Đề tài:
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHI GIA NHẬP WTO
Nhóm 9:
Trần Thị Ngọc An( nhóm trưởng)
Phạm Thế Anh
Nguyễn Thị Hoa
Võ Thị Thanh
Phan Thị Đài Trang
1
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Đỗ Thị Kim Trúc
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
2
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã góp
phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải cách kinh tế nước nhà.
Việt Nam đã kí kết nhiều hiệp định, hiệp ước quốc tế như Hiệp định song phương
với Hoa Kì, gia nhập ASEAN (1995), gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương APEC (11/1998),… và quan trọng là sự kiện Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2006. Sau khi gia nhập WTO,
kinh tế nước ta ngày càng có những bước phát triển tích cực, đời sống nhân dân
phần nào được cải thiện, bên cạnh không ít những rủi ro và mất mát, đặc biệt là
trong lĩnh vực khá nhạy cảm như nông nghiệp. Để nhận thấy rõ hơn những đổi
thay của nước ta trong những năm qua sau khi hội nhập với thế giới, nhóm 9 đã
chọn nghiên cứu và tìm hiểu đề tài “ Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO”.
Cách đây 8 năm ngày 7/11/2006, Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150
của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và từ tháng 1/2007, Việt Nam bắt đầu
thực hiện nghĩa vụ thành viên và các cam kết gia nhập. Đó là một thành công lớn
sau hơn 11 năm kiên trì đàm phán và chuẩn bị, là một mốc quan trọng trong lộ
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, bởi vì từ thời điểm này Việt Nam mới
thực sự tham gia vào một sân chơi lớn có quy mô toàn cầu và qua đó Việt Nam có
thể khai thác được nhiều lợi ích và cơ hội cho phát triển, tránh bị gạt ra bên lề dòng
chảy tiến bộ chung của nhân loại. Cũng bắt đầu từ đây, nền kinh tế và thị trường
Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận gắn bó chặt chẽ với kinh tế và thị trường
thế giới. Do đó, phân tích việc hưởng lợi, những cơ hội tốt cho phát triển, cũng như
nhiều tác động trái chiều và thách thức đối với Việt Nam để từ đó đưa ra các giải
pháp tối ưu cho con đường phát triển là một vấn đề hết sức cần thiết, nó vừa mang
tính lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
3
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
4
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỔ CHỨC WTO VÀ NHỮNG CAM KẾT
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP
WTO
I, TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC WTO
1. Lịch sử ra đời của WTO
WTO là tên viết tắt của World Trade Organization – tổ chức Thương mại Thế
giới.
WTO được thành lập vào ngày 01/01/1995, nó được coi là sự kế tục và mở rộng
phạm vi điều tiết thương mại của GATT- hiệp định chung về Thuế quan Thương
mại. GATT ra đời sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà trào lưu hình thành
hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động kinh tế quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ, điển hình là sự ra đời của WB (Ngân hàng thế giới) và IMF (Quỹ tiền
tệ quốc tế).
Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay (1986- 1994) do
thương mại quốc tế không ngừng phát triển nên GATT đã mở rộng hoạt động
của mình.
Không chỉ dừng lại ở các hiệp định về thuế quan, nó còn tập trung xây dựng các
hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi thuế
quan về nhiều lĩnh vực. Đó là lí do để GATT vốn chỉ dừng lại ở một liên minh
về thuế quan và thương mại đã không còn phù hợp nữa.
Ngày 15/4/1994, tại Maroc, các bên đã hoàn thành hiệp định thành lập tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) nhằm tiếp tục phát triển GATT.
5
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Ngày 01/01/1995, WTO chính thức được thành lập, độc lập với hệ thống của
Liên Hợp Quốc.
2. Tổ chức WTO và ảnh hưởng của nó tới sự phát triển của nhân loại
Theo các quy định tại điều IV của hiệp định thành lập WTO, các cấp độ quyền
lực của WTO gồm: Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng và các tiểu ban.
Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan có quyền lực cao nhất, có quyền quyết định
những vấn đề trọng đại của tổ chức này.
Chức năng của WTO trong điều III của hiệp định thành lập, gồm:
(1) WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý, điề ều hành và
những mục tiêu khác cuả hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của
WTO. Đồng thời cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành
việc thực hiện các hiệp định nhiều bên;
(2) WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về
những
quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO. Đồng
thời WTO còn là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc
thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra;
(3) WTO thi hành thỏa thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải
quyết tranh chấp giữa các thành viên;
(4) WTO thi hành chính sách rà soát chính sách thương mại của các nước thành
viên;
(5) WTO hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng thế giới WB và các
cơ quan trực thuộc nó.
3. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam và ảnh hưởng của nó tới ngành
nông nghiệp
Bước 1: Nộp đơn xin gia nhập
6
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Đây là bước đầu tiên bắt buộc đối với mọi quốc gia khi xin gia nhập vào tổ
chức WTO. Ngày 1/1/1995, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO, Việt Nam
cho phép Việt Nam trở thành quan sát viên. Ngày 31/1/1995, WTO đã thành lập
nhóm cộng tác của WTO về việc xem xét đơn xin gia nhập của Việt Nam.
Bước 2: Đàm phán gia nhập
Giai đoạn đàm phán bao gồm các bước sau:
- Minh bạch hóa chính sách;
- Đàm phán mở cửa thị trường
Bước 3: Kết nạp
Theo thông lệ, khi nhóm công tác đã kết thúc việc xem xét chế độ ngoại
thương của nước xin gia nhập, các cuộc đàm phán song phương, đa phương về
mở của thị trường kết thúc thì thủ tục kết nạp được xúc tiến. Nhóm công tác sẽ
dự thảo một bản báo cáo gia nhập của nước xin gia nhập, bao gồm một Nghị
định thư gia nhập và một danh mục ghi các cam kết của nước xin gia nhập.
Tất cả các văn bản trên sẽ được trình lên Đại hội đồng hoặc Hội nghị Bộ
trưởng. Nếu số thành viên của WTO có từ 2/3 tán thành, quyết định việc gia
nhập WTO sẽ được thông qua. Sau đó, Nghị định thư gia nhập của Việt Nam sẽ
được Tổng giám đốc WTO và chính phủ Việt Nam ký, Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 7/11/2006.
4 Thời cơ và thách thức của việc gia nhập WTO đối với ngành nông nghiệp
Việt Nam
Khi gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam mở rộng được thị trường ra bên
ngoài, giải quyết được bài toán nan giải về nơi tiêu thụ hàng hóa, giúp cho nông
nghiệp Việt Nam tiến dần đến nền sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại. Trong môi
trường cạnh tranh của WTO, nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam ngày
càng năng động, nhạy bén và chắc chắn hiệu quả sản xuất sẽ tăng lên nhanh
7
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
chóng, nông dân Việt Nam không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm
trong sản xuất kinh doanh cũng như những thành tựu về khoa học công nghệ
trong lĩnh vực này. Đây sẽ là bước đi “rút ngắn”, là bước “đi tắt đón đầu” của
nông nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, khi gia nhập vào WTO, nông nghiệp Việt Nam cũng đối mặt với rất
nhiều thách thức lớn. Việt Nam phải cam kết cắt giảm trợ cấp đối với nông
nghiệp. Lĩnh vực dịch vụ nhất là kiểu cung ứng dịch vụ nhỏ lẻ, phân tán cũng
được coi là sẽ gặp bất lợi do năng lực cạnh tranh kém,
Nông nghiệp Việt Nam phải vượt qua được những thách thức, nắm lấy thời cơ
để phát triển.
II, NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
1. Cam kết của chính phủ Việt Nam
Là thành viên WTO nông nghiệp phải thoả mãn hai điều kiện:
(1) Tăng mức độ mở của thị trường của mình, hay nói cách khác, là tăng sự tiếp
cận thị trường cho các quốc gia thành viên của WTO;
(2) Giảm trợ cấp nông nghiệp, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và sản xuất.
2. Cam kết về mức thuế của các mặt hàng nông sản
Thuế nhập khẩu
Thứ nhất, thuế suất dành cho nhóm các mặt hàng nông sản dao động trong
khoảng từ 0%- 150%;
Thứ hai, các mặt hàng tươi sống thường có thuế suất thấp hơn các mặt hàng đã
qua sơ chế hoặc chế biến thành phẩm;
Thứ ba, thuế suất của một số mặt hàng thiết yếu ở mức khá cao. Cụ thể nhất là
mặt hàng lúa gạo. Trong khi những mặt hàng khác của nhóm sản phẩm ngũ cốc
đều thấp thì lúa gạo vẫn ở mức 40%- 50% (gạo làm chín sơ ở mức 50%);
Thứ tư, thuế cam kết cắt giảm ở các mặt hàng có khác biệt rất lớn;
8
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Thứ năm, quyền đàm phán ban đầu thuộc về nhiều quốc gia khác nhau trong tổ
chức.
Đồng thời, phần phụ thu nhập khẩu của tất cả các mặt hàng đều là 0%.
Thuế xuất khẩu
Chấm dứt trợ giá xuất khẩu đối với mọi nông sản sau khi gia nhập;
Tiếp tục cho phép khuyến khích thương mại nếu không trợ giá xuất khẩu trực
tiếp;
Từ sau năm 2009 bãi bỏ độc quyền xuất khẩu gạo của doanh nghiệp nhà nước;
Hạn chế xuất khẩu cho một số sản phẩm như gạo vẫn được phép tiến hành, các
hình thức kiểm tra xuất khẩu phải phù hợp tinh thần của quy định WTO (minh
bạch và không phân biệt đối xử).
3. Những cam kết về lộ trình cắt giảm thuế đối với hàng nông sản
Qua biểu cam kết về thuế quan, ta nhận thấy lộ trình cắt giảm thuế của các mặt
hàng nông sản là không giống nhau. Lộ trình chủ yếu là tới năm 2010 và 2012.
Lộ trình thực hiện càng ngắn thì thách thức đối với lĩnh vực nông nghiệp nói
riêng, tổng thể nền kinh tế.
4. Cam kết trong lĩnh vực trợ cấp đối với nông nghiệp
Cam kết trợ cấp cho nông nghiệp là một nội dung lớn trong biểu cam kết của
Việt Nam khi gia nhập WTO. Hiệp định nông nghiệp của WTO yêu cầu các
nước phải giảm các hình thức trợ cấp bóp méo thương mại và chia trợ cấp thành
các nhóm: hộp Xanh lá cây, hộp Xanh lơ, hộp Hổ. Tóm lại, những cam kết
trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam khi gia nhập WTO là một vấn đề hết
sức phức tạp và nhạy cảm. Nó ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực và nhiều mối quan
hệ trong xã hội. Đồng thời liên quan và ảnh hưởng một cách trực tiếp và gián
tiếp tới lợi ích của người lao động nói chung, nông dân nói riêng.
9
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
CHƯƠNG II:
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO TỚI NỀN NÔNG
NGHIỆP
Sau 6 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu cũng như đón nhận cả những thách thức trong phát
triển kinh tế. Có một điều đáng ngạc nhiên là, dù có xuất phát điểm thấp
nhưng trong mọi hoàn cảnh khó khăn của quá trình hậu hội nhập, nông
nghiệp vẫn thể hiện rõ vai trò trụ đỡ, tấm đệm của nền kinh tế.
Sau khi gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một trụ cột vững chắc của
nền kinh tế, có đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và nỗ lực bình ổn
kinh tế chung. Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã có những tiến bộ vượt
bậc, bộ mặt của nông thôn và nông nghiệp đã có những thay đổi sâu sắc.sau đây
là một số những tác động tích cực và hạn chế của việc gia nhập tổ chức WTO tới
nền nông nghiệp Việt Nam
I. NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1.Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
1.1) Tác động của WTO đến ngành trồng trọt
Việt Nam có khoảng 45 triệu lao động. Trong đó, lao động trong nông nghiệp trên
23,6 triệu, chiếm trên 52,5% tổng số lao động của cả nước (dân số khu vực nông
10
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
thôn chiếm 72,1%). Tuy nhiên, trước đây, công nghệ chủ yếu được áp dụng trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là thủ công, kết hợp sức lao động của con người và
sức kéo của gia súc. Sản xuất nông nghiệp lại phân tán, nhỏ lẻ và mang tính tự
cung tự cấp. Đó là lí do vì sao ngành này có lịch sử phát triển lâu đời, có điều kiện
tự nhiên ưu đãi và có số đông lao động làm việc nhưng vẫn chưa khai thác hết
được lợi thế của ngành.
Khi gia nhập WTO ngành trồng trọt VN có những cơ hội lớn để phát triển. Do
các loại thuế phải được cắt giảm theo lộ trình nên dẫn tới ngành trồng trọt có
những lợi thế sau để phát triển
Khi thuế nhập khẩu vật tư nông nghiệp được cắt giảm dần thì người nông dân
có cơ hội được mua các vật tư nông nghiệp với giá rẻ hơn trước đây
- Khi thuế suất cam kết đối với giống cây trồng nhập khẩu được cắt giảm xuống
mức rất thấp thì rất nhiều bà con nông dân có cơ hội được sử dụng những loại
cây trồng có ưu thế hơn hẳn về cả năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Những giống cây này còn giúp nguời sản xuất có khả năng tiêu thụ nông sản
của mình một cách dễ dàng hơn nhờ đáp ứng những yêu cầu mà khách hàng ở
các nước mong đợi.
- Khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành trồng trọt đã có những dấu hiệu khởi
sắc. Cụ thể là những biến đổi như sau:
Tình trạng độc canh cây lúa trong trồng trọt không còn nữa, thay vào đó là sự
thâm canh, xen canh rất rõ rệt trên mọi vùng miền kinh tế;
Tình trạng sản xuất khép kín theo kiểu tự cung, tự cấp ở nhiều địa phương được
thay thế bới một nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành phát triển;
Chúng ta cũng có thể thấy được những thành tựu đáng khích lệ của ngành này
như cánh đồng mẫu lớn hay chương trình xây dựng nông thôn mới.
11
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Từ chỗ chỉ đủ cung cấp lương thực, thực phẩm một cách hết sức hạn chế cho
nhu cầu tiêu dùng trong nước tới chỗ hướng mạnh ra xuất khẩu.
Việc ứng dụng các thành tựu vào trong sản xuất nông nghiệp nói chung và
trong ngành trồng trọt nói riêng ngày càng được đẩy mạnh về cả chiều rộng lẫn
chiều sâu;
Do những quy định ngày càng khắt khe về chất lượng sản phẩm nên ngành
nông nghiệp Việt Nam cũng ngày càng quan tâm đến yếu tố chất lượng và vấn
đề vệ sinh an toàn thực phẩm, hướng tới một ngành nông nghiệp sạch;
Nhờ có sự can thiệp của khoa học kỹ thuật, với giống cây mới, điều kiện chăm
sóc đặc biệt đã làm cho nhiều loại cây trồng cho thu hoạch quanh năm;
Khi tham gia vào tổ chức WTO nhiều sản phẩm như gạo, cà phê, rau quả, cao
su, mía đường, của Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường của hơn
năm mươi quốc gia thành viên.
Nhiều ngành hàng nông sản chiếm lĩnh được thị phần lớn trên thế giới, điển
12
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
hình như gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 19,75% thị phần thế giới; cà phê
16,89%; hồ tiêu 16,26%; cao su 9,73%; chè 687%; thủy sản 6,1%; gỗ và các
sản phẩm gỗ 3,26% Tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của gạo, tiêu và chè
lần lượt đạt 19,8%/năm, 23,9%/năm và 11%/năm trong giai đoạn 2007 - 2012;
cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng lần lượt 15,4%/năm, 15,4%/năm và
7,2%/năm trong giai đoạn 2001 - 2006.
Ngoài ra, việc gia nhập WTO cho phép các nhà sản xuất tiếp cận được với
nguổn vốn vay ưu đãi của các tổ chức tín dụng quốc tế.
1.2)Tác động của gia nhập WTO đến ngành chăn nuôi
Khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức WTO, ngành chăn nuôi cũng đã
có những chuyển biến đáng kể. Cụ thể:
Năng suất, sản lượng và chất lượng của ngành chăn nuôi không ngừng tăng lên;
Cơ cấu vật nuôi cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Từ chỗ chỉ tâp trung nuôi những
vật nuôi truyền thống chuyển sang nuôi những vật nuôi có giá trị kinh tế cao,
thị trường tiêu thụ rộng lớn;
Mục đích của chăn nuôi thay đổi dẫn tới cách thức, động cơ của ngành này
cũng có sự điều chỉnh. Đó cũng là lí do mà nhiều nông dân từ chỗ chỉ biết áp
dụng những phương tiện và phương pháp thủ công nay đã biết tiếp cận với
khoa học công nghệ nhất là những công nghệ mới ;
Ngành chăn nuôi cũng ngày càng thể hiện rõ tính tập trung. Từ chỗ chủ yếu là
đơn vị sản xuất nhỏ lẻ, sử dụng sức lao động thủ công là chủ yếu sang mô hình
các trang trại chăn nuôi với quy mô lớn;
Ví dụ: ngành xuất khẩu cá tra đã có những chuyển biến rỗ rệt
13
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Theo dự báo, ngành thủy sản Việt Nam năm 2008 đạt giá trị xuất khẩu khoảng
3,5 tỷ USD, con số này sẽ tăng lên 7,5- 8tỷ USD vào năm 2020.
1.3) Tác động của gia nhập WTO đến ngành công nghiệp chế biến nông sản
Việc gia nhập WTO đã thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển cả về quy mô,
cơ cấu và hiệu quả kinh tế: về quy mô, công nghiệp chế biến từ chỗ chủ yếu là
các cơ sở chế biến vừa và nhỏ, nay đã có rất nhiều doanh nghiệp mới, với quy
mô lớn được hình thành, về loại hình, có thể khẳng định có rất nhiều loại hình
của công nghiệp chế biến ra đờí. Loại hình phổ biến nhất hiện nay là dưới dạng
các doanh nghiệp kiểu doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước hay công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, Một biến đổi hết sức rõ nét trong
lĩnh vực này chính là việc hình thành và phát triển của các khu công nghiệp chế
xuất. Nhờ đó mà việc chế biến nông sản mang tính tập trung và hiệu quả hơn.
14
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
Cụ thể từ 12 mặt hàng nông sản truyền thống là thủy sản, hạt điều, cà phê, cao
su , sau khi gia nhập WTO cho đến nay đã có thêm 6 mặt hàng nông sản
tham gia xuất khẩu góp phần giá trị tăng thêm đáng kể cho xuất khẩu.
1.4) Tác động của gia nhập WTO đến các ngành sản xuất có liên quan đến nông nghiệp
Ngành công nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, chất bảo quản thực
phẩm,. (hay còn gọi là vật tư nông nghiệp).
Các ngành liên quan đến kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng tương tự
như các ngành sản xuất vật tư nông nghiệp, ngành công nghiệp điện phục vụ
sản xuất nông nghiệp, thuỷ lợi với hệ thống kênh mương, hệ thống đường giao
thông nông thôn,. Nông nghiệp có phát triển theo hướng một nền nông nghiệp
hàng hoá lớn hiện đại hay không phụ thuộc một phần không nhỏ vào những
ngành này.
2. Trong lĩnh vực lưu thông nông sản
2.1 Tác động của gia nhập WTO đến thị trường tiêu thụ nông sản
Gia nhập WTO đã tác động rất lớn đến thị trường tiêu thụ nông sản. Biểu hiện
ở những thị trường sau: Thị trường lúa gạo: gia nhập WTO, gạo Việt Nam dễ
dàng xâm nhập vào thị trường nhiều quốc gia trên thế giới với mức thuế suất
ưu đãi dành cho các nước thành viên; thị trường cà phê; thị trường rau quả và
các thực phẩm thông dụng khác,
Có thể nói sự tác động của WTO tới thị trường nông sản nước ta là rất lớn.
Thông qua sự tác động đến thị trường, nó đã làm thay đổi nhiều thói quen,
nhiều mối quan hệ trong khu nông nghiệp, nông thôn. Bước đầu nhận thấy
những thay đổi đó là thích hợp và cần thiết
15
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
2.2 Tác động của WTO đến thị trường các yếu tố sản xuất nông nghiệp
-Thị trường tài chính- tín dụng: ngày nay vốn được huy động từ rất nhiều nguồn
khác nhau. Bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách là nguồn vốn từ các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng, nguồn vốn vay và viện trợ từ nước ngoài, vốn huy động từ
tín dụng nhân dân, Trong xu thế hội nhập, cách thức hoạt động và cho vay
của các tổ chức tài chính- tín dụng cũng thay đổi rất nhiều. Lãi suất có thể ưu
đãi nhưng vẫn phải có thời hạn vay, có thể dài hơn nhưng vẫn phải xác định và
cam kết trả nợ đúng hạn.
-Thị trường lao động: gia nhập WTO đã làm cho thị trường lao động nói chung,
thị trường lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng có nhiều
chuyển biến. Bộ phận lao động được đào tạo có xu hướng tăng lên, lao động
cũng tập trung hơn. Một bộ phận không nhỏ người dân đã dần hình thành tư
duy: "Li nông bất li hương”, họ chuyển sang làm nhiều công việc phi nông
nghiệp nhưng lại liên quan mật thiết với nông nghiệp mà không phải rời bỏ quê
hương của mình.
-Thị trường khoa học công nghệ: một nền nông nghiệp truyền thống đang dần bị
thay thế bởi một nền nông nghiệp hàng hoá hiện đại. Khoa học công nghệ ngày
càng có vai trò quan trọng, đôi khi là quyết định đối với sự phát triển của nông
nghiệp nước ta. Hàm lượng khoa học công nghệ trong nông sản ngày càng cao
thì mới đáp ứng đượe yêu cầu của thị trường quốc tế nhất là ở các nước phát
triển.
3. Trong lĩnh vực tiêи dùng
3.1) Tác động của gia nhập WTO đến việc tiêu dùng hàng nông sản
Khi thực hiện các cam kết của WTO trong lĩnh vực nông sản, hàng nông sản ở
16
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
các nước dễ dàng xâm nhập vào Việt Nam hơn. Chính vì lí do đó mà hàng nông
sản nhập khẩu rẻ hơn một cách tương đối so với trước đây. Nông sản Việt Nam
được tiêu thụ nhiều hơn trên thị trường quốc tế. Riêng đối với một bộ phận
nông dân, do thu nhập từ lĩnh vực nông nghiệp tăng nên họ dành nhiều hơn cho
nhu cầu tiêu dùng. Trong đó, họ tiêu dùng hàng hoá của các ngành sản xuất
khác và kích thích việc sản xuất các loại hàng hoá này tăng lên ở cả chiều rộng
lẫn chiều sâu
3.2) Tác động của gia nhập WTO đến việc tiêu dùng các hàng hóa có liên
quan đến lĩnh vực nông nghiệp
Tiêu dùng các hàng hoá có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng tăng lên.
Trước hết là thị trường phân bón, thuốc trừ sâu và thuốc bảo vệ thực vật, thuốc
bảo quản. Thuốc bảo vệ thực vật cùng với phân bón dã trở thành mặt hàng thiết
yếu của ngành trồng trọt. Xu hướng chung là sự chuyển dần sang chế tạo các
sản phẩm có nguồn gốc sinh học. Sản phẩm này độc hại ít hơn rất nhiều so với
các sản phẩm hóa học thường dùng trước đây. Trong tương lai không xa, do xu
thế hội nhập hiện nay mà các sản phẩm dạng sinh học sẽ trở nên rẻ hơn và được
dùng phổ biến hơn trong ngành trồng trọt. Thức ăn chăn nuôi là mặt hàng
không thể thiếu được trong một nền chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa
như hiện nay, chăn nuôi hiện nay đã sử dụng phần nhiều các dạng thức ăn tổng
hợp. Vì vậy mà việc nước ta gia nhập WTO ảnh hưởng rất lớn đến giá trị và
sản lượng mặt hàng này.
4. Sự chuyển biến của các quan hệ xă hội trong khu vực nông nghiệp, nông
thôn khi Việt Nam trở ỉhành thành viên của WTO
Từ những sự biến đổi của tất cả các quan hệ kinh tế trên, các quan hệ xã hội
trong khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng có nhiều biến đổi sâu sắc: Sự biến
17
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
đổi đó được biểu hiện trong sự biến đổi ở mối quan hệ giữa: nông dân với nông
dân; nông dân với công nhân, nông dân với nhà nước, nông dân với nhà khoa
học, nông dân với nhà doanh nghiệp.
II. NHỮNG THÁCH THỨC CỦA NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM KHI GIA
NHẬP WTO
1.Những mặt hạn chế của nông nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập
1.1 Hàm lượng chất xám trong nông sản thấp
Hàm lượng chất xám thấp là hệ quả làm giảm năng lực cạnh tranh của nông sản
trên thị trường quốc tế. Trước mắt, khi hàm lượng chất xám trong nông sản
thấp, nông nghiệp Việt Nam phải chấp nhận bán nông sản của mình với giả rẻ
dưới dạng thô. Điều này dễ nhận thấy trong một số sản phâm như: cà phê, cao
su, lúa gạo, muối,
1.2 Trồng trọt manh mún, tự phát, chi phí cao.
Trong một nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất theo lối tự cung tự cấp thì việc
sản xuất phân tán, tự phát là tất yếu. Chi phí sản suất của trồng trọt ở mức rất
cao. Chính vì vậy nông dân gần như không có lãi hoặc lãi rất thấp. Lao động
trong nông nghiệp vẫn chủ yếu là lao động thủ công nên công sức bỏ ra của
người lao động là rất lớn.
1.3 .Chăn nuôi thiếu tập trung, trình độ thấp, chãi lượng kém, chi phi cao và
rủi ro lớn
Chăn nuôi phân tán gây khó khăn cho việc kiểm soát dịch bệnh, tiêu thụ hàng
18
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
hoá và xây dựng các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, chủ yếu ứng
dụng công nghệ truyền thống nên năng suất thấp, chất lượng và vệ sinh an toàn
thực phấm không đảm bảo, chi phí sản xuất chăn nuôi còn cao. Đây là bất lợi
rất lớn trong cạnh tranh, thậm chí ngay tại thị trường trong nước. Ngành chăn
nuôi cũng là ngành có rủi ro lớn. Do các lọai dịch bệnh diễn biến thường xuyên
và phức tạp.
1.4) Công nghiệp chế biến ở nước ta còn chậm phát triển
Công nghệ chế biến với trình độ công nghệ còn lạc hậu. Đó là lí do để công suất
hoạt động của ngành thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu chế biến nông sản. Năng
suất thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao.
Cụ thể: Trong tổng số 39 nhà máy đường đang hoạt động có 18 nhà máy dùng
thiết bị Trung Quốc và 12 nhà máy sử dụng thiết bị của nhiều nước khác có mức
độ áp dụng tự động hóa dây chuyền rất thấp. Vì vậy, đã đẩy giá thành sản phẩm
đường lên cao nên khó cạnh tranh với đường nhập khẩu. Thực hiện cam kết cắt
giảm thuế đối với đường nhập khẩu đã khiến đường ngoại tràn vào, chèn ép
đường nội. Kim ngạch nhập khẩu đường của Việt Nam đã tăng rất nhanh, từ 4,3
triệu USD (năm 2000) lên gần 136 triệu USD (năm 2012), tốc độ tăng lên tới
33,3%/năm. Đó là chưa tính đến lượng đường nhập lậu vào Việt Nam lên đến
200.000 tấn/năm
Công nghệ chế biến còn ở trong tình trạng phân tán kém tập trung. Sự phân tán
này gây khó khăn rất lớn cha việc thu mua nông sản và hình thành các khu công
nghiệp chế biến
Trong công nghiệp chế biến thì phần nhiều vẫn là các đơn vị của kinh tế Nhà
nước hoặc dưới dạng liên doanh hay các hợp tác xã. Trong khi đó khu vực kinh
tế tư nhân lại có rất nhiều tiềm năng về vốn, lao động và công nghệ để phát
triển ngành này.
19
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
1.5) Trình độ nhận íhức và trình độ chuvên môn của lao động trong khu vực
nông nghiệp còn thấp
Số lao động ở khu vực nông nghiệp (theo thống kê mới nhất của Bộ Lao động
Thương binh xã hội và Tổng cục thống kê) được đào tạo là 6,2%, còn lại 93,8%
lao động nông nghiệp là chưa qua đào tạo. Khu vực nông nghiệp nông thôn lại
là khu vực tập trung phần lớn lao động (trên 23,6 triệu lao động). Do hạn chế
về mặt lịch sử, lao động trong khu vục này không những có trình độ thấp kém
lại có rất nhiều thói quen xấu do tàn dư của một xã hội tiểu nông để lại.
2. Những thách thức của việc gia nhập WTO đến ngành nông nghiệp Việt
Nam
2.1 Cạnh tranh trong nông nghiệp ngày càng gay gắt hơn
Xét theo góc độ ngành và lĩnh vực, có cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh
trong nội bộ ngành. Xét theo phạm vi cạnh tranh, người ta chia ra thành cạnh
tranh ở thị trường trong nước và cạnh tranh ở thị trường quốc tế. Ở trên nhiều
phương diện, cạnh tranh diễn ra hết sức phức tạp. Trong cuộc cạnh tranh này
rất nhiều cá nhân, đơn vị sản xuất của Việt Nam đã thất bại trong quá trình cạnh
tranh đó. Thậm chí, có chủ thể còn thất bại ở chính mặt hàng mà mình có thế
mạnh hay thất bại ở trên chính thị trường của nước mình.
2.2 Sự phụ thuộc của nền kinh tế ngày càng tăng lên
Sự phụ thuộc này được biểu hiện rõ nhất ở sự phụ thuộc vào thị trường nước
ngoài. Mỗi biến động trên thị trường thế giới đều làm ảnh hửơng lớn đến nông
nghiệp nước ta. Trước hết là trên thị trường tiêu thụ hàng nông sản, sau đó đến
thị trường các yếu tố sản xuất, những thị trường giống, phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật, khoa học công nghệ, Sự phụ thuộc này ảnh hưởng rất lớn đến giá cả,
20
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
sán lượng, chất lượng sản phẩm, làm cho đời sống của người nông dân khó
khăn và bấp bênh trước xu thế hội nhập.
2.3 Phân phối lợi ích không đều giữa các tầng lớp dân cư
Sự phân phối lợi ích giữa các tầng lớp dân cư có sự phân hoá rõ rệt. Đó là lí do làm
cho sự phân hóa giàu nghèo ở trong khu vực nông thôn đang diễn ra trên mọi lĩnh
vực của đời sống. Khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn xuất hiện một bộ phận
dân cư giàu có hơn hẳn bộ phận cư dân còn lại. Trong khi đó lại có những người
đang nghèo đi một cách tương đối và tuyệt đối. Sự phân phối không đồng đều thể
hiện rõ nhất trong thu nhập của người nông dân. Thu nhập bình quân đâu người
nước ta hiện nay khoảng 900USD, trong khi đó thu nhập bình quân đầu người ở
khu vực nông thôn chỉ khoảng 400-500USD, thậm chí có nơi thu nhâp chỉ đạt tới
l00USD/lngười/lnăm. Vây mà có một bộ phận cư dân nông thôn thu nhập khá cao,
đạt mức 8000- 10000USD/lngười/lnăm. Đó cũng là nguyên nhân tiềm tàng của bất
bình đẳng xã hội ở trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
3. Môi trường, an ninh, văn hóa truyền thống và lối sống có nhiều biến đổi
tiêu cực
Tất cả những vấn đề đặt ra như ô nhiễm môi trường, an ninh quốc phòng diễn biến
phức tạp, văn hóa truyền thống và lối sống cũng biến đổi ngày càng xa rời văn hóa
truyền thống dân tộc.
CHƯƠNG III:
ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG SẮP TỚI TRONG LĨNH VỰC NÔNG
NGHIỆP CỦA VIỆT NAM.
21
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
I, NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC
TRONG NÔNG NGHIỆP KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO:
1, Nguyên nhân khách quan:
- Nông nghiệp nước ta có điểm xuất phát tương đối thấp
- Về mặt tự nhiên, nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, độ ẩm
không khí cao, diện tích bờ biển dài, diện tích đất canh tác ít, Đây chính là
nguyên nhân gây hậu quả như: thiên tai, sâu bệnh, thiếu diện tích đất canh
tác,
- Sự biến động của tình hình kinh tế chính trị trên thế giới
- Cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường toàn cầu
2,Nguyên nhân chủ quan:
- Nông nghiệp Việt Nam phải trải qua một thời gian rất dài duy trì cơ
chế quản lý kiểu “cộng sản thời chiến” và cơ chế tập trung bao cấp đến tận
những năm sau chiến tranh.
- Trình độ dân trí và trình độ chuyên môn của khu vực nông nghiệp,
nông thôn thấp nhất trong cả nước dù là khu vực tập trung nhiều lao động
nhất.
- Thiếu hiểu biết về pháp luật là nguyên nhân gây ra nhiều hệ quả đáng
tiếc cho người lao động. Bên cạnh đó, người lao động còn thiếu trang bị
những kĩ năng cần thiết về kinh tế thị trường
- Đường lối, chính sách phát triển ở khu vực nông thôn còn thiếu sự
đồng bộ và tính khả thi
- Do sự yếu kém của cán bộ làm việc trong khu vực nông nghiệp nông
thôn.
II, GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
22
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước:
1.1, Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, về chống độc quyền, chống bán
phá giá đối với thị trường nông sản.
Một mặt, để bảo vệ hàng nông sản trong nước trước những cạnh tranh không lành
mạnh của các đối tác nước ngoài và cả những đối tác trong nước, bảo vệ những người
làm ăn chân chính.
Mặt khác, đây cũng là thời điểm nông nghiệp nước ta phải quan tâm hơn đến pháp luật
về cạnh tranh, về chống độc quyền, chống bán phá giá khi tham gia vào thị trường
quốc tế. Làm như vậy không những bảo vệ được thị trường nông sản trong nước mà
còn tránh được những thiệt hại không đáng có do không am hiểu về luật pháp quốc tế
khi tham gia vào quan hệ kinh tế quốc tế.
1.2, Xoá bỏ chính sách bao cấp về giá, thay thế bằng chính sách hỗ trợ
Sở dĩ phải làm như vậy là do nước ta phải thực hiện những cam kết với WTO về trợ
cấp trong nông nghiệp. Theo những điều khoản trong cam kết, Việt Nam phải ngừng
việc bao cấp về giá, chuyển từ bao cấp về giá sang hỗ trợ nông dân. Đây là biện pháp
mà nhiều quốc gia thành viên của WTO hiện nay vẫn đang thực hiện.
Về nguyên tắc, WTO không cấm tất cả các hình thức hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước
vẫn có thể tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ nghiên cứu triển khai,
khuyến nông, chuyển giao công nghệ, đào tạo giáo dục, phát triển nguồn nhân lực.
WTO cũng cho phép nhiều hình thức hỗ trợ vùng nghèo và một số khâu trong sản xuất
nông nghiệp. Như vậy, Nhà nước cần giúp cho nông dân tiếp cận các thông tin về thị
trường bên cạnh việc định hướng thị trường sản xuất, và làm ở mức độ như thế nào.
Điều này sẽ tạo nhiều cơ hội cho nông dân trong việc cạnh tranh với các mặt hàng
cùng loại.
23
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
1.3, Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Một khó khăn rất lớn của nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO đó là vốn. Các
hoạt động tài chính, tín dụng ở khu vực nông thôn gần đây đã có nhiều chuyển biến
tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành nông nghiệp nước ta.
Ví dụ:
-Cần cấp bách đầu tư để giải quyết hoặc chí ít là giảm nhẹ ảnh hưởng do hạn hán và
xâm nhập mặn, nghĩa là cần đầu tư mạnh hơn cho thủy lợi.
Xây dựng cơ sở hạ tầng: cùng với thủy lợi, việc nâng cấp và xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng ở nông thôn, nhất là hệ thống đường bộ, có ý nghĩa rất quan trọng. Cơ sở hạ
tầng tốt là điều kiện thuận lợi để nông dân giảm chi phí sản xuất và tăng thu nhập, từ
đó mới có cơ hội tiếp thu và ứng dụng công nghệ, kỹ thuật canh tác hiện đại để tăng
năng suất.
Ví dụ: Trong hơn ba năm qua, Chính phủ đã dành ngày càng nhiều ngân sách hơn để
đầu tư cho nông nghiệp và khu vực nông thôn. Thế nhưng, những nỗ lực đó vẫn chưa
đủ. Bằng chứng là khu vực ĐBSCL, nơi sản xuất ra lượng gạo và thủy sản xuất khẩu
lớn nhất nước, lại là một trong những vùng có hệ thống giao thông đường bộ, giáo dục
kém nhất.
Cần cho nông dân vay không thế chấp 20 - 30 triệu đồng. Hội Nông dân cần làm cầu
nối giữa nông dân với ngân hàng, đảm bảo cho nông dân được vay không cần thế chấp
20 - 30 triệu đồng, để những nông dân mới thoát nghèo có thể làm giàu.
1.4, Mở rộng chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là một ngành mà quá trình phát triển nó chứa đựng nhiều rủi ro. Nhiều
nông dân vì sợ rủi ro nên không dám đầu tư sản xuất. Người nông dân rất cần và rất
nên mua bảo hiểm phòng ngừa rủi ro. Có thể nói nếu bảo hiểm phòng ngừa rủi ro ở
24
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
khu vực nông nghệp mà khả thi thì đây sẽ là dấu hiệu rất đáng mừng đối với nông dân,
nhất là những nông dân sản xuất với quy mô lớn.
Hiện nay nhu cầu về bảo hiểm trong nông nghiệp đang rất cao, nếu Nhà nước không
vào cuộc để có những định hướng và hướng dẫn cụ thể thì hoạt động này chắc chắn sẽ
đi theo hướng tự phát. Khi đó việc kiểm soát nó còn khó hơn là mở rộng và phát triển
loại dịch vụ này.
1.5, Đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính, trước hết là thủ tục hành chính
trong lĩnh vực nông nghiệp:
Trong bối cảnh hội nhập WTO, sự yếu kém của một nền hành chính trong khu vực
nông nghiệp nông thôn gây ra rất nhiều khó khăn: cản trở việc thu hút vốn đầu tư và
quá trình thực hiện các dự án trong nông nghiệp. Việc liên kết “bốn nhà” trở nên khó
khăn, đặc biệt là liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp.
Không ai "chủ xị" trong chương trình liên kết "4 nhà". Nông dân làm ra sản phẩm
nhưng không quyết định được giá cả. "4 nhà": nhà nông, Nhà nước, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp thì mạnh ai nấy làm, không ai "chủ xị". Trúng mùa thì giá thấp, muốn
trúng giá thì phải mất mùa.
=>>Trước mắt, phải nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước, của đội ngũ
cán bộ công chức trong lĩnh vực này.
Tạo ra một môi trường thông thoáng trong đầu tư, nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư của
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chỉ có thu hút đầu tư, đặc biệt đầu tư để xây dựng
cơ sở hạ tầng, xây dựng các vùng chuyên canh, các khu chế xuất thì mới tạo ra cơ hội
để nông nghiệp ở các khu vực đó phát triển và mới có thể làm thay đổi diện mạo của
nông thôn khu vực đó.
25
Tiểu luận nhóm 9: Nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO