Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Phân tích kỹ năng kiểm sát thực hiện chế độ đối với phạm nhân của viện kiểm sát nhân dân nêu những hạn chế tồn tại và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.33 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án
hình sự và có ý nghĩa vơ cùng quan trọng bởi cả q trình giải quyết một vụ án
được thể hiện thơng qua bản án, quyết định của Tòa án và sẽ khơng có ý nghĩa
nếu khơng được đem thi hành trên thực tế. Bản án, quyết định của Tịa án nếu
khơng được thi hành trên thực tế không những không đảm bảo quyền uy của
Nhà nước mà còn phương hại đến quyền và lợi ích của cơng dân. Tuy nhiên việc
thi hành án hình sự cũng ln ln phải tn theo các quy định của pháp luật,
công tác kiểm sát thi hành án hình sự ra đời là để đáp ứng sự cần thiết cho việc
giám sát hoạt động của Cơ quan thi hành án hình sự và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác có liên quan đến nhiệm vụ thi hành án hình sự thực hiện hoạt động
tuân thủ quy định của pháp luật.
Với đề tài mà nhóm nhận được: “Phân tích kỹ năng kiểm sát thực hiện
chế độ đối với phạm nhân của Viện Kiểm sát nhân dân. Nêu những hạn chế
tồn tại và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác này”. Nhóm xin
phân tích các vấn đề liên quan đến các kỹ năng kiểm sát thực hiện chế độ phạm
nhân trong thi hành án hình sự. Đồng thời đánh giá những hạn chế cịn tồn tại
khi thực hiện cơng tác từ đó đề ra một số giải pháp để góp phần hồn thiện hơn
kỹ năng của Kiểm sát viên và nâng cao hiệu quả trong công tác kiểm sát này.


NỘI DUNG
I. Một số khái niệm liên quan
1. Kiểm sát thi hành án phạt tù
Căn cứ khoản 3 Điều 3 Luật thi hành án hình sự 2010: “Thi hành án phạt
tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc phạm
nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có
ích cho xã hội.” Do đó kiểm sát thi hành án phạt tù là việc mà Viện Kiểm sát
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong cơng tác thi hành án phạt
tù. Do đó Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ
quan thi hành án hình sự, Trại giam và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có


nhiệm vụ thi hành án phạt tù khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
2. Kiểm sát thực hiện chế độ đối với phạm nhân.
Kiểm sát thực hiện chế độ đối với phạm nhân là công tác thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp
luật Thi hành án hình sự, các luật khác có liên quan quy định về thực hiện chế
độ đối với người bị chịu án phạt tù có thời hạn, tù chung thân của cơ quan Thi
hành án hình sự, bao gồm: chế độ ăn, ở, mặc, thể dục, thể thao, văn hóa văn
nghệ, liên lạc, học tập, thăm gặp thân nhân, chăm sóc y tế,....
II. Kỹ năng kiểm sát việc thực hiện các chế độ của phạm nhân
1. Kiểm sát việc thực hiện chế độ ăn, ở, mặc và tư trang của phạm nhân

 Thứ nhất, Kiểm sát viên phải kiểm sát sự tuân theo pháp luật về việc
thực hiện chế độ ăn của phạm nhân:
Chế độ ăn của phạm nhân được quy định tại Điều 42, 52 Luật thi hành án
hình sự và Điều 8 Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA quy định về tố chức
quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm
nhân. Cụ thể như sau:
Phạm nhân được Nhà nước bảo đảm tiêu chuẩn định lượng mỗi tháng:
17kg gạo tẻ thường; 0,7kg thịt, 0,8kg cá; 0,5kg đường loại trung bình; 01kg
muối; 15kg rau xanh; 0,75 lít nước mắm; 0,1kg bột ngọt; chất đốt tương đương
Nhóm 3 – Lớp K4G |

1


17kg củi hoặc 15kg than. Ngày Tết Nguyên đán (bao gồm 01 ngày cuối năm và
03 ngày đầu năm âm lịch), ngày Tết Dương lịch (ngày 01 tháng 01), ngày Giỗ tổ
Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 âm lịch), các ngày lễ: 30 tháng 4, 01 tháng 5, 02
tháng 9, phạm nhân được ăn gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.
Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy định của pháp

luật, định lượng có thể được tăng thêm 15% so với tiêu chuẩn định lượng nêu
trên.
Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
hình sự Cơng an cấp huyện có thể quyết định hốn đổi định lượng ăn nêu trên
cho phù hợp với thực tế để bảo đảm cho phạm nhân ăn hết tiêu chuẩn.
Ngoài tiêu chuẩn ăn quy định trên, phạm nhân được sử dụng quà, tiền của
mình để ăn thêm nhưng khơng được q ba lần định lượng trong 01 tháng cho
mỗi phạm nhân. Phạm nhân được bảo đảm ăn, uống vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Nghiêm cấm phạm nhân sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích khác.
Mỗi phân trại giam trong trại giam được tổ chức một hoặc một số bếp ăn
tập thể. Định mức dụng cụ cấp dưỡng của một bếp tập thể dùng cho 100 phạm
nhân gồm: 01 tủ đựng thức ăn có lưới hoặc kính che kín, 03 chảo to, 01 chảo
nhỏ, 01 nồi to dùng trong 5 năm; các loại dao, thớt, chậu rửa bát, rổ, rá, bát, đũa
dùng trong 01 năm và các dụng cụ cấp dưỡng cần thiết khác phục vụ việc nấu
ăn, đun nước uống và chia khẩu phần ăn cho phạm nhân.
Dụng cụ cấp dưỡng dùng cho mỗi mâm ăn của 6 phạm nhân bao gồm 01
lồng bàn, 01 xoong đựng cơm, 01 xoong đựng canh dùng trong 3 năm; 02 đĩa
thức ăn, 01 bát đựng nước chấm, 01 muôi múc cơm, canh dùng trong 01 năm.
Dụng cụ cấp dưỡng dùng cho 01 phạm nhân ăn riêng theo suất gồm 01 hộp
03 ngăn bằng nhựa chuyên dùng đựng đồ ăn cơm và 01 thìa ăn cơm bằng nhựa
dùng trong 02 năm.
Đối với phạm nhân ốm, bị bệnh thì chế độ ăn, nghỉ của phạm nhân do
Giám thị trại giam quyết định theo chỉ định của cơ sở y tế.
Đối với phạm nhân nữ trong thời gian mang thai, nghỉ sinh con hoặc đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ
Nhóm 3 – Lớp K4G |

2



định của y sĩ hoặc bác sĩ và được tăng thêm định lượng về thịt, cá từ 20% đến
30% so với định lượng theo quy định.
Đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng cha, mẹ
trong trại giam thì được hưởng chế độ ăn như đối với cha, mẹ; ngày 01 tháng 6,
tết Trung thu được hưởng chế độ ăn gấp 02 lần ngày thường. Căn cứ vào lứa
tuổi của trẻ và điều kiện thực tế, Giám thị trại giam có thể hốn đổi định lượng
chế độ ăn cho phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của trẻ em ở cùng cha, mẹ trong
trại giam.
Đối với phạm nhân là người nước ngoài, chế độ về ăn của phạm nhân được
thực hiện như quy định đối với phạm nhân là người Việt Nam, trừ trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.

 Thứ hai, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thực hiện chế độ ở của phạm
nhân:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật thi hành án hình sự, Điều 9 Văn
bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA quy định về tố chức quản lý phạm nhân và chế
độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân, thì những phạm nhân
sau phải được bố trí ở riêng: Phạm nhân là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt
nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời
gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy
chế trại giam. Các phạm nhân khác được bố trí  ở theo buồng giam tập thể.
Chỗ nằm tối thiểu của mỗi phạm nhân là 02 mét vng (2m 2), có bệ gạch
men, ván sàn hoặc giường. Đối với phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí
chỗ nằm tối thiểu là 03 mét vng (3m2), có bệ gạch men, ván sàn hoặc giường.
Đối với phạm nhân là người chưa thành niên, theo quy định tại Khoản 2
Điều 14 Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA, chỗ nằm tối thiểu là 03 mét
vng (3m2), có ván sàn hoặc giường.
Đối với phạm nhân là người nước ngoài, chế độ ở của phạm nhân được
thực hiện như quy định đối với phạm nhân là người Việt Nam, trừ trường hợp

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Nhóm 3 – Lớp K4G |

3


Phạm nhân phải ở trong buồng giam theo thời gian quy định và chỉ được ra
khỏi buồng giam theo nội quy trại giam hoặc khi có lệnh của Giám thị trại giam,
trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện.
Trước và sau khi phạm nhân ra, vào buồng giam, cán bộ, chiến sĩ được giao
trách nhiệm phải điểm danh, kiểm diện.
Cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trại giam và người khơng có nhiệm vụ không
được vào khu vực giam giữ, không được tiếp xúc với phạm nhân khi chưa được
phép của Giám thị trại giam.
Thứ ba, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thực hiện chế độ mặc và tư
trang đối với phạm nhân:
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thực hiện chế độ mặc và tư trang đối với
phạm nhân theo quy định tại Điều 43 Luật thi hành án hình sự và hướng dẫn
tại Điều 10 Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA quy định về tố chức quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân.
Mỗi năm phạm nhân được phát 02 bộ quần áo dài bằng vải thường theo
mẫu thống nhất, 02 bộ quần áo lót, 02 khăn mặt, 02 chiếc chiếu, 02 đơi dép, 01
mũ hoặc nón, 01 áo mưa nilơng; 03 bàn chải đánh răng; 600 g kem đánh răng
loại thông thường. Mỗi tháng phạm nhân được cấp 0,3 kg xà phòng giặt, phạm
nhân nữ được cấp thêm đồ dùng vệ sinh cá nhân cần thiết có giá trị tương đương
02 kg gạo tẻ thường. 04 năm phạm nhân được cấp 01 màn, 01 chăn; đối với
phạm nhân ở các trại giam từ thành phố Đà Nẵng trở vào được phát chăn sợi; từ
tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra được phát chăn bông không quá 02 kg và 01 áo ấm
dùng trong 03 năm.
Đối với phạm nhân tham gia lao động mỗi năm được phát 02 bộ quần áo

bảo hộ lao động và dụng cụ bảo hộ lao động cần thiết khác.
Đối với phạm nhân nữ trong thời gian mang thai, nghỉ sinh con hoặc đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi được cấp phát các đồ dùng cần thiết cho việc chăm
sóc trẻ sơ sinh. Phạm nhân nữ sinh con trong trại giam được cấp 07 mét vải
thường để làm tã lót. (Khoản 6 Điều 8 Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA)
Nhóm 3 – Lớp K4G |

4


Đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng cha, mẹ
trong trại giam, mỗi năm được cấp 02 khăn mặt, 02 kg xà phòng, 02 bộ quần áo
bằng vải thường, 01 màn; đối với trường hợp ở các trại giam từ tỉnh Thừa Thiên
Huế trở ra được cấp 01 bộ quần áo ấm, 01 chăn phù hợp với lứa tuổi (từ thành
phố Đà Nẵng trở vào cấp chăn sợi, từ tỉnh Thừa Thiên Huế trở ra cấp chăn bông
không quá 02 kg) dùng trong 03 năm.
Đối với phạm nhân chưa thành niên, ngoài tiêu chuẩn mặc và tư trang như
phạm nhân thành niên, mỗi năm phạm nhân là người chưa thành niên được cấp
thêm 01 bộ quần áo dài, 01 mũ cứng, 01 mũ vải; đối với các trại giam từ tỉnh
Thừa Thiên Huế trở ra, mỗi năm, phạm nhân là người chưa thành niên được cấp
thêm 01 áo ấm, 02 đôi tất và 01 mũ len. Mỗi quý phạm nhân là người chưa
thành niên được cấp thêm 01 lọ nước gội đầu 200 ml loại thông thường. Đối với
các trại giam từ thành phố Đà Nẵng trở vào, phạm nhân là người chưa thành
niên được cấp 01 chăn sợi dùng trong 02 năm. Đối với các trại giam từ tỉnh
Thừa Thiên Huế trở ra, phạm nhân là người chưa thành niên được cấp 01 chăn
bơng khơng q 02 kg, có vỏ dùng trong 02 năm.
Mẫu, màu quần áo và phương tiện bảo hộ lao động của phạm nhân do Bộ
trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.
Kiểm sát việc thực hiện chế độ ăn, ở, mặc và tư trang của phạm nhân thơng
qua hình thực trực tiếp kiểm sát là chủ yếu. Khi trực tiếp kiểm sát, Kiểm sát viên

yêu cầu cung cấp những các loại sổ sách, tài liệu có liên quan đến thực hiện các
chế độ ăn, ở, mặc và tư trang cửa phạm nhân như: các tài liệu liên quan đến cấp
phát và quyết đoán chế độ ăn, sổ theo dõi cấp phát công trang,…; trực tiếp kiểm
tra buồng giam, bếp ăn, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm hoặc trực tiếp gặp,
hỏi phạm nhân về việc thực hiện chế độ ăn… Qua đó, kiểm tra, đối chiếu các
quy định pháp luật, xem xét việc thực hiện chế độ ăn, ở, mặc và tư trang của cơ
quan có thẩm quyền đối với phạm nhân có đúng theo quy định của pháp luật hay
khơng? Ngồi ra, khi nắm được thông tin vi phạm trong việc thực hiện chế độ
ăn, ở, mặc và tư trang của phạm nhân mà khơng có điều kiện trực tiếp kiểm sát,
Nhóm 3 – Lớp K4G |

5


Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất Lãnh đạo Viên kiểm sát ban hành văn bản yêu
cầu cơ sở giam giữ tự kiểm tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát.
Khi phát hiện những vi phạm như: cơ sở giam giữ chưa bảo đảm diện tích
giam giữ, vệ sinh môi trường theo quy định; việc cấp phát công trang và như
yếu phẩm phục vụ sinh hoạt không đầy đủ như: mũ, nón, xà phịng, kem đánh
rang…; chế độ ăn ngày lễ, ngày Tết khơng đúng quy định,… thì Kiểm sát viên
báo cáo, đề xuất Lãnh đạo Viện kiểm sát ban hành văn bản kháng nghị, kiến
nghị yêu cầu các cơ quan khắc phục, chấm dứt vi phạm.
2. Kiểm sát việc thực hiện chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ của phạm nhân
Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện chế độ hoạt động thể dục, thể thao,
sinh hoạt văn hóa, văn nghệ đối với phạm nhân theo các quy định tại Điều 44 và
khoản 3 Điều 52 Luật thi hành án hình sự, Điều 12 Văn bản hợp nhất số
05/VBHN-BCA.
Phạm nhân được hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ,
đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi chấp

hành án. Mỗi phân trại của trại giam có thư viện, khu vui chơi, sân thể thao,
được trang bị một hệ thống truyền thanh nội bộ, mỗi buồng giam tập thể được
trang bị 01 ti vi. Mỗi phân trại trong trại giam, khu giam giữ phạm nhân trong
trại tạm giam được trang bị 01 hệ thống loa truyền thanh, 01 hệ thống truyền
hình cáp nội bộ; mỗi buồng giam tập thể dưới 30 phạm nhân được trang bị 01
máy vơ tuyến truyền hình màu có kích thước 21 inch trở lên; buồng giam từ trên
30 phạm nhân được trang bị 01 máy vô tuyến truyền hình màu có kích thước
màn hình từ 29 inch trở lên; 30 phạm nhân được phát 01 tờ báo Nhân Dân.
Thời gian hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, đọc
sách, báo, nghe đài, xem truyền hình của phạm nhân được thực hiện theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đối với phạm nhân chưa thành niên, thời gian và hình thức tổ chức các
hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hố, văn nghệ, nghe đài, đọc sách,
Nhóm 3 – Lớp K4G |

6


báo, xem truyền hình và các hình thức vui chơi giải trí khác phù hợp với đặc
điểm của người chưa thành niên.
Khi trực tiếp kiểm sát, Kiểm sát viên yêu cầu cung cấp những hồ sơ phạm
nhân có liên quan đến thực hiện chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ đối với phạm nhân như các hồ sơ của đội giáo dục liên quan
đến các kế hoạch tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ; kiểm tra, đối chiếu các quy định pháp luật, xem xét việc thực hiện chế độ
hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ đối với phạm nhân có
đúng theo quy định của pháp luật hay khơng? Ngồi ra, khi nắm được thông tin
vi phạm trong việc thực hiện chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn
hóa, văn nghệ đối với phạm nhân mà khơng có điều kiện trực tiếp kiểm sát,
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất Lãnh đạo Viên kiểm sát ban hành văn bản yêu

cầu cơ sở giam giữ tự kiểm tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát.
3. Kiểm sát việc thực hiện chế độ liên lạc của phạm nhân
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thực hiện chế độ liên lạc của phạm nhân
theo đúng quy định tại các điều 47, 53 Luật thi hành án hình sự và Thơng tư số
07/2018/TT-BCA quy định về việc phạm nhân gặp thân nhân, nhận, gửi thư,
nhận tiền, đồ vật và liên lạc điện thoại với thân nhân.
Phạm nhân được gửi mỗi tháng hai lá thư; trường hợp cấp bách thì được
gửi điện tín. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án hình sự Cơng an cấp huyện phải kiểm tra, kiểm duyệt thư, điện tín mà
phạm nhân gửi và nhận.
Phạm nhân được liên lạc điện thoại trong nước với thân nhân mỗi tháng
một lần, mỗi lần không quá 05 phút. Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam,
Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp huyện xem xét, quyết định
việc cho phạm nhân liên lạc bằng điện thoại và tổ chức kiểm sốt việc liên lạc
này.
Chi phí cho việc liên lạc do phạm nhân chi trả.

Nhóm 3 – Lớp K4G |

7


Đối với phạm nhân chưa thành niên, phạm nhân được liên lạc với thân
nhân qua điện thoại mỗi tháng không q bốn lần, mỗi lần khơng q 10 phút,
có sự giám sát của cán bộ trại giam và tự chịu chi phí.
Đối với phạm nhân chấp hành nghiêm chỉnh Nội quy của cơ sở giam giữ,
có thành tích trong lao động, học tập thì tăng thêm mỗi tháng 01 lần liên lạc điện
thoại với thân nhân.
Khi liên lạc điện thoại với thân nhân, phạm nhân phải liên lạc đúng số điện
thoại và nội dung đã đăng ký; sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, trừ phạm nhân là

người dân tộc thiểu số và là người nước ngồi khơng biết tiếng Việt. Trường
hợp khi phạm nhân có đề nghị cần phải trao đổi với thân nhân để giải quyết
những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì được liên lạc
với thân nhân theo các nội dung đã đăng ký.
Phạm nhân thường xuyên vi phạm Nội quy của cơ sở giam giữ bị giam
riêng; phạm nhân đang bị thi hành kỷ luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm,
Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình
sự Cơng an cấp huyện có thể hạn chế việc liên lạc điện thoại với thân nhân
nhưng không quá 03 tháng.
Phạm nhân đang có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm, đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử về những hành vi phạm tội
khác hoặc có liên quan đến những vụ án khác đang được xem xét, xử lý, thì
khơng được liên lạc điện thoại với thân nhân.
Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
hình sự Cơng an cấp huyện bố trí buồng gọi điện thoại có thiết bị giám sát và cử
cán bộ giám sát chặt chẽ nội dung trao đổi của phạm nhân với thân nhân khi liên
lạc điện thoại. Nếu phát hiện nội dung trao đổi khơng đúng với đăng ký thì phải
dừng cuộc gọi, trường hợp xét thấy cần thiết phải lập biên bản, đề xuất xử lý kỷ
luật.
Cán bộ giám sát phải có sổ theo dõi, cập nhật thơng tin về việc tổ chức cho
phạm nhân liên lạc điện thoại với thân nhân.
Nhóm 3 – Lớp K4G |

8


4. Kiểm sát việc thực hiện chế độ gặp thân nhân, nhận quà của phạm
nhân

 Thứ nhất, Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện chế độ gặp thân nhân:

Theo Điều 46 Luật Thi hành án hình sự 2010, phạm nhân được gặp thân
nhân một lần trong một tháng.
Để việc thực hiện chế độ gặp thân nhân đúng theo quy định của pháp luật,
khi tiến hành trực tiếp kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện các công tác sau:
Một là, cần kiểm tra nhà thăm gặp.
Nhà thăm gặp phải treo biển “Nhà thăm gặp”. Nhà thăm gặp phải được
trang bị những phương tiện, thiết bị, dụng cụ cần thiết phục vụ cho yêu cầu thăm
gặp và sinh hoạt của người đến thăm gặp, có tủ để tư trang của người đến gặp
phạm nhân, có hịm thư góp ý, Nội quy Nhà thăm gặp và danh mục đồ vật cấm
đưa vào trại giam để thân nhân và phạm nhân thực hiện, phản ánh, đóng góp ý
kiến.
Hai là, cần yêu cầu cung cấp sổ theo dõi thăm gặp để kiểm tra về hoạt
động thăm gặp, đặc biệt là các vấn đề về đối tượng được thăm gặp, thủ tục thăm
gặp.
Về đối tượng được thăm gặp phạm nhân gồm: Ơng, bà nội; ơng, bà ngoại;
bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ (hoặc chồng); bố, mẹ nuôi hợp pháp; vợ hoặc chồng; con
đẻ, con dâu, con rể, con nuôi hợp pháp; anh, chị, em ruột, dâu, rể; anh, chị em
vợ (hoặc chồng); cơ, dì, chú, bác, cậu, cháu ruột. Mỗi lần đến thăm gặp phạm
nhân tối đa khơng q 3 (ba) người. Bên cạnh đó Thơng tư 07/2018/TT-BCA
cũng quy định ngồi những đối tượng nêu trên các cá nhân, tổ chức, đại diện cơ
quan hoặc thân nhân mà có nhu cầu thăm gặp phạm nhân thì phải được sự đồng
ý của Giám thị Trại giam, Giám thị Trại tạm giam, Thủ trưởng Cơ quan thi hành
án hình sự Cơng an cấp huyện nếu xét thấy phù hợp với lợi ích hợp pháp của
phạm nhân và yêu cầu phòng chống tội phạm, quản lý, giáo dục, cải tạo phạm
nhân thì được thăm gặp phạm nhân.
Về thủ tục thăm gặp phạm nhân: Khi cá nhân, tổ chức, đại diện cơ quan
hoặc thân nhân có nhu cầu thăm gặp phạm nhân theo quy định thì phải có đề
Nhóm 3 – Lớp K4G |

9



nghị bằng văn bản và các giấy tờ cần thiết. Trước khi thăm gặp phải kê khai đồ
dùng, tư trang cá nhân để cán bộ có trách nhiệm kiểm duyệt, nếu đồ vật khơng
được đưa vào thì phải gửi ở tủ tại nhà thăm gặp; Phải có giấy cam kết thực hiện
nghiêm chỉnh Nội quy nhà thăm gặp, phải có giấy cam kết không mang thai của
phạm nhân nữ nếu gặp chồng tại phòng riêng.
Ba là, cần kiểm tra Sổ xuất nhập phạm nhân.
Khi phạm nhân gặp thân nhân thì thời gian không quá 01 (một) giờ, trường
hợp đặc biệt được kéo dài thời gian thăm gặp không quá 03 (ba) giờ, gặp vợ
hoặc chồng ở phịng riêng khơng q 24 (hai bốn) giờ, có thể cho phạm nhân ăn
cơm cùng thân nhân tại căng tin nhà thăm gặp trong thời gian 60 phút (mỗi lần
không quá 3 (ba) người). Nếu thời gian xuất nhập phạm nhân vì lí do thăm gặp
lớn hơn quy định nói trên, Kiểm sát viên cần làm rõ lý do để phát hiện kịp thời
hành vi vi phạm.
Bốn là, cần kiểm tra tài liệu khác về việc thăm gặp để đánh giá được chất
lượng thực hiện công tác của cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức thăm gặp.
Thông qua việc kiểm tra, Kiểm sát viên đánh giá việc cán bộ được phân
công thực hiện các nhiệm vụ cần thiết như tiếp nhận, kiểm tra giấy tờ của người
đến thăm gặp; lập danh sách phạm nhân được thăm gặp trình cấp có thẩm quyền
duyệt, ký trước khi thăm gặp; tiếp nhận, kiểm tra tiền, đồ vật. Việc kiểm tra này
có thể hạn chế được việc cán bộ trại giam tự ý giải quyết thăm gặp hoặc cho
phạm nhân gặp thân nhân, nhận tiền, đồ vật ngoài khu vực nhà thăm gặp cũng
như ngoài nơi được bố trí cho phạm nhân thăm gặp.
Năm là, cần trực tiếp hỏi phạm nhân, người nhà phạm nhân về các hành vi
vi phạm của cán bộ trại giam
Cần tập trung hỏi về các vi phạm trên thực tế khó kiểm tra trên tài liệu,
chẳng hạn: cán bộ làm nhiệm vụ thăm gặp có yêu cầu phạm nhân hoặc người
khác nhận giấy tờ, làm thủ tục thăm gặp thay mình hay khơng ? Có thái độ, hành
vi tiêu cực, gây phiền hà trong việc tổ chức thăm gặp hay khơng ? Có tự ý nhận,

chuyển thư, tiền, đồ vật cho phạm nhân ? Có thu bất kỳ khoản tiền nào khi giải
quyết thăm gặp, kể cả gặp ở phòng riêng tại nhà thăm gặp hay khơng ?
Nhóm 3 – Lớp K4G |

10


Dựa vào công tác kiểm sát trên, Viện Kiểm sát nhân dân có thể thực hiện
được chức năng của mình, đảm bảo hoạt động thăm gặp đúng theo quy định của
pháp luật.

 Thứ hai, Kiểm sát viên kiểm sát việc thực hiện chế độ nhận quà của
phạm nhân:
Theo quy định tại khoản 2, Điều 46 Luật Thi hành án hình sự 2010: “Khi
gặp thân nhân, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khác, phạm nhân được
nhận tiền mặt, đồ vật, trừ đồ vật thuộc danh mục cấm”.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Thông tư 07/2018/TT-BCA, phạm nhân
được nhận, đồ vật nhưng tối đa không quá 5 (năm) kg đồ vật trong một lần gặp,
ngoài ra, mỗi tháng phạm nhân được nhận đồ vật đưa đến hoặc gửi qua đường
Bưu điện 2 (hai) lần, mỗi lần không q 3 (ba) kg (nếu gửi 01 lần thì khơng quá
06 kg). Trường hợp phạm nhân từ chối gặp người đến thăm thì cán bộ làm
nhiệm vụ tổ chức thăm gặp lập biên bản và thông báo cho thân nhân phạm nhân
biết. Trường hợp phạm nhân từ chối không nhận đồ vật gửi qua đường Bưu điện
thì phải lập biên bản và thông báo cho người gửi đến nhận lại. Trong thời gian
15 ngày, kể từ ngày gửi thông báo, nếu khơng có người đến nhận thì lập biên
bản tiến hành tiêu hủy trước sự chứng kiến của phạm nhân được nhận. Đồ vật
của phạm nhân phải được kiểm tra kỹ trước khi đưa vào cơ sở giam giữ, trường
hợp phát hiện đồ vật cấm phải xử lý theo quy định.
Cũng như quy định tại khoản 1 Điều 10 thông tư này, thân nhân phạm nhân
khi đến thăm gặp hoặc qua đường bưu điện, có thể gửi thuốc chữa bệnh, thuốc

bổ cho phạm nhân theo chỉ định của y, bác sỹ tại cơ sở giam giữ hoặc tại cơ sở
khám, chữa bệnh của Nhà nước nơi phạm nhân đang khám và điều trị bệnh.
Để kiểm sát việc thực hiện chế độ nhận quà của phạm nhân, Kiểm sát viên
cần thực hiện các công tác sau:
Một là, kiểm tra sổ theo dõi thăm gặp, sổ lưu ký, sổ mua hàng căn tin, các
biên bản về việc phạm nhân từ chối gặp, từ chối nhận đồ vật, tiêu huỷ đồ vật.

Nhóm 3 – Lớp K4G |

11


Cán bộ được phân công phải kiểm tra các đồ vật để tránh lọt đồ vật thuộc
danh mục cấm vào trại giam. Đối với đồ vật là thuốc, cần phải kiểm tra nhãn
mác, hạn sử dụng,...
Qua việc kiểm tra có thể đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ của cán bộ
trại giam, tránh tình trạng nhận đồ vật quá khối lượng luật định, nhận đồ vật
trong danh mục cấm hoặc các tiêu cực của một số cán bộ.
Hai là, kiểm tra việc nhận, quản lí thuốc do thân nhân gửi cho phạm nhân
qua sổ theo dõi của cán bộ y tế.
Khi phạm nhân ốm đau có nhu cầu sử dụng thuốc, cán bộ y tế căn cứ vào
bệnh lý, phác đồ điều trị để cấp thuốc, hướng dẫn và giám sát phạm nhân sử
dụng. Thuốc của phạm nhân nào thì phạm nhân đó sử dụng, phải ghi rõ trong
bệnh án và sổ theo dõi: “Thuốc do thân nhân gửi”. Kiểm sát viên cũng có thể
kiểm tra biên bản tiêu hủy thuốc khi thuốc hết hạn sử dụng và biên bản trả lại,
chuyển giao thuốc khi phạm nhân chấp hành xong án phạt tù hoặc phải chuyển
đi nơi khác.
Khi phát hiện vi phạm, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện kiểm
sát ban hành văn bản kháng nghị, kiến nghị yêu cầu các cơ quan khắc phục,
chấm dứt vi phạm.

5. Kiểm sát việc thực hiện chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân
Để thực hiện tốt cơng tác kiểm sát việc thực hiện chế độ chăm sóc y tế đối
với phạm nhân, việc đầu tiên mà Kiểm sát viên cần chú ý là những quy định của
pháp luật về chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân, điều này được quy định tại
Điều 48 Luật thi hành án hình sự 2010, Điều 13 Văn bản hợp nhất số 05/VBHNBCA:
Đối với phạm nhân nghi mắc bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác tới mức mất
khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình, Giám thị
trại giam đề nghị Chánh án Tồ án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự
quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù trưng cầu giám định pháp
y. Sau khi Hội đồng giám định pháp y kết luận người đó mắc bệnh tâm thần
hoặc bị bệnh khác tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của
Nhóm 3 – Lớp K4G |

12


mình, Giám thị trại giam đề nghị Chánh án Tồ án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án
Toà án quân sự quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù ra quyết
định đưa người đó vào cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh. Thời gian
bắt buộc chữa bệnh được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Phạm nhân ốm đau được khám và điều trị tại bệnh xá của trại giam. Chế độ
ăn, cấp phát thuốc, bồi dưỡng do y tế của trại giam chỉ định theo bệnh lý. Tiền
thuốc chữa bệnh tương đương 02 kg gạo/01 người/01 tháng. Trường hợp phạm
nhân bị bệnh nặng vượt quá khả năng điều trị của bệnh xá của trại giam, Giám
thị quyết định chuyển đến các bệnh viện của Nhà nước để điều trị, kinh phí chữa
bệnh do trại giam thanh toán với bệnh viện. Giám thị trại giam phối hợp với
trung tâm y tế hoặc bệnh viện gần trại giam xây dựng một số phòng trong khu
vực của trung tâm y tế hoặc bệnh viện dành điều trị cho bệnh nhân là phạm
nhân. Việc xây dựng các phịng chữa bệnh nói trên và quản lý phạm nhân đến
chữa bệnh do trại giam chịu trách nhiệm. Kinh phí chữa bệnh và xây dựng các

phịng chữa bệnh do ngân sách nhà nước cấp. Đối với phạm nhân bị nhiễm
HIV/AIDS, việc chăm sóc và điều trị thực hiện theo quy định hiện hành của
pháp luật. Giám thị trại giam phải thông báo những trường hợp bị bệnh nặng cho
nhân thân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối hợp chăm sóc, điều
trị phạm nhân. Căn cứ vào kết luận phân loại sức khoẻ của y tế trại giam, Giám
thị trại giam bố trí chế độ lao động, học tập đối với từng phạm nhân cho phù
hợp.
Sau đó, Kiểm sát viên trực tiếp đến kiểm sát tại cơ sở giam giữ phạm nhân
để kiểm sát từng nội dung trong chế độ chăm sóc ý tế do trại giam thực hiện có
đúng với quy định của pháp luật hay không.
Thứ nhất, Kiểm sát viên yêu cầu trại giam cung cấp những tài liệu, các
loại sổ sách liên quan đến chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân: Sổ quản lý
đối với phạm nhân (đối với những phạm nhân được trích xuất ra khỏi trại giam
để tiến hành khám việc chữa bệnh), sổ quyết toán chế độ ăn (đối với phạm nhân
bị bệnh thì sẽ có chế dộ ăn riêng do vậy cần phải xem xét chể độ ăn của người
này có được đảm bảo hay khơng), sổ cấp phát thuốc cho phạm nhân, sổ khám
Nhóm 3 – Lớp K4G |

13


bênh cho phạm nhân (để xem xét trại giam có tiến hành tổ chức khám sức khỏe
cho phạm nhân hay không?)…
Thứ hai, Kiểm sát viên trực tiếp đến kiểm tra các bệnh xá, các trung tâm
cai nghiện của trại giam hoặc nơi phạm nhân đến chữa bệnh để kiểm sát việc
thực hiện của trại giam có đúng quy định của pháp luật hay khơng? Ví dụ như
phạm nhân có được chữa trị tại bệnh xá này hay lợi dụng việc mắc bệnh để về
thăm gặp gia đình? Có được đảm bảo về các chế độ ý tế không?
Thứ ba, tiến hành thăm gặp và trực tiếp hỏi các phạm nhân (đã từng mắc
bệnh) để xem xét họ có được đảm bảo đúng và đầy đủ các chế độ về chăm sóc y

tế hay chưa? Ví dụ như họ có được đảm bảo về chế độ ăn mà họ đã được cung
cấp có đúng với chỉ định của sổ bệnh lý hay chưa hay có sự cắt xén phần ăn
hoăc vượt quá phần ăn được chỉ định.
Khi phát hiện các vi phạm trong việc thực hiện chế độ chăm sóc y tế đối
với phạm nhân, Kiểm sát viên kịp thời báo cáo với Lãnh đạo Viện để ban hành
văn bản kiến nghị hoặc kháng nghị tùy theo mức độ vi phạm của trại giam.
6. Kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, ni con
dưới 36 tháng tuổi.
Phụ nữ có thai, ni con dưới 36 tháng tuổi là những phạm nhân cần được
chăm sóc theo chế độ đặc biệt, chế độ ăn, mặc, ở riêng do đó Kiểm sát viên cần
kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, ni con dưới 36
tháng tuổi theo đúng quy định của pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích của họ.
Theo đó, Điều 45 Luật thi hành án hình sự 2010 quy định:

 Thứ nhất, đối với phạm nhân nữ có thai:
Được bố trí nơi ở hợp lý, được khám thai định kỳ hoặc đột xuất, được chăm
sóc y tế trong trường hợp cần thiết; được giảm thời gian lao động, được hưởng
chế độ ăn, uống bảo đảm sức khoẻ.
Được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy định của Bộ luật lao
động.

Nhóm 3 – Lớp K4G |

14


Trong thời gian nghỉ sinh con, phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn, định
lượng ăn theo chỉ dẫn của y sĩ hoặc bác sĩ, được cấp phát thực phẩm, đồ dùng
cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh.


 Thứ hai, đối với phạm nhân nuôi con dưới 36 tháng tuổi:
Phạm nhân nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi được bố trí thời gian phù hợp để
chăm sóc, ni dưỡng con.
Phạm nhân nữ có con từ 36 tháng tuổi trở lên phải gửi con về cho thân
nhân nuôi dưỡng. Trường hợp con của phạm nhân khơng có thân nhân nhận
ni dưỡng, thì trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Cơng an, trại tạm giam thuộc
Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Cơng an cấp tỉnh, phải đề nghị Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội nơi phạm nhân chấp hành án chỉ định cơ sở
bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng.
Người chấp hành xong án phạt tù được nhận lại con đang được cơ sở bảo
trợ xã hội nuôi dưỡng.
Trại giam phải tổ chức nhà trẻ ngồi khu giam giữ để chăm sóc, ni
dưỡng trẻ em là con của phạm nhân dưới 36 tháng tuổi và con của phạm nhân từ
36 tháng tuổi trở lên trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở bảo trợ xã
hội.
Việc kiểm sát thực hiện chế độ ăn, mặc và cấp phát nhu yếu phẩm đối với
trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng cha, mẹ trong trại giam
được thực hiện theo quy định đã phân tích ở trên tại mục 1 Phần II.
7. Kiểm sát việc thực hiện chế độ học tập, học nghề và được thông tin của
phạm nhân.
Để cho pháp luật thi hành án hình sự được thi hành thống nhất, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên cần tiến hành kiểm sát chặt chẽ việc tổ chức thi hành quyết
định thi hành án phạt tù của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nói chung,
cũng như việc thực hiện chế độ học tập, học nghề và được thông tin của phạm
nhân nói riêng. Theo đó, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cần xác lập kỹ năng kiểm
sát những vấn đề được đề cập tại khoản 1 Điều 28 Luật thi hành án hình sự năm
2010 quy định về chế độ học tập, học nghề và được thông tin của phạm nhân
Nhóm 3 – Lớp K4G |

15



như sau: “Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục cơng dân và được học văn
hố, học nghề. Phạm nhân chưa biết chữ phải học văn hoá để xoá mù chữ. Phạm
nhân là người nước ngồi được khuyến khích học tiếng Việt. Phạm nhân được
bố trí ngày thứ bảy để học tập, học nghề và được nghỉ ngày chủ nhật, lễ, tết theo
quy định của pháp luật”.
Để làm tốt công tác trên, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cần bám sát quy
định tại Thông tư liên tịch số 02/2012 ngày 06/02/2012 hướng dẫn việc tổ chức
dạy văn hóa, giáo dục pháp luật, giáo dục công dân, phổ biến thông tin thời sự,
chính sách và thực hiện chế độ sinh hoạt, giải trí cho phạm nhân, từ đó làm rõ
những vấn đề như sau:
Thứ nhất, chương trình học có được cơ sở giam giữ áp dụng đúng, đủ và
phù hợp với từng đối tượng hay không? Cụ thể như: đối với phạm nhân mới thì
phải bắt buộc học nội quy trại giam và các quy định có liên quan; đối với phạm
nhân chưa biết chữ hoặc tái mù chữ thì phải bắt buộc học chương trình xóa mù
chữ; đối với phạm nhân là người nước ngồi thì khuyến khích học tiếng Việt;…
Đặc biệt quan tâm, tập trung kiểm tra, giám sát cơng tác dạy văn hóa, giáo dục
cơng dân cho phạm nhân là người khiếm thính, khiếm thị, thiểu năng, người bị
bệnh thường xuyên.
Thứ hai, bên cạnh chương trình học thì thời gian học tập của phạm nhân có
được đảm bảo 4 giờ/buổi và số buổi học trong một tuần của mỗi loại chương
trình học có bị giảm bớt, cắt xén hoặc bị tăng thời lượng học vào các ngày chủ
nhật, lễ, Tết hay không?
Thứ ba, sách giáo khoa, tài liệu dạy học có phù hợp với chương trình của
từng đối tượng theo quy định và hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo hay
không? Cụ thể, các tài liệu bao gồm: tài liệu, sách giáo khoa xóa mù chữ và giáo
dục tiếp tục sau khi biết chữ, sách giáo khoa trung học cơ sở đều phải được
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên kiểm tra làm rõ. Bên cạnh đó, các tài liệu, hồ sơ
khác có liên quan đến cơng tác giáo dục, dạy học của cơ sở giam giữ như: sổ đầu

bài, sổ điểm danh, giáo án,… cũng phải được Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
Nhóm 3 – Lớp K4G |

16


nghiên cứu kỹ càng, so sánh, đối chiếu giữa các tài liệu khác nhau để tìm ra sai
phạm, từ đó làm căn cứ yêu cầu, kiến nghị cơ sở giam giữ khắc phục vi phạm.
Đối với chế độ được thông tin của phạm nhân, khoản 2 Điều 28 Luật thi
hành án hình sự năm 2010 quy định: “Phạm nhân được cung cấp thơng tin về
thời sự, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Để thực hiện tốt công tác kiểm
sát việc thực hiện chế độ này đối với phạm nhân, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
cần kiểm tra, làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ sở giam giữ được trang bị đầy đủ hệ thống truyền thanh theo
quy định tại Điểu 31 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 hay khơng? Hệ
thống truyền thanh có hoạt động tốt không? Đồng thời kiểm tra lịch phát thanh
và nội dung phát thanh để đảm bảo cơ sở giam giữ không vi phạm quy định của
pháp luật về quyền được thông tin của phạm nhân.
Thứ hai, cơ sở giam giữ có trực tiếp tổ chức phổ biến thơng tin thời sự,
chính sách cho phạm nhân theo định kỳ hay khơng? Đồng thời kiểm tra, giám
sát việc tổ chức cho phạm nhân xem chương trình Thời sự của Đài Truyền hình
Việt Nam, Đài Truyền hình địa phương, nghe Đài Tiếng nói Việt Nam hoặc hệ
thống truyền thanh nội bộ, đọc báo Nhân dân
8. Kiểm sát việc thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động
của phạm nhân.
Cơ quan Viện kiểm sát tiến hành công tác kiểm sát việc thực hiện chế độ
lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân góp phần bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của phạm nhân; tạo điều kiện thuận lợi cho phạm nhân ổn
định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù; đồng
thời, bảo đảm quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, đúng mục đích

kết quả lao động, học nghề của phạm nhân, góp phần nâng cao điều kiện cơ sở
vật chất, tinh thần cho trại giam và phạm nhân để phục vụ tốt hơn cho cơng tác
quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân.
Theo đó, chế độ lao động của phạm nhân được quy định tại Điều 29 Luật
thi hành án hình sự năm 2010 và Thông tư liên tịch số 12/2013 ngày 02/12/2013
hướng dẫn về chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, học nghề của phạm
Nhóm 3 – Lớp K4G |

17


nhân trong trại giam. Để thực hiện tốt công tác này, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên cần nghiên cứu kỹ Kế hoạch tổ chức lao động của cơ sở giam giữ, từ đó
làm rõ những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, phạm nhân có được bố trí lao động phù hợp với độ tuổi, sức
khỏe, giới tính, mức án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng phạm nhân
và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục phạm nhân hay không? Đối với phạm
nhân là nam từ 60 tuổi trở lên, người chưa thành niên, nữ hay phạm nhân được y
tế của trại giam xác định không đủ sức khỏe có phải thực hiện những cơng việc
nặng nhọc, độc hại theo danh mục do pháp luật quy định không? Những phạm
nhân được quy định tại khoản 3 Điều 4 Thơng tư liên tịch 12/1013 có được nghỉ
lao động hay không?
Thứ hai, thời gian lao động của phạm nhân được đảm bảo theo quy định
của pháp luật hay không? Cụ thể: phạm nhân có bị bắt buộc phải lao động quá
08 giờ/ngày hay không? Nếu phải làm thêm giờ do đột xuất hoặc thời vụ thì có
phải làm q 02 giờ/ngày không?
Đối với công tác sử dụng kết quả lao động của phạm nhân, Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên cần nghiên cứu văn bản, hồ sơ báo cáo kết quả thu, chi từ các hoạt
động lao động, học nghề của phạm nhân, từ đó đối chiếu với quy định tại Điều
30 Luật thi hành án hình sự năm 2010 và Điều 8 Thông tư liên tịch 12/2013.

Nếu phát hiện cơ sở giam giữ có sai phạm trong cơng tác sử dụng kết quả lao
động, học nghề của phạm nhân thì tiến hành yêu cầu, kiến nghị cơ sở giam giữ
khắc phục vi phạm, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của phạm nhân.
III. Những hạn chế còn tồn tại và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác kiểm sát việc thực hiện các chế độ của phạm nhân
1. Những hạn chế còn tồn tại
Trong những năm qua, trên cơ sở quy định của pháp luật, Viện kiểm sát
nhân dân luôn cố gắng thực hiện tốt công tác kiểm sát việc thực hiện chế độ đối
với phạm nhân để đảm bảo quyền các quyền con người của phạm nhân. Tuy
nhiên, thực tế kiểm sát việc thực hiện các chế độ này đã bộc lộ nhiều điểm bất
cập và hạn chế.
Nhóm 3 – Lớp K4G |

18


Thứ nhất, việc thực hiện chế độ, chính sách pháp luật đối với phạm nhân
chưa đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, thể hiện ở nhiều vi phạm. Cụ thể:
Một là, do số lượng phạm nhân tăng nhanh nên các trại giam bị quá tải,
phạm nhân phải ở trong điều kiện chật chội, khơng đủ diện tích theo quy định
của pháp luật. Chỗ nằm của mỗi phạm nhân, theo quy định của pháp luật là 2m 2
tuy nhiên trên thực tế ở nhiều trại giam, trung bình mỗi phạm nhân chỉ được
1m2, có nơi chỉ được 0,8m2. Bên cạnh đó, nhiều trại giam cũ đã xuống cấp như
nền nhà sụt lún, gạch nền bị vỡ, tường xây bị hỏng, hệ thống vệ sinh bị tắc, nơi
ở chật hẹp, ẩm thấp, thiếu nước, việc đôn đốc, kiểm tra trật tự vệ sinh không tốt
nên chưa đảm bảo vệ sinh môi trường theo quy định. Việc thực hiện chế độ ăn
của phạm nhân ở nhiều cơ sở giam giữ chưa đảm bảo định lượng, khẩu phần ăn
cho phạm nhân theo quy định, chưa phân biệt chế độ ăn giữa các loại phạm
nhân. Chế độ mặc và tư trang của phạm nhân vẫn còn bị vi phạm trên thực tế.
Nhiều nơi chưa thực hiện việc cấp phát quần áo, đồ dùng sinh hoạt cho phạm

nhân.
Hai là, các trại giam đều đóng ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện giao thơng đi
lại khó khăn, vất vả, các thơng tin báo chí đến chậm, muộn; song vơ tuyến
truyền hình khó bắt hoặc nhiễu ảnh hường nhiều đến giáo dục, thời sự, chính trị,
văn hóa và đời sống tinh thần của phạm nhân. Bên cạnh đó, chế độ đọc báo,
nghe đài, vui chơi, giải trí ở một số cơ sở chấp hành hình phạt tù còn chưa được
quan tâm đầy đủ do nặng nề về lao động sản xuất, chưa quan tâm đúng mức đời
sống tinh thần của phạm nhân.
Ba là, do nhiều nguyên nhân như vị trí địa lý, điều kiện giao thơng, khó có
cơ hội ký kết các hợp đồng kinh tế, sản xuất, dạy nghề cho phạm nhân nên một
số trại giam chưa chú trọng việc lựa chọn ngành nghề đào tạo cho phạm nhân
phù hợp với trình độ, năng lực và sức khỏe của phạm nhân.
Bốn là, chế độ chăm sóc y tế của phạm nhân cịn nhiều thiếu sót, một số
trại giam chưa thực hiện khám sức khỏe định kỳ cho phạm nhân; một số bệnh
nhân mắc bệnh hiểm nghèo khơng được trại giam kịp thời làm thủ tục đình chỉ
chấp hành án phạt tù.
Nhóm 3 – Lớp K4G |

19



×