ðá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi,
Kor, Bru, Ktu và Pacoh), Mọi Ðá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ
Van (Rhadé Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ các bộ tộc thiểu số
sinh trú ở vùng Nam Tây Nguyên ngày nay. Tuy có sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng
về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa
Nguyễn. Thời Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên
gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành
quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789). Sang đến triều

Nguyễn, quy chế dành cho Tây Nguyên vẫn không thay đổi nhiều, chủ yếu người
Việt vẫn chú ý khai thắc miền đồng bằng nhiều hơn, đặc biệt ở các vùng miền
Đông Nam Bộ ngày nay, đã đẩy các bộ tộc thiểu số bán sơn địa lên hẳn vùng Tây
Nguyên (như trường hợp của bộ tộc Mạ). Sau khi người Pháp nắm được quyền
kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục
vùng đất Tây Nguyên. Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayrena
sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được
các bộ lạc thiểu số. Ông ta thành lập vương quốc Sédan có quốc kỳ, có giấy bạc,
có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất. Nhận thấy
được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayrena về châu
Âu, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayrena.
Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau
đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán. Năm 1891, bác sĩ Alexandre
Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Liang Biang. Ông đã đề
nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp
này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên,
về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại
Nam. Vì vậy, năm 1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều
Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ.
Năm 1898, vương quốc Sédan bị giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở
Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng
23
Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực
tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây. Năm 1900, Toàn quyền Doumer đích thân
thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao
nguyên Trung kỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền
thực dân Pháp. Năm 1907, tòa đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum,
cùng với việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo. Những
thực dân người Pháp bắt đầu lên đây xây dựng các đồ điền đồng thời cũng ngăn
cấm người Việt lên theo, trừ số phu họ mộ được.

Duyên hải Nam Trung Bộ: Từ sau cuộc hôn nhân lịch sử giữa quốc vương Chế
Mân của Champa với công chúa Huyền Trân của Đại Việt vào năm 1306, thì vùng
đất Ô, Lý của Champa trước đây đã thuộc về lãnh thổ Đại Việt. Từ sự kiện này,
vùng đất Thuận Hóa (nay là địa bàn các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế) và một
phần Quảng Nam (nay là địa bàn Đà Nẵng và các huyện phía bắc của Quảng Nam)
được hình thành và cư dân Việt bắt đầu di trú đến vùng đất này. Trải qua các triều
đại: Trần, Hồ, Lê, chúa Nguyễn, người Việt tiếp tục đi về phía nam, vượt bao đèo
cao hiểm trở, qua bao sông rộng, đến mở mang, khai phá nên những vùng đất mới
mà sau này chính là địa bàn của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa…Dưới thời các chúa Nguyễn cai trị ở Đàng Trong (1558 -
1775), nhiều đô thị thương cảng được hình thành và phát triển rực rỡ như Hội An
(Quảng Nam), Thanh Hà (Huế), Nước Mặn (Bình Định)
1.3. Chủ thể văn hóa:
Với những tác động mạnh mẽ của khí hậu, đất đai cũng như ví trí địa lý đã
trở thành những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến con người nơi đây.
Miền trung là nơi xảy tiếp xúc nhiều nhất với biển nên cũng là nơi chịu những
tác động mạnh mẽ của lũ lụt cũng như hạn hán. Vì vậy, từ khi sinh ra, con người
miền trung đã ý thức được rằng họ phải cố gắng nổ lực thật nhiều để xây dựng cho
mình nơi ở kiên cố. Vì vậy mới có câu “ An cư lạc nghiệp”. Câu nói này được bắt
nguồn từ miền trung và câu nói này có lẽ đã ăn sâu vào máu của từng con người
nơi đây. Ngoài ra, họ cũng tính toán các khoản thu chi của một năm để có thể sống
tạm và giành dụm. Vì nơi đây, thù nhập chính của họ là 1 hoặc 2 vụ mùa chính
nên việc tính toán thu chi khá là nhanh chóng và đơn giản.
Nơi đây không được thiên nhiên ưu đãi, với đất đai khô cằn, nền nông nghiệp
lại chủ yếu nên con người nơi đây luôn lam lũ bươn chãi kiếm sống. Có lẽ vì thế
24
mà họ đã quen dần với cái khổ, cái cực. Ý thức được điều đó mà con người miền
trung khá là ý thức cho tương lai của con cháu đời sau.
Trong văn hóa đời sống, người miền trung nói chung khá tiết kiệm trong chi
tiêu so với những miền khác. Một ví dụ điển hình là các món ăn của người miền

Trung khá mặn. Đây có thể là một đặc trưng cơ bản của con người nơi đây. Tuy
nhiên, ở các dịp lễ thì người miền trung lại là nơi tổ chức kỹ nhất và ăn mừng lâu
nhất trong 3 miền. Vì nơi đây, họ đã lam lũ cả một năm, khó khăn cả một năm nên
khi có dịp lễ này họ nghĩ ngơi và thoải mái chi tiêu với mọi người.
2. Những nét văn hóa đặt trưng:
Một số đặc điểm trong tính cách của người miền Trung ảnh hưởng đến văn
hóa giao tiếp trong kinh doanh riêng biệt của họ.
2.1 Ngôn ngữ:
Sự khác biệt về ngôn ngữ, giọng nói so với chuẩn Tiếng Việt: Giọng nói của
người miền Trung phần lớn đều khác biệt hẳn so với chuẩn Tiếng Việt. Phân hẳn 3
vùng rõ rệt Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. 3 vùng 3
giọng khác nhau. Không nhắc đến vùng dân tộc thiểu số, chỉ nói đến dân tộc Kinh,
ngôn ngữ chuẩn của Tiếng Việt thì trừ Thanh Hóa (vì Thanh Hóa hầu như ảnh
hưởng văn hóa của miền Bắc nhiều hơn), các tỉnh còn lại của Bắc Trung Bộ có
giọng nói nặng, khó nghe và cách dùng từ ngữ cũng khác.
Ảnh hưởng: Quá trình giao tiếp không được xuyên suốt, dễ bị nhiễu, gây ảnh
hưởng đến đối tác. Hạn chế trong cách xử lý tình huống, khó giao tiếp.
Như sự bất đồng ngôn ngữ giữa 1 nhân viên bán hàng siêu thị người Sài Gòn
phát âm chuẩn tiếng Việt với 1 vị khách hàng người Quảng Trị / Quảng Bình:
“buốc đánh răng = bàn chải đánh răng”
Bất đồng ngôn ngữ giữa sếp và nhân viên. Sếp nói, nhân viên không nghe
được… làm cho sếp khó chịu khi nhân viên không nghe rõ và làm sai lệnh, ngược
lại nhân viên lại thấy áp lực khi cố gắng làm hài lòng sếp của mình.
2.2. Tính cách:
a.Tính cần kiệm:
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×