Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

luận văn thạc sĩ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH CÀ MAU TỪ 1997 - 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.2 KB, 111 trang )

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xÃ
của Đảng bộ tỉnh cà mau từ 1997 - 2007

Hµ néi - 2009


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH CÀ MAU TIẾN HÀNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI
LẬP ( 1997 – 2001 )

7

1.1. Tình hình kinh tế xã hội và đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Cà Mau trước những yêu cầu đặt ra khi tái lập
1.2. Chủ trương, biện pháp và quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt

7

cấp xã của Đảng bộ Cà Mau trong những năm đầu tái lập (1997 – 2001)

25

Chương 2: CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH CÀ MAU NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
( 2002 – 2007 )



37

2.1. Yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Cà Mau trong
tình hình mới
2.2. Quá trình lãnh đạo, tổ chức, thực hiện, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã của Đảng bộ Cà Mau ( 2002 - 2007)

37
49

Chương 3: THÀNH CÔNG VÀ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở TỈNH CÀ MAU ( 1997 - 2007)

66

3.1. Những thành công bước đầu trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau
3.2. Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở tỉnh Cà Mau (1997 - 2007)

66
89

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

98
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
10

PHỤ LỤC

2
10
8


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chđ tÞch Hå Chí Minh từng khẳng định: Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc; muụn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Trong cách
mạng giải phóng dân tộc, do làm tốt công tác cán bộ, Đảng ta đà có đợc đội ngũ
cán bộ có đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực tổ
chức thực tiễn ngang tầm nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ các cấp đà đa chủ trơng, đờng lối của Đảng thâm nhập vào quần chúng, tổ chức, lÃnh đạo quần chúng vợt
qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu anh dũng, làm nên thắng lợi lịch sử của
cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ xâm lợc, giành độc lËp, tù do cho d©n téc, thèng nhÊt Tỉ qc, đa cả nớc đi
lên chủ nghĩa xà hội.
Hơn hai mơi năm qua, đất nớc ta tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xà hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đảng ta chủ trơng phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng
xà hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; mở rộng
dân chủ xà hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị; xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; củng cố quốc phòng và an ninh, mở rộng

quan hệ đối ngoại, v.vĐể nâng cao sự lÃnh đạo của Đảng lên ngang tầm với
nhiệm vụ chính trị, chủ động nắm thời cơ, vợt qua thách thức và nguy cơ, thực
hiện thắng lợi mục tiêu chiến lợc và đờng lối của Đảng đề ra trong giai đoạn hiện
nay, công tác cán bộ của Đảng trở thành "khâu then chốt của vấn đề then chốt".
Nhận thc c việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đóng vai
trò hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nớc hiện nay, Hội nghị Ban
chp hnh Trung ơng năm khoá IX đà ra Nghị quyết :Về đổi mới và nâng cao
chất lợng hệ thống chính trị ở cơ sở. Nghị quyết đà chỉ ra nhiệm vụ xây dựng đội
ngũ cán bộ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay là: Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở


2
có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đờng lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nớc, công tâm, thạo việc, tận ty với dân, biết phát huy sức dân, không
tham nhũng, không ức hiếp dân.
Trong thụứi gian vừa qua, ở nước ta đội ngũ cán bộ ở cơ sở nói chung và đội
ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở nói riêng đã được Đảng, Nhà nước và các cấp uỷ
đảng, chính quyền quan tâm xây dựng và củng cố. Từ đó chất lượng đội ngũ cán
bộ từng bước được nâng lên. Tuy nhiên so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay đặt ra một đòi hỏi cấp bách là phải đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ của Đảng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xó.
Cà Mau là tỉnh mới đợc tái lập (năm 1997), có nhiều tiềm năng, nhng trớc
mắt điều kiện kinh tế - xà hội còn nhiều khó khăn. Tuy vậy, với sự quan tâm của
các cấp uỷ đảng, đội ngũ chủ chốt của các xà trong tỉnh đà có bớc trởng thành
đáng kể, là nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xà hội, giữ vững ổn
định chính trị, quốc phòng và an ninh ở địa phơng trong những năm qua. Song,
so với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay và thời gian tới, đội ngũ cán bộ này còn bất
cập về nhiều mặt: trình độ, năng lực tổ chức thực tiễn, phẩm chất đạo đức... Vì
vậy, việc nghiên cứu và đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xà trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay là vấn đề vừa cần thiết, cấp

bách, vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài.
Trc u cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước; thực hiện đồng
bộ cải cách hành chính nhà nước; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, thì đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Cà Mau còn nhiều hạn chế, bất cập như: trình độ trí tuệ, phẩm chất, đạo đức,
năng lực trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Để thực hiện thắng
lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh đề ra, Đảng bộ tỉnh Cà Mau phải xây
dựng hệ thống chính trị các cấp, trong đó có hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh. Muốn đạt được mục tiêu đó, Đảng bộ tỉnh Cà Mau phải chú trọng giải


3
quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó phải xây dựng được đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã có bản lĩnh và trình độ trí tuệ, có phẩm chất đạo đức, có năng lực tổ chức
hoạt động thực tiễn.
Từ thực tế đó, tơi chọn đề tài: "Cơng tác x©y dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xà ca ng bộ tØnh Cµ Mau tõ 1997 - 2007" lµm luËn văn thc
s. õy cng l vn cp bỏch, l phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành
chính nước ta hiện nay, phù hợp với thực tiễn của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề cán bộ và cơng tác cán bộ, trong đó cơng tác xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở là nội dung được các nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và được nhiều
nhà khoa học nghiên cứu ở những góc độ, phạm vi khác nhau. Trong những
cơng trình, đề tài nghiên cứu đó, đã có những đóng góp nhất định trong việc
vạch ra chủ trương và tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở cơ sở. Có thể tập hợp theo từng nhóm đề tài
sau:
- Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Học viện Nguyễn
i Quốc: “Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị
chủ chốt cấp cơ sở”, 1992; Tiến só Nguyễn Văn Tích (chủ biên): “Xác định cơ

cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, phương, thị trấn)”,
Nhánh đề tài KT-XH. 05-11-06, 1993; Trần Văn Phòng “Tiêu chuẩn đạo đức
của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay”…
- Nhóm đề tài về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở: Hồ Bá Thâm: “Nâng cao năng lực tư duy của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay”, Luận án Tiến só Triết học,
1994; Phó Giáo sư, Tiến só Trần Xuân Sầm chủ biên: “ Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi
mới”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Phạm Công Khâm: “
Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng sông Cửu Long


4
hiện nay”, Luận văn Thạc só, 1998; Phan Thị Ngọc Dung: “Đảng bộ Séc
(Đồng Tháp) chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở (1975 – 1996) Luận án
Tiến só, 2000; Trần Trung Trực: “ Xây dưng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc só , 2000; Trần Dũng Khanh: “Đảng
bộ Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (1986
– 1999), Luận văn Thạc só, 2008; Đỗ Hoài Thanh : “Đảng bộ các tỉnh tây
nam bộ lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ
năm 1997 đến 2005”. Luận văn Thạc só , 2006; Nguyễn Thị Vân Hằng:
“Đảng bộ Tỉnh Lào Cai lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ
chốt của hệ thống chính trị cấp cơ sở (1991 – 2005).
Nhìn chung các cơng trình nêu trên có đề cập đến đội ngũ cán bộ cấp cơ sở,
nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiờn cu v
ti: Cụng tỏc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xà ca ng b
tỉnh Cà Mau tõ 1997 - 2007” một cách có hệ thống, tồn diện tại Cà Mau cho
đến nay. Từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm, giải pháp có tính khả thi
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã ở tỉnh Cà Mau trong giai

đoạn mới. Từ yêu cầu đó, tác giả chọn nghiên cứu vấn đề này trên cơ sở kế thừa
có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu nêu trên và căn cứ vào thực trạng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã của tỉnh, nhằm góp phần nâng cao kiến thức đã học và
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau ngang tầm
nhiệm vụ mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực trạng của công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau từ khi tái lập cho đến năm 2007,
luận văn làm rõ vai trị quan trọng của cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ


5
chốt cấp xã ở một địa phương cực nam của tổ quốc có vị trí quan trọng về kinh
tế, chính trị của đất nước “ mãnh đất đứng mũi chịu sào”. Từ đó góp phần tổng
kết thực tiễn về cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ ở địa phương, đúc rút những
kinh nghiệm chủ yếu làm cơ sở lịch sử cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã trong thời gian tới đáp ứng với yêu cầu mới của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ vai trò, đặc điểm của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của Đảng bộ
tỉnh Cà Mau trong giai đoạn 1997 – 2007. Hệ thống hóa các quan điểm, chủ
trương của Đảng và của Đảng bộ tỉnh Cà Mau về công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ này của Đảng bộ tỉnh Cà Mau, nêu rõ ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân của thực trạng và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.
- Đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở tỉnh Cà Mau góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về xây dựng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã. Bao gồm một số chức danh chủ yếu như: Bí thư Đảng ủy, phó
bí thư trực Đảng ủy, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân, phó chủ tịch Uỷ Ban Nhân
Dân, chủ tịch Mặt Trận tổ quốc, Bí thư đồn thanh niên, Hội trưởng hội phụ nữ,
Chủ tịch hội cựu chiến binh…
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn nghiên cứu thực trạng đội
ngũ cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã từ năm 1997 2007. Đồng thời, nêu ra kinh nghiệm, bài học, để định hướng xây dựng đội ngũ
cán bộ này trong thời kỳ mới.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


6
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Leânin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và
công tác cán bộ.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn xây đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của tỉnh Cà Mau ở tất cả các
xã trên địa bàn tỉnh từ 1997 - 2007.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và kết hợp với
khảo sát thực tế, thống kê, đặc biệt coi trọng phơng pháp kho sỏt thc t.
6. Đóng góp khoa học và ý nghóa thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau giai đoạn 1997 - 2007.
- Rút ra kết quả và nêu lên một số kinh nghiệm trong quá trình xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau, góp phần nghiên cứu việc tăng
cường và đổi mới công tác cán bộ ở cơ sở.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo bổ ích

cho các đảng bộ huyện, thành phố và xã trong công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi các phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


7

Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH CÀ MAU TIẾN HÀNH XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI LẬP
(1997 - 2001)

1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP XÃ Ở TỈNH CÀ MAU TRƯỚC NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA KHI TÁI LẬP

1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và những đặc điểm về kinh tế, văn
hoá, xã hội
Cà Mau là tỉnh cực Nam của nước Việt Nam, được tách ra từ tỉnh Minh
Hải từ ngày 01 tháng 01 năm 1997. Hình dạng tỉnh Cà Mau giống chữ V, có 3
mặt tiếp giáp với biển. Phía Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đơng Bắc giáp tỉnh
Bạc Liêu, phía Đơng và Đơng Nam giáp với biển đơng, phía Tây giáp với Vịnh
Thái Lan. Tỉnh Cà Mau nằm trong vùng kinh tế động lực của đồng bằng sông
Cửu Long. Trong mối quan hệ của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tỉnh Cà
Mau là điểm đến của một số tuyến quốc lộ và đường thủy quan trọng. Trong mối
quan hệ của khu vực, Cà Mau nằm trong hành lang phát triển phía nam của tiểu
vùng Mê kơng mở rộng.
Diện tích phần đất liền 5.329,5 km 2 (bằng 13,13% diện tích đồng bằng
sơng Cửu Long) bằng 1,58 % diện tích cả nước). Ngồi phần đất liền, Cà Mau

có các đảo Hịn Khoai, Hịn Chuối và Hịn Đá Bạc, diện tích các đảo xấp xỉ 5
Km2. Địa hình tồn tỉnh thuần nhất là đồng bằng, có nhiều sơng, rạch, độ cao
bình qn 0,5 m so với mặt nước biển. Hàng năm ở vùng Mũi Cà Mau bồi ra


8
biển 50 m; bờ biển phía đơng từ của sơng Gành Hào đến vùng của sơng Rạch
Gốc bị xói lở, có nơi mỗi năm 20m.
Chiều dài bờ biển Cà Mau 254 km. Vùng biển Cà Mau rộng trên 71.000
km2, tiếp giáp với vùng biển của các nước: Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Biển
Cà Mau có vị trí nằm ở trung tâm vùng biển các nước Đơng - Nam Á nên có
nhiều thuận lợi giao lưu, hợp tác kinh tế bằng đường biển, phát triển kinh tế biển,
khai thác dầu khí và tài ngun khác trong lịng biển.
Khí hậu Cà Mau là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt
cao, rất thuận lợi cho việc phát triển đa dạng cây, con trong sản xuất nông nghiệp
và nuôi thủy, hải sản. Nhiệt độ trung bình 26,5 0c. Nhiệt độ trung bình cao nhất
trong năm vào tháng 4 khoảng 27,60c; nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 01
khoảng 250c. Biên độ trung bình trong một năm là 2,70c. Trong năm có hai mùa,
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.300mm. Số giờ nắng trong năm
2.500 giờ. Độ ẩm tương đối 82%.
Toàn bộ diện tích đất đai Cà Mau chịu ảnh hưởng của hai chế độ nhật triều.
Nhật triều không đều ở biển Tây và bán nhật triều ở biển Đông. Do ảnh hưởng
chế độ thủy triều, dẫn đến việc xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền vào mùa
khô, gây úng lụt một số vùng vào mùa mưa. Cà Mau là vùng đất thấp, thường
xuyên bị ngập nước, đặc biệt là vào mùa mưa. Trong đó, có khoảng 90% diện
tích đất ngập mặn có chứa phèn. Những đặc trưng này đã hình thành nên những
vùng đất và môi sinh rất đặc trưng của Cà Mau, quyết định đến nhiều hệ thống
canh tác nông nghiệp của tỉnh. Cà Mau là vùng đất trẻ của đồng bằng sơng
Cửu Long có sự lắng bồi từ Rạch Mũi đến Tiểu Dừa (biển Tây) và xói lở từ

Rạch gốc đến Gành Hào (Biển đông). Đất canh tác gồm 4 loại chính: Đất
nhiễm phèn khoảng 60% diện tích đất tự nhiên, đất nhiễm mặn khoảng 37%,
đất bãi bồi khoảng 1,5%, đất than bùn 1,5%. Do đặc trưng thổ nhưỡng và chế


9
độ thủy văn như trên nên việc sử dụng đất ở Cà Mau đã hình thành các vùng.
Vùng trồng cây lương thực, thực phẩm, vùng trồng cây lâu năm, vùng trồng tràm
và trồng cây công nghiệp, vùng nuôi trồng thủy sản. Trong đó, diện tích đất và
mặt nước ni trồng thủy sản 229.190 ha, đất nông nghiệp 142.428 ha, đất lâm
nghiệp 106.085 ha. Nguồn nước ngọt cung cấp cho nông nghiệp chủ yếu là nước
mưa. Nước ngọt cung cấp cho sinh hoạt và công nghiệp là nước ngầm. Nước mặn ở
Cà Mau là tài nguyên quý giá, rất thích hợp cho việc phát triển lâm, ngư nghiệp,
nuôi tôm cá.
Cà Mau có 9 đơn vị hành chính cấp huyện và 97 đơn vị xã, phường, thị
trấn. Dân số 1.234.896 người bao gồm ba dân tộc, kinh 96%, Hoa 1,5% , Khmer
2,5% . Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm 1,55%. Mật độ 232 người/ 1 km 2.
Dân số nông thơn 975.641 chiếm 79%. Tồn tỉnh có 211.820 hộ dân (thời điểm
năm 2007).
Mặt bằng văn hóa của nhân dân cịn thấp, nguồn nhân lực còn nhiều hạn
chế, cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh theo thống kê cuối năm 2007 cho thấy,
trình độ cao đẳng trở lên có khoảng 4.921 người/1.234.896 triệu dân, trong đó số
có 02 tiến sĩ, 95 thạc sỹ. Lao động ở Cà Mau dồi dào nhưng đa số có học vấn
thấp, trình độ, kỹ năng lao động hầu như không cao, chủ yếu lao động giản đơn.
Khu vực đô thị dân cư khá tập trung, số còn lại rất phân tán và rải rác, nơi tập
trung chủ yếu các vùng trung tâm xã, đầu mối giao thơng và dọc theo các trục
kênh chính, các dịng sơng, con rạch.
Cà Mau là tỉnh có nhiều tơn giáo và giáo phái. Hai tơn giáo ra đời sớm
nhất, có tín đồ đơng nhất là Đạo phật và Thiên chúa. Các Tôn giáo khác ra đời
chậm hơn như Cao đài, Tin lành. Các giáo phái gồm có Cao Đài Minh Chơn

đạo, Tiên thiên, Tây Ninh, thiên lâm, tịnh độ cư sĩ, khất sĩ, ni giới Việt Nam.
Về mặt lịch sử, Cà Mau là vùng đất trẻ được hình thành trên 300 năm. Dân
cư Cà Mau khơng hình thành từ các lũy tre làng như các tỉnh phía Bắc, mà dân


10
cư Cà Mau là dân khắp nơi trong cả nước về cùng chung sống. Đặc điểm nổi bậc
của cư dân nông thôn Cà Mau là họ định cư rải rác trên các bờ sông, kênh rạch,
nhà gắn với vườn, vườn gắn với ruộng. Người Hoa, Kinh, Khmer sống đan xen
nhau, ln tương trợ đồn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, phong cách ứng
xử của người dân Cà Mau mang tính nơng dân chất phát, tính bộc trực, thẳng
thắn, phản kháng mạnh mẽ trước bất công của xã hội.
Sau khi được tái lập, bên cạnh những thuận lợi, Đảng bộ và nhân dân Cà
Mau gặp khơng ít khó khăn. Thuận lợi cơ bản là Cà Mau tiếp tục kế thừa và phát
huy những kinh nghiệm, thành quả của quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, xã
hội của tỉnh Minh Hải để lại; nhân dân Cà Mau có truyền thống cách mạng kiên
cường, cần cù, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, công tác học tập.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong đấu
tranh cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết với bao công việc
kiến thiết xây dựng quê hương.
Khó khăn nổi rõ nhất là Cà Mau vẫn còn là tỉnh nghèo, mặt bằng phát triển
kinh tế - xã hội còn thấp so với các tỉnh trong khu vực, kết cấu hạ tầng phục vụ
cho sản xuất, đời sống còn nhiều yếu kém. Còn 38 xã chưa có đường ơ tơ đến
trung tâm. Hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất ở các vùng, tiểu vùng không
bảo đảm. Nền sản xuất của tỉnh phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún,
năng suất, sản lượng, hiệu quả cịn thấp, tính cạnh tranh yếu. Đời sống nhân dân,
nhất là nông dân ở những vùng nơng thơn xa xơi cịn rất nhiều khó khăn. Hầu
hết các cơ sở đào tạo nằm ở tỉnh Bạc Liêu; đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp tỉnh bị
biến động, thiếu nghiêm trọng, chỗ nơi phương tiện làm việc khơng thuận lợi.
Có lúc nội bộ lãnh đạo ở tỉnh có nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết, việc tập

trung lo cho công việc chung hạn chế.
Đánh giá đúng những thuận lợi và những khó khăn đó, được sự chỉ đạo
của Trung ương, sự nổ lực khắc phục những khó khăn, yếu kém, Đảng bộ


11
tỉnh tăng cường đoàn kết thống nhất, phát huy truyền thống cách mạng vẻ
vang, tính năng động sáng tạo, khai thác phát huy nguồn lực tại chỗ, đẩy
mạnh khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương, tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp; sớm ổn định, kiện toàn
bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Từ những việc làm thiết thực đó,
sau hơn 10 năm được tái lập, Đảng bộ Cà Mau đã giành được những thành
quả rất quan trọng và khá toàn diện. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng
hướng, những vùng chuyển đổi sản xuất từ trồng lúa sang nuôi tôm, tôm lúa phát huy hiệu quả rất rõ, năng lực, quy mô chế biến xuất khẩu hàng hóa
thủy sản tăng vọt, Cà Mau góp phần ¼ giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng
thủy sản của cả nước; tăng trưởng GDP của tỉnh đạt khá, tăng dần qua hàng
năm (bình quân từ năm 1997 - 2007 đạt trên 10%); thu nhập bình quân đầu
người từ khoảng 150 USD/năm 1997 lên trên 785 USD/năm 2005. Kết cấu
hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống phát triển khá nhanh, nhất là hệ
thống giao thông bộ. Đến nay, đã có đường ơ tơ đến 7 huyện (năm 1997 là
khơng có), 43 xã (năm 1997 có 3 xã). Thu hút đầu tư ngồi tỉnh có nhiều
triển vọng, khu cơng nghiệp khí - điện - đạm đã tạo động lực mạnh mẽ thúc
đẩy quá trình phát triển của Cà Mau trong thời gian tới.
Những năm đầu tái lập tỉnh, tình hình kinh tế, xã hội ở tỉnh Cà Mau có
bước phát triển khá, kinh tế tăng khá cao (12,35 %/năm), tình hình chính trị - xã
hội ổn định, đời sống nhân dân được nâng lên; việc xây dựng, chỉnh trang đô thị
được quan tâm đầu tư, v.v…Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tỉnh
Cà Mau vẫn còn một số lĩnh vực phát triển chậm, thiếu bền vững, chậm triển
khai quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính một cách lâu dài. So với khi mới
tái lập tỉnh, số lượng cấp huyện, xã có tăng nhưng khơng đồng bộ với sự phát

triển đơ thị. Tỉnh Cà Mau có 8 phường chủ yếu ở thành phố Cà Mau và 8 thị trấn


12
ở 7 huyện (huyện Ngọc Hiển được thành lập và đi vào hoạt động 01-01-2004
đến nay, nhưng chưa có thị trấn trung tâm huyện lỵ).
Từ thực trạng nêu trên tỉnh Cà Mau có những đặc điểm sau:
Một là, trong số các đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) ở
tỉnh Cà Mau, thì đơn vị xã chiếm tỷ lệ cao nhất trong tồn tỉnh, được bố trí đều
khắp các huyện và thành phố Cà Mau, chiếm 83,5% (81/97 xã, phường, thị trấn).
Tỉnh xác định cơ cấu kinh tế của địa phương là Ngư - nông - lâm nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ và du lịch; coi sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế trọng yếu,
sản xuất thủy sản là thế mạnh và mũi nhọn trong phát triển nền kinh tế của địa
phương. Vì vậy, lĩnh vực nơng nghiệp - nơng thơn ở Cà Mau giữ vai trị trọng
yếu trong phát triển nền kinh tế - xã hội cuûa tỉnh.
Đồng thời, để phát triển kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả, tỉnh
quy hoạch vùng kinh tế của tỉnh thành vùng kinh tế nội địa, vùng kinh tế ven
biển và vùng kinh tế biển. Nông thôn ở Cà Mau nằm trong vùng kinh tế nội địa
của tỉnh, chủ yếu là nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp kết hợp nuôi cá
nước lợ, nuôi tôm, trồng cây ăn trái,.v.v…Trong vùng sản xuất này, tỉnh phân ra
thành hai tiểu vùng rõ rệt là: Tiểu vùng chuyên sản xuất nuôi trồng thủy sản,
gồm các huyện: Đầm Dơi, Cái Nước, Phú Tân, Năm Căn, Ngọc Hiển và 3 xã
của huyện Trần Văn Thời. Tiểu vùng sản xuất nông nghiệp kết hợp ni trồng
thủy sản, ni cá nước lợ và trồng cây ăn trái, rau, quả, gồm thành phố Cà Mau,
các huyện U Minh, Thới Bình và một phần huyện Trần Văn Thời. Mặc khác, ở
nông thôn Cà Mau nông dân chiếm 79 % dân cư trong toàn tỉnh và trên 70% lao
động xã hội, là nguồn nhân lực dồi dào cho phát triển các ngành, nghề sản xuất
khác nhau của tỉnh.
Hai là, tỉnh Cà Mau là phần lãnh thổ được bồi tụ và nâng lên trong thời
gian gần đây, là vùng đất trẻ duy nhất có 3 mặt tiếp giáp biển ở khu vực đồng

bằng Sơng Cửu Long (phía Tây giáp biển Tây, phía Đơng Nam và Nam giáp


13
biển Đơng, Vịnh Thái lan). Là tỉnh, có nhiều sơng ngịi chằng chịt, có tổng chiều
dài hệ thống sơng rạch trên 7.000 km, với tổng diện tích mặt nước 15.756 ha,
chiếm 3,02 % diện tích tự nhiên tồn tỉnh.
Về giao thông đường bộ, do điều kiện địa lý tự nhiên, tuy được trung
ương quan tâm đầu tư phát triển, nhưng vẫn gặp khơng ít khó khăn. Hiện nay,
tồn tỉnh có hai tuyến quốc lộ do trung ương quản lý (quốc lộ 1A và quốc lộ 63)
với chiều dài 108 km; tỉnh quản lý 74 tuyeán với tổng chiều dài 525 km, bằng
7,53 % chiều dài sông rạch trong tỉnh (525 km/7.000 km).
Các xã của tỉnh Cà Mau giao thơng đi lại chủ yếu bằng đường thủy,
phương tiện đi lại đa phần bằng phương tiện thủy gia dụng, kết hợp các phương
tiện dịch vụ. Tồn tỉnh có 99.379 phương tiện thủy nội địa (bình qn 0,55
phương tiện/hộ dân), có 263 tàu khách và các phương tiện dịch vụ khác. Đây là
đặc điểm nổi bật ở vùng sông nước Đồng bằng Sông Cửu Long nói chung và ở
tỉnh Cà Mau nói riêng.
Ba là, tỉnh Cà Mau có 3 mặt tiếp giáp biển, do đó có 24 xã, thị trấn nằm
tiếp giáp bờ biển đông, biển tây và các sông cửa biển lớn thơng ra biển. Vì vậy,
những đơn vị này trong phát triển kinh tế - xã hội vừa phải khai thác có hiệu quả
kinh tế nội địa (tức đầu tư cho nuôi trồng thủy sản nội địa); Vừa tập trung đầu tư
cho khai thác hải sản ven biển và biển. Có thể nói đây là một vị thế, một thế
mạnh để phát triển kinh tế của các xã vùng phía Bắc tỉnh Cà Mau.
Bốn là, về sản xuất, kinh doanh nội địa, Cà Mau là vùng đất được thiên
nhiên ưu đãi; kinh tế phát triển khá nhanh, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng
bình quân 4,48% thời kỳ 1986 - 1990, đến năm 2007 GDP tăng 12,35 % , tăng
so thời kỳ 1986 - 1990 là 275,67%. Từ đó, lượng dân di cư tự do đến đất Cà
Mau sinh sống, lập nghiệp ngày càng đơng. Đến nay có thể nói, dân di cư từ 63
tỉnh, thành trong cả nước về đây sinh sống, lập nghiệp trải trên tất cả các huyện,



14
thành phố Cà Mau, trong đó có huyện có dân di cư từ 37 tỉnh, thành trong cả
nước như các huyện Năm Căn, Ngọc Hiển.
Vấn đề dân di cư tự do đến Cà Mau, một mặt góp phần tích cực vào q
trình phát triển kinh tế, văn hố, xã hội trên địa bàn tỉnh. Nhưng mặt khác, có
những ảnh hưởng, tiêu cực đến quá trình phát triển nền kinh tế, an ninh trật tự,
các hoạt động khác ở vùng nông thôn trong tỉnh, do nạn phá rừng, hủy hoại môi
trường và các tệ nạn xã hội khác.
Năm là, về lĩnh vực văn hóa, xã hội: tỉnh Cà Mau cách xa các thành phố
lớn trong cả nước; cách thủ đô Hà Nội 2.085 km, cách thành phố Hồ Chí Minh
350 km và thành phố Cần Thơ 180 km. Từ đó, sự giao lưu, học hỏi và chịu sự
tác động tích cực của các Trung tâm đơ thị lớn gập nhiều khó khăn - nhất là lĩnh
vực văn hóa và các vấn đề về xã hội. Nhưng về văn hóa bản địa, Cà Mau nằm
trong quần thể văn hóa của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, đã lưu giữ một
nền văn hóa phong phú, đặc sắc, với nhiều di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc,
nghệ thuật…như: di tích đảo Hịn Khoai, chứng tích tội ác Mỹ - Ngụy “Biệt khu
Hải n - Bình Hưng”, di tích đình Tân Hưng, di tích Sắc tứ Quan âm cổ tự Cà
Mau…Tuy nhiên, việc bảo tồn, gìn giữ, hưởng thụ và phát triển nền văn hóa Cà
Mau, nhất là ở cơ sở cịn nhiều bất cập, lúng túng.
Về lĩnh vực xã hội: Bên cạnh mặt tích cực là ổn định xã hội, nhưng an
ninh trật tự đang nổi lên một số vấn đề như: Các băng cướp trên sơng có tổ
chức, trộm cắp, ma tuý, mại dâm, an ninh trên biển và trật tự an tồn giao thơng
(nhất là giao thơng đường thủy),... diễn ra phức tạp và diện rộng trên phạm vi
toàn tỉnh. An ninh nông thôn và các vụ thưa kiện trong nội bộ nông dân, tranh
chấp đất đai ngày càng tăng, làm cho tình hình diễn biến phức tạp hơn.
Sáu là, các xã ở tỉnh Cà Mau là đơn vị chính trị, kinh tế, văn hóa, thương
mại, dịch vụ ở cơ sở. Là nơi tập trung nhiều thành phần kinh tế, thương gia trong
và ngoài tỉnh về đây tham gia sản xuất, kinh doanh. Đây là điều kiện rất thuận



15
lợi để thiết lập mối quan hệ với các cơ quan tỉnh, huyện đóng trên địa bàn trong
q trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở và tạo điều kiện
cho các xã ở Cà Mau gần gũi với các thành phần kinh tế, thương gia; giúp đở,
tạo điều kieän thuận lợi cho họ trong qúa trình sản xuất, kinh doanh, góp phần
cùng cơ sở phát triển, hoạt động đạt kết quả cao hơn.
Bảy là, hệ thống chính trị các xã ở Cà Mau được tổ chức một cách chặt
chẽ, đều khắp. Các tổ chức của hệ thống chính trị bao gồm: Đảng bộ cơ sở,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, Hội Nơng Dân và Hội Cựu
chiến binh. Trong đó có 81 Đảng bộ, với 903 chi bộ trực thuộc (còn 49 ấp có
từ 1-2 đảng viên) và có 15.268 đảng viên, chiếm 61,72% đảng viên trong toàn
tỉnh; có 81 Hội đồng nhân dân cấp xã, mỗi ấp, khóm đều có tổ đại biểu Hội
đồng nhân dân; có 75 đơn vị, Ủy ban nhân dân cấp xã được bố trí 5 thành viên
và 6 đơn vị được bố trí 3 thành viên; mỗi xã trong tỉnh đều được thành lập Ủy
Ban Mặt Trận Tổ Quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị. Ở mỗi ấp, khóm có
Ban công tác Mặt trận, Chi đoàn Thanh niên, chi hội: Phụ nữ, Nông dân, Cựu
chiến binh; đồng thời hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức cho đại diện
nhân dân bầu trực tiếp trưởng ấp, khóm để quản lý, điều hành cộng đồng dân
cư.
Các xã ở tỉnh Cà Mau có vai trị hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp tổ
chức triển khai thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước trong thực tiễn; là cầu nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; nơi kiểm nghiệm
tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
đóng góp những kinh nghiệm quý báu giúp cho Đảng sửa đổi, bổ sung và đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn. Ngồi ra, các xã có
những đặc điểm gắn liền với điều kiện tự nhiên, phân bổ dân cư, phát triển kinh

tế - xã hội cuûa tỉnh. Nắm và xác định được vai trò, đặc điểm của cơ sở nêu trên


16
là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương ổn định, bền vững, có bước đi thích hợp. Đó cũng là, góp phần phát triển
đơ thị ở tỉnh Cà Mau nhanh hơn; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, đảm bảo vệ sinh môi trường, ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội
v.v…Để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ nêu trên, Cà Mau phải tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã nói riêng một cách chủ động, đồng bộ, đủ số lượng, có chất lượng, có cơ
cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài ở cơ sở và bổ sung lực lượng cán
bộ có đầy đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực cho các cấp trong tỉnh.
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Cà Mau
Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong suốt
quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng, người luôn coi trọng đến vai trị to lớn
của cán bộ, cơng tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng
lực và trình độ. Xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” đủ sức đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
đưa cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người luôn xác định: “Cán bộ
luôn là cái gốc của mọi công việc” [48, tr.269 ]. Người cũng lý giải một cách cặn
kẽ, dễ hiểu vai trò “cái gốc” của cán bộ thơng qua những bài nói, bài viết và việc
làm của Người. Vai trị đó, theo Người được thể hiện trong các mối quan hệ chủ
yếu: cán bộ với đường lối, chính sách; cán bộ với tổ chức bộ máy; cán bộ với
công việc và cán bộ với quần chúng. Như vậy, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cán bộ khơng chỉ là người vạch ra đường lối mà cịn có vai trị quyết
định trong việc tổ chức thực hiện đường lối đó. Người nói: “Cán bộ là người
đem chính sách của Chính phủ, của đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán
bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được”, “cán bộ là dây chuyền
của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy,

toàn bộ máy cũng tê liệt” [48, tr.54]. Điều đó, khẳng định chất lượng cán bộ là


17
nhân tố quyết định việc thực hiện cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng vào
đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ khơng phải là người
tuyên truyền, giải thích và tổ chức cho quần chúng thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mà phải sâu sát quần chúng, nắm bắt và
phản ánh kịp thời tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với
Đảng và Nhà nước để đề ra chủ trương, chính sách phù hợp thực tiễn khách
quan, hợp lòng dân. Người viết: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng” [48, tr.269]. Đối với cán bộ ở cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ
chủ chốt, vai trò này là rất quan trọng, là cấp gần gũi nhân dân, hàng ngày tiếp xúc
với dân, thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của dân. Do đó, người ln
nhắc nhở cán bộ “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ
trong quần chúng mà ra và trở lại nơi quần chúng” [48, tr.290] và Người kết luận:
“Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém” [48, tr.273].
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải là người từ phong trào
cách mạng của quần chúng, là người lãnh đạo, dẫn dắt quần chúng nhằm thực
hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng, người hết lòng, tận tụy phục vụ nhân dân,
ln chăm lo cho lợi ích của nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Trong di chúc, Người căn dặn toàn Đảng ta rằng: “Phải giữ
gìn Đảng ta, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân” [47, tr.131] .
Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ gắn liền với công tác tổ chức,
bộ máy. Cán bộ tốt sẽ làm cho tổ chức mạnh, chất lượng cán bộ phụ thuộc vào
kết quả của công tác tổ chức cán bộ. Có tổ chức mạnh, cơng tác cán bộ làm tốt sẽ
hạn chế và sửa chữa những khuyết điểm, giúp đở phát huy những ưu điểm của

cán bộ, ngược lại nếu cơng tác cán bộ trì trệ, làm cho cán bộ không phát huy tác


18
dụng. Người khẳng định: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to, lãnh đạo
khơng khéo, tài to cũng hoá thành tài nhỏ” [48, tr.280 ].
Quán triệt và thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng kiểu mới nói chung và vấn đề cán bộ nói riêng. Từ khi
thành lập đến nay, Đảng ta luôn xác định coi vấn đề cán bộ có tầm quan trọng
chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Từ đó, Đảng ta đặc biệt quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của từng thời kỳ cách mạng, đó là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Xác định được tầm
quan trọng đó, trong mỗi giai đoạn cách mạng, qua mỗi lần Ñại hội và Hội nghị
Trung ương, Đảng ta đều có chủ trương, nghị quyết xây dựng đội ngũ cán bộ
phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Đảng ta khẳng định: “Vấn đề cán bộ là
vấn đề rất quan trọng trong công tác tổ chức của Đảng, bởi vì cán bộ là người có
nhiệm vụ đem đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng tuyên truyền, giáo
dục quần chúng và tổ chức quần chúng thực hiện” [16, tr.160] và Đảng ta xác
định phải: “có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử
của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [23, tr.127]. Bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta càng nhấn mạnh đến
vai trò của cán bộ. Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII xác định: “Cán bộ là nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng” [23, tr.166]. Từ quan điểm
trên, Đảng ta quan tâm lãnh đạo xây dựng cho được đội ngũ cán bộ một cách đồng
bộ, đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Trong đó, đặc biệt chú trọng
xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán, trước hết là ở cấp chiến lược và cấp cơ sở.
Trong đó đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, có những vị trí hết sức quan
trọng. Họ thực sự là người thay mặt Đảng, nhà nước giải quyết công việc thường

ngày cho nhân dân và cũng là những người có quyết định trực tiếp đưa chủ


19
trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước vào địa bàn công tác. Họ là
những người được bầu cử, tuyển chọn, bổ nhiệm, đề bạt hay phân công giữ chức
vụ trọng trách trong hệ thống cơ sở; được hưởng lương hoặc chính sách đãi ngộ
của Đảng và Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống cơ sở. Đó chính là
những cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Cán bộ chủ chốt cấp xã là người: có quyền ra
những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể,
một đơn vị, một tổ chức để thực hiện nhiệm vụ của tập thể và tổ chức ấy, thậm
chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định. Trên cơ
sở ấy hiểu rằng: đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu quan
trọng nhất trong hệ thống của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và
đồn thể chính trị - xã hội ở xã là bộ phận quan trọng quyết định phương hướng
phát triển ở cơ sở, chịu trách nhiệm chính trong việc quán triệt các chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế trên địa bàn họ phụ trách. Từ chức năng và
nhiệm vụ trên, cán bộ chủ chốt cấp xã gồm các chức danh sau:
- Bí thư, phó bí thư Đảng ủy xã
- Chủ tịch, phó chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân xã
- Chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân xã
- Chủ tịch Mặt trận tổ quốc Việt Nam xã
- Chủ tịch Hội Nông Dân xã
- Chủ tịch Hội Phụ nữ xã
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã
- Bí thư Đồn thanh niên xã
Do đó, có được đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vững mạnh là nhân tố
đảm bảo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà
nước, đồng thời phát huy vài trị năng động, sáng tạo của các tổ chức chính trị

- xã hội cũng như đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trên địa bàn cấp xã.


20
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước yêu cầu phát triển của tỉnh, vai
trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của tỉnh Cà Mau có vị trí quan trọng,
thể hiện trên các phương diện sau:
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt xã giữ vai trò quyết định trong việc triển
khai tổ chức thực hiện và đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước vào đời sống xã hội tại cơ sở. Là những người giữ vai trò “trung
tâm”, “trụ cột” tại cơ sở, họ khơng những có trách nhiệm nắm vững đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đem chủ
trương, chính sách tun truyền, phổ biến, tổ chức cho quần chúng thực hiện
mà cịn phải có khả năng nắm bắt, am hiểu đặc điểm tình hình của cơ sở để đề
ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách đó
cho phù hợp với điều kiện, đặc điểm từng cơ sở và đi vào cuộc sống, việc tổ
chức thực hiện đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, tình hình kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác ở nông thôn
Cà Mau phát triển khá nhanh, việc đơ thị hóa trên cơ sở quy hoạch phát triển
mạnh. Địi hỏi đội ngũ cán bộ ở cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất, đạo đức toát và tư duy năng động, sáng tạo để cụ thể hóa chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phù hợp với cơ sở và thực tiễn
cuộc sống. Nhưng vấn đề này, đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Cà Mau còn nhiều
hẫng hụt, bất cập, chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ mới, dẫn đến một số cơ sở
lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội không hiệu quả, chưa khai thác hết tiềm
năng kinh tế ở địa phương v.v…
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt xã là những người trực tiếp, gắn bó với nhân
dân, có mối quan hệ chặc chẽ với nhân dân. Họ là người thường xuyên, trực
tiếp triển khai, hướng dẫn và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trong q trình đó, họ

đã tạo ra “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và ý Đảng lịng dân tạo


21
thành một khối thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước ăn sâu bám rễ trong
quần chúng, tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Mặc khác,
qua phong traøo cách mạng của quần chúng, giúp cho cán bộ cơ sở rút kinh
nghiệm, tổng kết thực tiễn góp phần vào xây dựng và hồn thiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Như vậy, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có đi vào đời
sống xã hội và trở thành hiện thực trên địa bàn tỉnh Cà Mau hay không là tùy
thuộc vào sự vận động, tuyên truyền nhân dân thực hiện của đội ngũ cán bộ
cơ sở trong tỉnh, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau là một mắc xích góp phần thúc đẩy q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp - nơng thơn của tỉnh Cà Mau.
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng có vai trị quan trọng trong
việc xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực
tiễn chứng minh, có lúc, có nơi hệ thống chính trị ở cơ sở mạnh, yếu và phong
trào cách mạng của quần chúng có phát triển hay khơng đều gắn với vai trò
của đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Về tổ chức bộ máy, họ là trụ cột, là trung tâm
đoàn kết nội bộ, là lực lượng huy tụ lực lượng tổ chức, sắp xếp, kiện toàn các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Mặc khác, cán bộ cơ sở ở Cà Mau có
vai trị quyết định đến năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở ñảng;
năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền và mọi hoạt động của
đồn thể quần chúng của cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Cà Mau có đầy đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm với nhiệm vụ mới là
nhằm xây dựng, củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; điều hành,
hoạt động của Nhà nước, đoàn thể quần chúng ở cơ sở và phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ xã hội của quần chúng nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế, xã hội của tỉnh Cà Mau.


22
- Xuất phát từ vai trị của cơ sở và cán bộ ở cơ sở, việc xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vững mạnh, có đầy đủ phẩm chất, năng lực, nhất
là năng lực trong thực tiễn là một trong những nguồn quan trọng cung cấp cán
bộ cho các cấp trong tỉnh. Bởi vì, thơng qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở, đội
ngũ cán bộ này đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, sự năng động và sáng tạo
của họ không ngừng được bổ sung và nâng cao. Trong thực tế, một số cán bộ
chưa được rèn luyện từ thực tiễn ở cơ sở, nên khi được phân cơng đảm nhận
các vị trí lãnh đạo ở cấp cao hơn thường khơng thích ứng với nhiệm vụ và sẽ
gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, cán bộ được thơng qua cơng tác ở cơ sở, thì
khi ln chuyển hay điều động về huyện, thành phố Cà Mau với vị trí cao
hơn, thì sẽ vững vàng, có bản lĩnh trong quyết đốn, xử lý cơng việc, thích ứng
nhanh với nhiệm vụ mới, đúng như Lênin khẳng định: “Cần đề bạt một cách có
hệ thống những người đã được thử thách qua thực tiễn” [41, tr.178]. Thực tiễn
nước ta, khi đề cập đến vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán
bộ công chức cơ sở không những là cái khâu liên hệ mà còn là cái kho dồi dào
cho Ñảng lấy thêm lực lượng mới. Nếu đội ngũ này phát triển và củng cố thì
Đảng sẽ phát triển và củng cố, bằng khơng Đảng sẽ khơ héo” [52, tr.237].
Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Cà Mau vững mạnh là
một mắt xích quan trọng đặc biệt trên các lĩnh vực và là cơ sở thực hiện chiến
lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Cà Mau
hiện nay, góp phần thúc đẩy tỉnh Cà Mau hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng một cách bền vững và ổn định.
Cấp xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thiết lập và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở và các tổ chức kinh tế, xã hội khác nhau, đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Xã phát triển tồn diện và vững
mạnh thì huyện mạnh; huyện mạnh thì tỉnh mạnh và tỉnh mạnh góp phần cùng



23
cả nước phát triển mạnh, bền vững sánh vai cùng các nước trong khu vực và
trên thế giới. Ngược lại, cấp cơ sở yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu
bền vững, tình hình an ninh chính trị diễn biến phức tạp, thì sẽ ảnh hưởng rất
lớn và trực tiếp đến huyện, thành phố và tỉnh. Điều đó khẳng định chủ trương
của Đảng ta hướng mạnh về cơ sở; khắc phục tình trạng hành chính hóa, xa
dân, phơ trương, hình thức là đúng đắn.
1.1.3. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Cà Mau trong
những năm đầu tái lập tỉnh
Cà Mau là tỉnh tuyến đầu cực Nam tổ quốc, địa bàn rộng và phức tạp,
giao thông chủ yếu là đường thủy, cơ sở hạ tầng kinh tế yếu kém, bị thiên tai
gây hậu quả nặng nề về người và của vào cuối năm 1997 đến nay tạm thời
khắc phục được một phần, đời sống nhân dân nói chung và đội ngũ cán bộ,
đảng viên gặp khơng ít khó khăn, gây trở ngại nhất định đến việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đảng bộ tỉnh Cà Mau được chia tách từ
Đảng bộ tỉnh Minh Hải và đi vào hoạt động từ ngày 01-01-1997, đội ngũ cán
bộ biến động sau khi chia tách tỉnh, song với tinh thần chỉ đạo tích cực của
cấp ủy, cơng tác tổ chức, cán bộ sớm ổn định và đi vào nền nếp, hoạt động có
hiệu quả.
Tồn tỉnh có 66 xã; 799 ấp, khóm; dân số gần 1,1 triệu người; có 66
đảng bộ cơ sở, 9.656 đảng viên.Về học vấn của cán bộ xã: Tiểu học cơ sở
chiếm 4,54%; cấp trung học cơ sở chiếm 51,53%; cấp Phổ thông trung học
chiếm 43,93%; chuyên môn nghiệp vụ: trung cấp chiếm 10,17%; đại học, cao
đẳng chiếm 4,62%; lý luận chính trị sơ cấp chiếm 26,33%, trung cấp chiếm
25,68%; cử nhân, cao cấp chiếm 1,89%.
Hệ thống tổ chức đảng, nhà nước được sắp xếp kiện tồn, cơ cấu cán bộ
bước đầu có đổi mới, phù hợp với yêu cầu của địa phương; từng bước thực
hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ; trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị của đội

ngũ cán bộ được nâng lên; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều


×