Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Kltn nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện sê pôn, tỉnh sa văn na khệt (nước chdcnd lào) trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.52 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh
đạo mọi mặt ở cơ sở, là nơi tiếp thu truyền bá và tổ chức thực hiện cụ thể hóa
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước
vào cuộc sống, là nơi phản ánh những vấn đề cuộc sống đã đặt ra thành nghị
quyết đường lối, chính sách pháp luật. Vì vậy tổ chức cơ sở đảng mạnh thì
Đảng mới mạnh. Nhận thức điều đó, từ ngày thành lập Đảng đến nay, Đảng
NDCM Lào luôn thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng Đảng, củng cố tổ
chức cơ sở đảng và xác định đó là nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác xây dựng
Đảng. TCCSĐ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối của Đảng ở cơ sở. Vì vậy, coi trọng xây dựng và nâng cao năng
lực lãnh đạo (NLLĐ) và sức chiến đấu (SCĐ) của TCCSĐ là nội dung cơ bản,
là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng của các
Đảng Cộng sản cũng như Đảng NDCM Lào. Chủ tịch Cay-Xỏn-phổm-vi-Hẳn
đã cho rằng: “ Đảng ủy cơ sở là đội tiên phong trực tiếp lãnh đạo,tổ chức,thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng”.
Những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ
chính trị của Đảng NDCM Lào (1998) “Về củng cố xây dựng tổ chức có đảng
vững mạnh, trong sạch và biết lãnh đạo toàn diện”, Chỉ thị số 65/BTCTW của
Ban tổ chức Trung Ương về "Nội dung và tiêu chí xây dựng tổ chức cơ sở
đảng vững mạnh, trong sạch và biết lãnh đạo toàn diện ở cơ sở, nhiều đảng bộ
cơ sở và chi bộ đảng ở khu nông thôn đã lãnh đạo thực hiện đạt hiệu quả
trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển ngành nghề, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng, phát huy dân
chủ, thực hiện cơng bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, được
nhân dân đồng tình ủng hộ.

1



Tuy nhiên, chất lượng của tổ chức cơ sở đảng khơng đồng đều, khơng ít
cơ sở các vùng, khu vực, nhất là ở nông thôn miền núi; vùng sâu, vùng xa còn
yếu kém, lúng túng trong lãnh đạo, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân
dân, các cơ sở đó chưa làm tốt nhiệm vụ tự đổi mới, tự chỉnh đốn, chưa thực
hiện đúng chức năng lãnh đạo; nội bộ chưa được củng cố vững chắc có tình
trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương, tư tưởng cán bộ, đảng
viên và quần chúng có nhiều diễn biến phức tạp, niềm tin vào tổ chức đảng có
hơi giảm sút. Cũng như tổ chức đảng nơng thơn nói chung, tổ chức cơ sở đảng
nông thôn miền núi huyện Sê Pơn - Tỉnh Sa Văn Na Khệt cũng cịn bộc lộ
nhiều tồn tại, khuyết điểm. Một số tổ chức cơ sở đảng (chi bộ đảng) ở các
bản, cụm bản còn lúng túng trong lãnh đạo, chưa nhận thức đúng đắn về các
chủ trương, chỉ thị, Nghị quyết, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà
nước, chất lượng tổ chức đảng và đảng viên thấp, mất đoàn kết và thống nhất
trong Đảng, thiếu dân chủ và chưa thực sự chủ động tập trung quần chúng
nhân dân tin nhiềm, ủng hộ. Tất cả những hạn chế, yếu kém trong tổ chức
đảng nông thôn huyện Sê Pôn như đã nêu trên nếu khơng chấn chỉnh kịp thời
thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến Đảng bộ huyện và liên quan trực tiếp đến yêu
cầu thực hiện các nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế nơng thơn mới trong
thời gian tới.Vì vậy, tôi chọn đề tài "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện Sê Pôn, Tỉnh Sa Văn
Na Khệt (Nước CHDCND Lào) trong giai đoạn hiện nay" làm khóa luận tốt
nghiệp đại học chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi của đề tài
2.1 Mục tiêu
Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về lý luận và thực tiễn xung quanh
vấn đề xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng nông thôn thuộc Đảng bộ
huyện Sê Pôn, tỉnh Sa Văn Na Khệt hiện nay. Với mong muốn nêu ra được
những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn của

2



địa phương, đồng thời giúp cho bản thân củng cố và nâng cao hơn nữa nhận
thức về lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Khái quát được những quan điểm cơ bản về
vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện Sê Pôn, tỉnh Sa Văn Na Khệt trong
những năm qua. Từ đó xác định rõ nguyên nhân yếu kém và rút ra kinh
nghiệm trong công tác xây dựng Đảng .
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện Sê Pôn, tỉnh
Sa Văn Na Khệt trong xu thế hội nhập hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng nông thôn huyện Sê Pôn, tỉnh Sa Văn Na Khệt.
- Thời gian : Từ năm 2006 đến năm 2010.
4 . Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài này được thực hiện theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin; tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Cay-xỏn-Phơm-Vi-Hẳn, quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng NDCM Lào.
- Ngồi ra đề tài cịn sử dụng kết hợp các phương pháp khác như:
Phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học, kết hợp phương pháp lơgíc và lịch
sử, phương pháp thống kê và tổng hợp.
5. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu,kết luận, khóa luận được chia làm ba chương:
Chương 1 : Những vấn đề lý luận về tổ chức cơ sở đảng, về năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.


3


Chương 2: Thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng nông thôn huyện Sê Pôn, tỉnh Sa Văn Na Khệt hiện nay
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện,
Sê Pôn, tỉnh Sa Văn Na Khệt thời gian tới.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG, NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm về tổ chức cơ sở đảng
Điều lệ của Đảng nhân dân Cách mạng Lào quy định: TCCSĐ là tổ
chức đảng ở đơn vị cơ sở. TCCSĐ bao gồm : chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở.
Đơn vị có từ 3 đảng viên chính thức đến 29 đảng viên thì lập chi bộ cơ sở;
đơn bị có từ 30 đảng viên trở lên thì lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực
thuộc đảng ủy; Trường hợp lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ 30
đảng viên và lập đảng bộ bộ phân trực thuộc đảng ủy cơ sở thì phải được cấp
ủy cấp trên trực tiếp đồng ý” [14,34-54 ]
Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội lần thứ VIII (2006), IX(2011) của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tại Điều 15 chương III (2006) và Điều 23
chương V(2011) còn chỉ rõ thêm:
- TCCSĐ (chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân trong hệ thống chính trị cơ sở, là nơi sinh hoạt của đảng viên, là nơi kết
nạp quần chúng ưu tú vào Đảng, là nơi tổ chức thực hiện đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- TCCSĐ bao gồm: Đảng bộ cơ sở,chi bộ cơ sở và chi bộ thuộc Đảng
ủy cơ sở được tổ chức theo bản,cụm bản,cơ quan, nhà trường, bệnh viện,
doanh nghiệp, đội ngũ cơ sở lực lượng vũ trang và đơn vị cơ sở khác có từ 3
đảng viên chính thức trở lên, lập TCCSĐ , nếu chưa đủ đảng viên chính thức
3 đồng chí thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở TCCS
Đ thích hợp.
-TCCSĐ dưới 30 đảng viên chính thức, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng
trực thuộc.
- TCCSĐ có từ 30 đảng viên chính thức trở lên lập đảng bộ cơ sở, có
các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
5


- Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp
ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
+ Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa dủ 30 đản viên chính thức.
+ Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở hơn 30 đảng viên chính thức.
+ Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư
tưởng Cay-Xỏn-Phơm-Vi-Hẳn về vị trí vai trị của tổ chức cơ sở đảng
C.Mác và Ph-Ăngghen là những người đầu tiên tham gia sáng lập chính
Đảng cộng sản. Trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" do Mác và Ăng
ghen đã viết khởi thảo và được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức năm
1848, Mác và Ăng ghen đã viết: Giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng
nhất, tiến bộ nhất, có sứ mệnh giải phóng giai cấp và nhân dân lao động khỏi
áp bức, bóc lột bất công, xây dựng chế độ xã hội văn minh, tiến bộ; nhưng
giai cấp cơng nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi tự
nó thành lập ra được chính Đảng độc lập của giai cấp cơng nhân và đối lập
với các kiểu chính Đảng tư sản khác.

Theo Mác và Ăngghen, cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân phát
triển đến một trình độ nhất định thì cần có một tổ chức để tập hợp, lãnh đạo
cuộc đấu tranh, tổ chức đó là Đảng. Sự ra đời của Đảng cộng sản là nhằm
thống nhất và lãnh đạo lực lượng đấu tranh, bảo đảm sức mạnh có tổ chức để
chiến thắng. Đảng ra đời là đòi hỏi tất yếu của lịch sử, là sản phẩm của cuộc
đấu tranh giai cấp. Đảng là một tổ chức chặt chẽ nhất, thống nhất cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được bầu cử một
cách dân chủ và họ có thể bị bãi miễn nếu khơng hồn thành được nhiệm vụ
tổ chức giao. Mọi thành viên trong Đảng đều được bình đẳng, tự do thảo luận
những vấn đề sinh hoạt, tranh luận trong khn khổ tổ chức.
Khi xác định vai trị của tổ chức cơ sở đảng trong hệ thống tổ chức bộ
máy của Đảng, Mác và Ăngghen viết: Nhiều chi bộ cơ sở hợp thành một công
xã gồm từ ba đến hai mươi thành viên, đó là "hạt nhân " của cơng tác chính
6


trị của Đảng trong quần chúng lao động. Đảng phải “ Biến mỗi chi bộ của
mình thành trung tâm và hạt nhân của các Đội liên hiệp công nhân, trong đó,
lập trường và lợi ích của giai cấp vơ sản có thể đưa ra thảo luận độc lập với
những ảnh hưởng tư sản”

[3,398]

Trên cơ sở những tư tưởng của C.Mác và Ph-Ăngghen, trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội và lãnh đạo xây dựng Đảng Bơn sê vích Nga,
V.I.Lênin đã đưa ra thuật ngữ tổ chức cơ sở đảng lần đầu tiên tại Đại hội III.
Đảng Công nhân dân chủ- xã hội Nga. V.I. Lê nên viết “Mỗi tổ chức đảng
cho tới chi bộ công nhân cơ sở của Đảng phải được xác định thành phần và
nhất định phải ổn định những mối liên hệ đều đặn với Trung ương” [21,217]
Tiếp đó, trong bài tiến tới thống nhất, Lênin lại nói rõ thêm: Những

điều kiện khách quan địi hỏi rằng: Những chi bộ công nhân phải làm cơ sở
của Đảng. V.I.Lê nin đã khẳng định: Đảng cộng sản là đội tiên phong về
chính trị có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp cơng nhân, tính tiên phong
về chính trị thể hiện ở chỗ Đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học và
cách mạng của Chủ nghĩa Mác- nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của Đảng.Tính chặt chẽ về tổ chức được đảm bảo bằng sự phục tùng
nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh
hoạt của Đảng.
Lê nin cho rằng : "Chế độ tập trung dân chủ một mặt thật khác xa với
chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa và mặt khác thật khác xa chủ nghĩa vơ
chính phủ" [22,232-233] . Đây là một ngun tắc tổ chức và hoạt động đem lại
sức mạnh cho Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh lật đổ xã hội cũ và xây
dựng Đảng xã hội mới, bảo đảm sự thống nhất từ Ban chấp hành Trung ương
đến từng chi bộ và mỗi đảng viên. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản để phân
biệt chính Đảng Cộng sản chân chính với các kiểu chính Đảng cơ hội, cải
lương, vơ chính phủ .
Trong cuộc đấu tranh để xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân V.I. Lê nin hết sức coi trọng chăm lo xây dựng các tiểu tổ công nhân
7


dân chủ - xã hội, phát triển những tiểu tổ đó trở thành những chi bộ cơ sở
trong các nhà máy, công xưởng, khu dân cư của Đảng Bôn Sê Vích Nga. Khi
cách mạng thắng lợi. Đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của
Đảng cầm quyền, tổ chức cơ sở Đảng không ngừng tăng lên về số lượng và đa
dạng về nội dung hoạt động, V.I. Lê nin xác định rõ hơn vai trò của các tổ
chức cơ sở đảng, Người nhấn mạnh: “Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với
nhau và với Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải
làm công tác cổ động, tun truyền, cơng tác tổ chức, phải thích nghi với mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng

lao động. Những chi bộ ấy phải thông qua công tác mn hình mn vẻ đó
mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng lao động
một cách có hệ thống để lãnh đạo và qua đó rèn luyện bản thân Đảng”
[22,232-233]

Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của mỗi tổ chức Đảng ở cơ sở là hai mặt của một vấn
đề. Một mặt, Lê nin phê phán gay gắt những biểu hiện tự do, cục bộ, tuỳ tiện
ở từng tổ chức đảng địa phương và cơ sở, là nguy cơ phá vỡ tính tập trung
thống nhất của tổ chức Đảng và Nhà nước Xô viết. Người viết : “Tôi cần
vạch rõ cái xu hướng không thể chối cãi được nhằm bênh vực chế độ tự
trị,chống lại chế độ tập trung, là một đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ
nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức” [21,466]. Vì vậy phải đem hết sức lực
để phát huy một tính chủ động lớn hơn ở cơ sở. Khi cách mạng chuyển từ
thực hiện "chính sách cộng sản thời chiến " sang "chính sách kinh tế mới " là
một bước đột phá lớn trong tư duy nhận thức của Đảng cầm quyền lãnh đạo
kinh tế, V.I.Lênin cho rằng, trách nhiệm đó khơng chỉ của Ban chấp hành
Trung ương mà của từng tổ chức cơ sở đảng và mỗi đảng viên. Chỉ tiêu cơ sở
tăng cường vai trị lãnh đạo, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì
những nhiệm vụ của Đảng Bơn sê vích và chính quyền Xơ viết mới thành
cơng.
8


Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản
Việt Nam, đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn tám mươi năm qua, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã giương cao ngọn cờ cách mạng đấu tranh kiên cường, vượt qua
mọi khó khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại. Mỗi chặng đường
cách mạng đều gắn liền với tên tuổi, tư tưởng và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Người đã sáng lập và rèn luyện, xây dựng chính Đảng cách mạng
kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam; với sứ mệnh lịch sử vĩ đại là lãnh
đạo dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Người
đã suốt đời chăm lo xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng, quan tâm xây dựng
các tổ chức cơ sở Đảng. Khi nói chuyện ở các lớp huấn luyện Đảng viên mới,
Người thường căn dặn: "Để hoạt động cách mạng, thực hiện nhiệm vụ đường
lối của Đảng, mỗi Đảng viên phải hoạt động trong một tổ chức cơ sở của
Đảng, cho nên các cô, các chú phải hiểu rõ vai trò và nhiệm vụ của chi bộ,
cố gắng góp phần của mình vào việc xây dựng chi bộ "bốn tốt". Phải hiểu
về quyền hạn nhiệm vụ của mình đối với Đảng, khơng đi theo đường lối
quần chúng của Đảng thì sẽ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng" [36,159-137]. Người còn chỉ rõ: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải
mạnh, Đảng mạnh là do có nhiều chi bộ tốt, chi bộ tốt là do nhiều đảng
viên tốt" [36,159-137]
Chủ tịch Cay-Xỏn-Phôm-Vi-Hẳn đã hết sức quan tâm đến việc tổ chức
giáo dục-tuyên huấn lãn đạo tư tưởng theo hệ thống trên cơ sở quán triệt CN
Mác - Lê Nin, đường lối chính trị của Đảng thống nhất về tư tưởng và hành
động như:
“ Nơi nào có chi bộ mạnh, đồn kết đơng đảo nền chính trị, kinh tế, xã
hội ở nơi đó cũng phát triển, tiến bộ, nơi nào quan tâm với đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội ở cơ sở,xóa đói, giám nghèo, sự kém phát triển từng
bước là nơi đó được xây dựng chi bộ vững mạnh- biết lãnh đạo toàn diện

9


ngày càng nhiều lên, kiềm chế và xóa được khu vực trắng mà khơng có cơ sở
chi bộ hoặc chỉ có một chi bộ độc và đảng viên yếu kém mất đi ”
[26,422- 423]


Trong công tác xây dựng Đảng Chủ tịch Cay-xỏn-Phơm-Vi-Hẳn đã
nói: “ Xây dựng và phát triển đảng cần phải chú trong xây dựng về mặt số
lượng và chất lượng ở đây lấy chất lượng là gốc lấy xây dựng đảng gắn với
nhiệm vụ chính trị, với nhu cầu đòi hỏi của thời đại mới là nhiệm vụ có tính
quy luật khách quan của Đảng cầm quyền” [26,422 - 423]. Bởi vì sứ mệnh phát
triển Tổ quốc, kinh tế - xã hội ngày càng tiến bộ và phát triển, nó đói hỏi
Đảng cầm quyền tồn xã hội cần phải kiện tồn Đảng vững mạnh tồn diện có
nghĩa là xây dựng đảng là xây dựng cán bộ đảng viên, nhất là cơ sở chi bộ
đảng, tổ đảng và đảng viên ở mọi lãnh vực ngành nghề, tổ chức xã hội, cơ sở
sản xuất, dịch vụ, thương mại, du lịch, nhà xưởng xí nghiệp, bệnh viện, cơng
ty cả bên nhà nước và tư nhân mà tập trung quần chúng người lao động, mỗi
khu, mỗi làng xóm ln phải có chi bộ, tổ đảng và đảng viên trong sạch vững
mạnh và quan tâm xây dựng đội ngũ người mới đang dự nguồn sẽ thay thế và
kế thừa mà trung thành với mình. Đảng ta mới có thể thành cơng sứ mệnh lịch
sử có danh dự của mình trong lãnh đạo đất nước và xã hội Lào tiến tiên theo
hướng CNXH mà Đảng và Chủ tịch Cay- xỏn-Phơm-Vi-Hẳn kính u đã
xây dựng nền tảng để lại.
1.3. Quan điểm của Đảng nhân dân cách mạng Lào về TCCSĐ và tổ chức
cơ sở đảng nông thôn
Sau thắng lợi lịch sử của quốc gia Lào vào ngày 02 tháng 12 năm 1975
đất nước Lào đã thiết lập Nước CHDCND Lào. “Đảng trở thành là người
cầm quyền và tiếp tục lãnh đạo cách mạng Lào tiến lên CNXH. Suốt quá trình
lãnh đạo của mình, Đảng lấy việc xây dựng chi bộ vững mạnh- biết lãnh đạo
toàn diện gắn liền với xây dựng thôn bản, gắn với cụm bản chiến đấu liên tục,
xây dựng bản lơn, cụm bản phát triển. Chính vì thế, Đảng mới làm trịn

10


nhiệm vụ rất là danh dự vẻ vang trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất

nước, giữ được độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ” [24,144]
Trong sự nghiệp đổi mới, do thấy được vai trò quan trọng của TCCSĐ
trong sự tăng cường vai trò và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới.
Đảng đã nhấn mạnh: TCCSĐ là nền tảng của Đảng và là yếu tố quyết định sự
lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng NDCM Lào đã
đánh giá: “ Khâu yếu kém nhất là trong hệ thống TCCSĐ là TCCSĐ nông
thôn, do nhiều tỉnh, nhiều địa phương xem nhẹ, bỏ qua không quan tâm đến
việc xây dựng cơ sở đảng.” [38, 50]. Vì vậy, việc tập trung chỉnh đốn TCCSĐ là
vấn đề cần thiết lấy TCCSĐ thành nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa quyết
định phương hướng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài và chủ
yếu của Đảng mà các Nghị quyết của Đại hội lần thứ VII của Đảng NDCM
Lào luôn khẳng định: “Để làm cho hệ thống tổ chức Đảng NDCM Lào có sự
đông đảo, vững mạnh, tất yếu cần phải xây dựng cơ sở của đảng cho đông
đảo. Trong thời gian tới phải tiếp tục xây dựng chi bộ vững mạnh- biết lãnh
đạo toàn diện coi trọng việc này gắn với lấy huyện thành đơn vị kế hoạch, lấy
bản thành đơn vị tổ chức thực hiện trực tiếp. Như vậy, cấp ủy các cấp cần
phải có kế hoạch cụ thể về việc củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của
chi bộ đảng. Chú trọng chính đốn chi bộ ở vùng nông thôn và cơ sở sản xuất
gắn với xây dựng và phát triển đảng, làm cho chi bộ thành nòng cốt lãnh đạo
các phong trào ở cơ sở.” [11]. TCCSĐ là sự tập trung trí tuệ của tập thể, sự
nguyên vọng của quần chúng, của nhân dân cho Đảng để nghiên cứu và đổi
mới, củng cố đường lối của Đảng cho hồn thiện hơn cũ.
Đảng coi trọng cơng tác xây dựng Đảng và nhấn mạnh tiếp tục xây
dựng cơ sở đảng có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thường xun để tiến
hành vai trị làm chủ chốt chính trong hệ thống chính trị, nhằm tăng cường sự
gương mẫu lãnh đạo của đảng viên trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ công
tác, trong sinh hoạt đời sống trong sạch, quan tâm nắm vững cán bộ và
nghiêm túc thực hiện Điều lệ Đảng thường xuyên; đồng thời chú trong kiện
11



toàn TCCSĐ và cải thiện phương thức lãnh đạo của Đảng ở nông thôn cho
phù hợp với điều kiện mới. Trong đó, trước hết phải quan tâm chỉnh đốn chi
bộ (TSVM), thực hiện nguyên tắc dân chủ minh bạch, tăng cương sự gần gũi,
mật thiết với Nhân dân các bộ tộc Lào, các tầng lớp cho đông đảo. Nghĩa là
xây dựng sức mạnh lãnh đạo của Đảng, cấp ủy vững mạnh, chi bộ cũng sẽ
vững mạnh; nếu cấp ủy, chi bộ hoặc tổ đảng yếu kém thì sẽ làm cho vai trị
lãnh đạo của khơng được ủng hộ, cấp ủy sẽ yếu.Trong Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 8) trước Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ IX (năm 2011), đối với việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng, xây
dựng đảng trong sạch, đông đảo và vững mạnh. Thực tiễn đã chứng minh: sự
lãnh đạo của đảng là yếu tố quyết định sự thành công và thắng lợi của cách
mạng ở Lào. Song vào trong điều kiện mới đây, trước sự chuyển biến nhanh
chóng của tình hình mà có cả cơ hội thử thách và phát triển đông đảo hay
không cũng như xây dựng đất nước theo hướng XHCN sẽ thành cơng hay
khơng đó phải dựa vào Đảng NDCM Lào ủng hộ vai trò và năng lực lãnh đạo
được theo kịp với nhu cầu địi hỏi của tình hình chung cũng như sự phát triển
hay khơng, có khả năng làm lực lượng tiên tiến của Tổ quốc hay khơng? Điều
đó chỉ ra rằng: Cơng tác xây dựng Đảng là sự nghiệp to lớn, có ý nghĩa đến
sống chết với sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước Lào chúng ta. Nó cịn
nhấn mạnh về công tác xây dựng đảng đặc biệt là việc tăng cường xây dựng
cơ sở đảng cho vững mạnh, chú trọng giáo dục tuyên huấn tư tưởng chính trị
và theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác cũng như trong
đời sống, rèn luyện đạo đức của đảng viên cho đông đảo và sâu sát; thực hiện
chế độ đánh giá phân loại cán bộ, đảng viên cho thường xuyên, tự phê bình và
phê bình lẫn nhau một cách mạnh dạn. Nghiên cứu đề ra quy định và cơ chế
về động viên quần chúng tham gia vào trong việc theo dõi, kiểm tra và đóng
góp ý kiến với đảng viên và có biện pháp phù hợp và kịp thời đưa ra khỏi
đảng đối với người bị suy thoái về phẩm chất đạo đức, tuyệt đối thực hiện
về công tác phát triển đảng lấy chất lượng là gốc, làm cho đội ngũ của đảng

12


gồm có người trẻ trung và có trình độ kiến thức, khả năng xuất sắc từ các
phong trào ngày càng nhiều.
- Tiếp tục chỉnh đốn cơ sở đảng vững mạnh bằng việc lấy xây dựng chi
bộ vững mạnh biết lãnh đạo tồn diện (VMTD) là cơng việc chủ yếu, làm cho
mọi cơ sở đảng có khả năng tập trung và phát triển sức mạnh của mình, trong
đó gồm cả các tổ chức mà dưới sự lãnh đạo của cơ sở đảng đó vào làm trịn
nhiệm vụ chính trị mà được giao cho, đồng thời chủ động đấu tranh chống
chủ nghỉa cá nhân, tham nhũng, các hiện tượng tiêu cực khác.Muốn làm được
điều đó, mọi cơ sở đảng phải chú trọng làm cơng tác giáo dục- tun huấn về
tư tưởng chính trị, quản lý về việc thực hiện nhiệm vụ công tác cũng như
trong cuộc sống, rèn luyện phẩm chất đạo đức cư đảng viên cho đông đảo và
sâu sát, thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình lẫn nhau một cách
nghiệm túc.Một mặt khác cái quan trọng là phải chủ động củng cố hoàn thiện
các quy chế, luật lệ về việc xây dựng TCCSĐ cho cụ thể và rõ nét hơn, nhất
là phải có quy định về vị trí, vai trị và nhiệm vụ của cơ sở đảng từng các loại,
đặc biệt là đối với cơ sở đảng ở cụm bản phát triển, ở các kinh tế tư nhân và
các đơn vị đầu tư nước ngoài. Nhằm xây dựng cơ sở đảng ở mọi lĩnh vực vụ
việc, mọi thành phần kinh tế và mọi vùng lãnh thổ của nước Lào, nhất là ở
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa cho vững mạnh, đông đảo. Chủ động giải
quyết các luật lệ về TCCSĐ cho cụ thể và rõ nét thêm nữa nhằm xây đựng cơ
sở đảng chiếm mọi lĩnh vưc công việc, ở mọi thành phần kinh tế và mọi khu
vực nước Lào ln có sự đơng đảo vững mạnh. Trước mặt đây phải tập trung
chỉ đạo vào trong việc củng cố và giải quyết các cơ sở đảng còn yếu kém cho
sâu sát hơn để xây dựng sự biến đổi nổi bật.
- Chi bộ mạnh hay yếu, công tác của chi bộ tốt hay xấu ảnh hưởng trực
tiếp đến việc cải tạo nông thôn.
Ra đời và trưởng thành ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông thôn

chiếm đa số trong dân cư, Đảng Nhân dân cách mạng Lào quan tâm đến vấn
đề nông dân. Các tổ chức cơ sở đảng nơng thơn giữ vị trí, vai trị đặc biệt
13


quan trọng trong suốt tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong
các thời kỳ cách mạng, tổ chức cở sở Đảng nơng thơn ln giữ vai trị lãnh
đạo quần chúng, chủ động trong việc lôi cuốn và phát động quần chúng thực
hiện đường lối giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần
vào việc xây dựng nông thôn ngày càng vững mạnh.
Tổ chức cơ sở Đảng nông thôn là nơi tiến hành mọi hoạt động xây
dựng nội bộ Đảng trên địa bàn nông thôn. Tổ chức cơ sở Đảng nông thôn là là
người đại diện cho lập trường giai cấp công nhân ở nơng thơn, hạt nhân của
khối đồn kết trong nơng dân và là khối liên minh cơng - nơng

- trí

ở nơng thôn, là đơn vị chiến đấu cơ bản, tế bào của Đảng trên mặt trận nông
nghiệp và nông thôn mới.
- Tổ chức cơ sở Đảng nông thôn là “gốc rễ của Đảng” trong nông dân,
là cầu nối liền giữa Đảng với nông dân và nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện
vọng của họ phản ảnh với Đảng để Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính
sách phù hợp với nơng dân, nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời tổ chức cơ sở
Đảng nơng thơn cịn là nơi kiểm nghiệm, bổ sung, hồn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng.
1.4. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn hiện
nay
1.4.1 Nông thôn Lào
CHDCND Lào là địa bàn rộng lớn, có đơng đồng bào các bộ tộc khác
nhau sinh sống trong đó có một phần khơng nhỏ cịn sống theo phương thức

du canh du cư.
Nơng thơn là nơi dân cư sinh sống ổn định ở những khu vực ngồi hoặc
cách xa thành phố, cư dân đó là tập hợp số người trong xã hội sinh sống, làm ăn
chủ yếu là dựa trên sản xuất nông nghiệp lấy gia đình làm đơn vị cơ bản của xã
hội tập hợp nhau thành bản làng, đó là đơn vị cộng đồng dân cư nông thôn
[37 ,23 ]

14


Nhân dân các bộ tộc Lào ở nông thôn là những cư dân nông nghiệp truyền
thống lâu đời trải qua nhiều thế kỷ, nguồn sống chính vẫn dựa vào trồng trọt kết
hợp với săn bắn hái lượm - di sản của nền kinh tế tự nhiên, nửa tự nhiên. Các
ngành kinh tế khác như chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp tồn tại như là nghề phụ
của gia đình nơng dân nông thôn phục vụ trồng trọt và cải thiện một phần đời
sống của họ.
Hiện nay ở nơng thơn đang có bước chuyển tích cực, nhân dân các bộ
tộc miền núi biết khai hoang các thung lũng và các sườn dốc làm ruộng, biết
chọn loại cây trồng, chọn giống và cách làm thuỷ lợi. trình độ kỹ thuật làm
canh tác trong các ngành nông, lâm nghiệp, đặc biệt trên đất dốc đã được
nâng lên rõ rệt. Đối với vùng đồng bằng có một số gia đình đã trang bị máy
kéo cỡ nhỏ. Nhiều vùng trang bị phổ biến công cụ cải tiến, máy bơm nước, bơm thuốc trừ sâu. Vì vậy năng suất cây trồng ở nhiều nơi đã được nâng cao rõ
rệt.
1.4.2. Quan niệm về năng lực, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng NDCM Lào, cùng với
đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán
bộ đảng viên, xây dựng, củng cố và bảo vệ Đảng là cho Đảng luôn trong sạch,
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.
- Về năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng

Năng lực lãnh đạo là năng lực nắm bắt thực tiễn, nhận thức quy luật
vận động của sự vật hiện tượng, trên cơ sở đó đề ra chủ trương, đường lối,
chính sách sáng tạo, phù hợp với hiện tượng khách quan, năng lực tổ chức
thực hiện đường lối của Đảng, năng lực kiểm tra để phát hiện đúng sai trên cơ
sở đó tiếp tục bổ sung, hồn thiện đường lối, chính sách.
Năng lực lãnh đạo là tổng hợp hai mặt đức và tài của người lãnh đạo
với hai yếu tố: Năng lực hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện, nhằm đảm
bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao. Lê Nin nói "Muốn quản lý được tốt, thì
15


ngồi các tài thuyết phục cịn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn,
đó là nhiệm vụ khó khăn nhất". Đó là khả năng vận dụng những tri thức đã
tích được để cải tạo thế giới, phục vụ mục đích của con người, biến tri thức
khoa học thành hiện thực, đó cũng là yếu tố thể hiện năng lực lãnh đạo.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, trước hết là khả năng vận
dụng, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước, của cấp trên vào thực tế của địa phương, đơn vị. Để định ra nhiệm
vụ chính trị cho địa phương, đơn vị và tổ chức, cán bộ, đảng viên, quần chúng
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng còn thể hiện ở quá trình tổ
chức, vận động, tập hợp quần chúng nhân dân đoàn kết xung quanh Đảng để
thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng.
Vậy năng lực lãnh đạo của Đảng nói chung của các tổ chức cơ sở đảng
nói riêng phụ thuộc và nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hàng đầu là yếu tố
con người.
Tổ chức cơ sở đảng được hình thành từ những đảng viên, năng lực lãnh
đạo của từng đảng viên nằm trong tổ chức đó. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng chính là nâng cao năng lực trí tuệ, năng lực tổ
chức thực tiễn của đội ngũ đảng viên.

- Sức chiến đấu của cơ sở đảng
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trước hết được
thể hiện ở tổ chức cơ sở của đảng, ở từng cán bộ đảng viên của Đảng.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được thể hiện ở sự thống nhất
giữa ý chí và hành động trong đảng bộ, chi bộ, thể hiện ở chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, thể hiện ở phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng và
giữ gìn khối đồn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công
nhân của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của khối đại đồn kết tồn Đảng,
tồn dân Việt Nam. Sinh thời, Người ln quan tâm đặc biệt đến việc giáo
16


dục đội ngũ cán bộ, đảng viên xây dựng và giữ gìn sự đồn kết thống nhất, coi
đồn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cịn là tính tổ chức chặt chẽ, kỷ
luật nghiêm minh. Bác Hồ đã dạy "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến
hành thì như một người" [16,11]. Còn là tinh thần tiên phong gương mẫu, nói
đi đơi với làm của từng cán bộ, đảng viên.
Tóm lại: Sức chiến đấu của Đảng là sự đồn kết, thống nhất về ý chí và
hành động, thống nhất về chính trị tư tưởng, tổ chức trong Đảng dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự gắn bó mật thiết giữa
Đảng với quần chúng nhân dân lao động, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong xây dựng và hoạt động của Đảng, lấy tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng.
Sức mạnh của tổ chức cơ sở đảng là sự kết hợp biện chứng giữa năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng: năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là hai mặt của một vấn đề thống nhất trong
cơng tác xây dựng Đảng, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động, thúc đẩy
qua lại lẫn nhau. Năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng cao bao nhiêu thì

sức chiến đấu của Đảng càng được củng cố và tăng cường bấy nhiêu.
1.4.3. Nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
nông thôn hiện nay là một tất yếu khách quan trong tình hình hiện nay
Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là nâng cao năng
lực cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, Nghị quyết, chỉ thị của cấp trên theo chương trình, kế hoạch, Nghị
quyết, biện pháp cụ thể trên tinh thần chủ động, sáng tạo phù hợp với tình
hình, đặc điểm của cơ sở và để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nâng cao năng
lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện, năng lực đánh giá, tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm để điều chỉnh, bổ sung Nghị quyết cho phù hợp, tạo sự thống nhất cao
trong nhận thức và hành động của Đảng bộ, chi bộ; năng lực lãnh đạo Mặt
trận và các tổ chức đoàn thể nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật
17


thiết giữa Đảng với nhân dân, huy động và tổng hợp các tổ chức trơng hệ
thống chính trị và nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và
cấp mình.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở đảng là làm cho mỗi cán
bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy Đảng phải có ý chí phấn đấu vươn lên,
quyết tâm hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, thường xuyên rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống. Thường xuyên tự phê bình và phê bình trên tinh
thần thẳng thắn; xây dựng, không nể nang, né tranh, kiên quyết đấu tranh với
những hiện tượng tiêu cực, ngay trong bản thân từng đảng viên, từng chi bộ,
Đảng bộ, cấp ủy trong cơ quan địa phương nơi mình sinh hoạt, cơng tác ở
trong Đảng và ngoài xã hội, dũng cảm đấu tranh chống lại các quan điểm sai
trái, lệch lạc, các luận điệu xuyên tác của kẻ thù, xây nội bộ Đảng thật sự
đoàn kết thống nhất cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Có mối quan hệ gắn
bó mật thiết với nhân dân được nhân dân tín nhiệm.

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Nâng cao năng lực lãnh đạo
là nhằm làm cho sức chiến đấu của Đảng cao hơn và ngược lại. Vì vậy, nâng
cao năng lực lãnh đạo đồng thời phải nâng cao sức chiến đấu, không được
xem nhẹ hoặc tuyệt đối một mặt nào.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là
nhiệm vụ cấp thiết của Đảng hiện nay, đối với các tổ chức cơ sở đảng ở nông
thôn lại cùng đặc biệt quan trọng. Bởi vì:
Đất nước Lào, trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, gần 80%
dân số sống ở nơng thơn, thì sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa càng
khó khăn và phức tạp. Vì vậy, tất cả phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nói chung và tổ chức cơ sở đảng nông thôn
cho ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ mới ngày càng cao hơn.

18


Các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để chống phá đất nước Lào 
diễn biến hịa bình.  bạo loạn lật đổ làm cho nội bộ mất đoàn kết, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng NDCM Lào.
Ở nông thôn, các tổ chức cơ sở đảng phải lãnh đạo ở địa bàn khơng
giống nhau; Dân cư đơng, trình độ mọi mặt còn thấp còn nhiều thủ tục lạc
hậu, nhiều thành phần kinh tế nhưng lại thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, khó
khăn về thị trường, tư tưởng sản xuất nhỏ lẻ, hẹp hịi ích kỷ, cơ sở hạ tầng
nông thôn thấp kém. Đội ngũ cán bộ, đảng viên khơng đồng điều về độ tuổi,
trình năng lực và sức chiến đấu cịn nhiều hạn chế.
Cùng với việc coi nơng nghiệp là mặt trận quan trọng hàng đầu, Đảng
Nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
đảng nông thôn là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở

đảng ở khu vực nông thôn là nhiệm vụ tất yếu và cấp bách, cần được coi trọng
đúng mức, kịp thời.

Chương 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
19


TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG NÔNG THÔN HUYỆN SÊ PÔN
TỈNH SA VĂN NA KHỆT HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Sê Pôn, Tỉnh Sa Văn
Na Khệt
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Huyện Sê Pôn cách xa trung tâm thị trấn Sa Văn Na Khệt về phía Tây
đường 9 Nam lào 200 Km, có diện tích 230.875 km2, có dân số 51.779
người, nữ 25.421 người. Có biên giới giáp với 03 huyện của Lào và một
huyện của Việt Nam như: phía Bắc giáp với huyện ViLaBuLy, phía Nam giáp
với huyện Noong, phía Tây giáp với huyện Phin và phía Đơng giáp với
huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị nước CHXHCN VIỆT NAM.
Huyện Sê Pôn là một địa bàn miền núi được xếp là một trong 4 huyện
miền núi của tỉnh và là một số huyện nghèo toàn nước. Người dân Sê pơn có
truyền thống cần cù và anh hùng trong cuộc đấu tranh cứu nước. Huyện vừa
là nơi căn cứ cách mạng trong thời kỳ giải phóng đất nước ở tỉnh Sa Văn Na
Khệt, vừa là nơi rèn luyện thử thách cho cán bộ, chiến sĩ trong thời làm cách
mạng giải phóng dân tộc chống thực dân và đế quốc xâm lược kiểu cũ và kiểu
mới. Nói chung đội ngũ cán bộ và nhân dân hầu hết là có tình u nước, u
q hương và u chế độ mới, có truyền thống đồn kết thống nhất và có sự
quyết tâm cao trong sự nghiệp giữ vệ và xây dựng phát triển đất nước.
Khí hậu huyện Sê Pơn được hình thành từ một nền nhiệt cao của đới
chí tuyến và sự thay thế của các hoàn lưu lớn theo mùa kết hợp với hoàn cảnh

địa lý cụ thể làm nên khí hậu nóng ẩm, mưa theo mùa, có ít đơng lạnh phần
lớn là nóng.
Sê Pơn là một địa bàn có nhiều tiềm năng về tự nhiên phong phú, đa
dạng đặc biệt là có tài ngun về rừng, khống sản, lâm sản chưa khai thác.
Sê Pơn có nhiều rừng. Trong địa giới, lãnh thổ Sê Pơn có nhiều dầu mỏ như:
mỏ vàng,mỏ ….. Ngồi ra cịn có nhiều đồi núi, sông suối chảy qua như: sông
20



×