Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Hai đứa trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.94 KB, 20 trang )

Sách văn 11 , năm 1996 nhận định về truyện ngắn của Thạch Lam:" Mỗi
truyện ngắn là một bài thơ trữ tình đầy xót thương ( trang 148 ).
Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ để làm sáng tỏ nhận định trên.
Cần phân tích Hai đứa trẻ để làm nổi bật các ý sau đây :
- Chất thơ của truyện ( bài thơ trữ tình): những cảm xúc dịu nhẹ mà lắng sâu của Thạch Lam trước cảnh
đời, tình người lúc bấy giờ nó gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc ( ở đây
là những cảm xúc đối với người dân ở cái phố huyện nghèo nàn và tàn lụi - và đặc biệt đối với cuộc
sống buồn chán và ước mơ của hai đứa trẻ).
- Nhưng đó lại là mộ bài thơ trữ tình đầy xót thương, có nghĩa là chất thơ ấy được bay lên từ một cuộc
sống còn lầm than cơ cực của những kiếp người bé nhỏ vô danh trong xã hội cũ (họ sống lầm lũi , vật vờ
như những cái bóng trong bóng tối dầy đặc bao phủ kín mít của phố huyện nghèo mà buồn chán).
- Cái chất thơ ấy còn được thể hiện ở nghệ thuật, ở giọng điệu văn Thạch Lam.
BÀI LÀM:
Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí
số một nhưng cũng là một tên tuổi rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài
nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài
hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam người ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện
dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ Mỗi
truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương”.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế .
Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lại theo một hướng riêng. Ông
xây dựng cho mình một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những
người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giới nhân vật là những lớp người
nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tộI nghiệp: Họ
thường nép mình trong bóng tối của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc
những xóm nghèo ngoại ô Hà Nội. Nhân vật của ông chủ yếu là con người thân phận, họ thường tìm
kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏi cuộc đời,
nơi xã hội đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con người mới cảm nhận hết về mình và về cuộc sống
xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tại để xót mình và thương người, để bâng khuâng man
mác khi hồi tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong
lòng khi nghĩ về mai sau.


Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những
con người nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thương toả ra
một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả
Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình:
Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót
trước số phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man
mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu
hình ảnh, nhạc điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu
đây” khiến ta vương phải.
“ Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương”
Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa
trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng
ngườI bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấp
lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có
tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày
nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mớI chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện
như thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của
một thời gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tối
“đêm tối bao bọc chung quanh”; nó chỉ là biến diễn bên trong “tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên,
An trong một buổi tối của các thường ngày tưởng như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên
các thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng với thế giới nghệ thuật riêng, một thờI
gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man
mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tối mà chói sáng mối tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu,
xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa
biết bao cảnh đời, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần
vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổi sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến
chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra với tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều
chiều rồi” như là một lời thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổi chiều nữa lại
đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổI chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói

lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần
phong mĩ tục của làng quê. Người ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập.
Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi
chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổI chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống
đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con người cuối cùng trao đổi với nhau rồi bước vào các ngỏ tối.
Rác chỉ là những thứ phế thải vớ vẫn “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa
thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã
yếu lắm rồi. Người bán trông vào người mua và ngược lại nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ
vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tớI sự nghèo nàn.
Đó là mùi bã mía, vỏ bưởi, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái
mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụi dần.
Có thể thấy xung đột giữa bóng tốI và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tối đang giao
tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trời đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn” sau đó là bóng tốI hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuối cùng bao trùm lên khu phố huyện là
cái bóng tối mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tối còn
mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tối là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh
sáng tắt dần, bóng tối chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuốI cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa
sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti
như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trời hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái
bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụi ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó.
Tiếng trống thu không rời rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗi
vo ve gợi cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm
thanh không có hồi âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn người của phố huyện lúc chiều tối.
Tất cả hô ứng, qui tụ để cho ngườI đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn.
Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thờI gian của nơi phố nghèo. Người đọc
dường như thấy được bước chuyển biến của thời gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của
câu văn có khả năng đánh thức con người hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự
của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đời, về
con ngườI bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với

nhau nhưng dường như chẳng có nộI dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng
thoả mãn với cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút
bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho người dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt
tép, ban tối chị mới mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có
ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự vớI cuộc
sống, giao tranh, tranh giành với cái đói,cái chết trông chờ vào những ngườI trên tàu là qua bấp bênh có
khác gì trông chờ vào những người khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lời câu hỏi của Liên: không trực
tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồi mới chép
miệng trả lời : “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn
quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ mà bác bán là
thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong
đêm tối, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con người bị tàn lụi, héo úa và
cho ta cảm giác rợn người, kinh hoàng. Bà là kiếp người đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tối vừa cười
khanh khách. Cách xưng hô vớI Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con người vớI con người
vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp
người, như một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp người héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong
mấy dòng truyện ít ỏi nhưng đã ám ảnh người đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổI
cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những người khốn khổ
có khi không đủ tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn
sạch”. Liên xót xa cho những kiếp người lay lắt nhưng cuộc sống của Liên cũng cầm chừng không kém.
Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi khổ vật chất của những người khác, đó là bi kịch tinh thần bởi
họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết
ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗI hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng
mỏI mắt cố gắng chờ đợi một chuyến tàu đi qua : “đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya”.
Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé
lên nhanh như một vì sao băng để rồi vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phải ngơ ngác, bàng
hoàng.
Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồi
tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lạI” Hà Nội, một kí ức không rõ rệt, Hà Nội là một vừng

sáng rực lấp lánh “và” Hà NộI nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà Nội xa xăm” , “Hà Nội
sáng rực vui vẻ và huyên náo” . Cái cảnh tượng của quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt với cái tối
mịt mù dưới gốc bàng của hiện tại đang diễn ra. Quá khứ và hiện tại, ánh sáng và bóng tối, lãng mạng và
hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên.
Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng của mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồi tất cả lại chìm trong
bóng tốI mênh mông, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dưới cái nhìn xót thương của người tái hiện. Và nỗi thương cảm
của Liên đốI vớI mấ đứa trẻ đi nhặt rác, vớI chị Tí, với bác Siêu, vớI cụ Thi điên cũng là cảm xúc của
chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thương của mình. Đoàn
tàu với thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồi tắt lịm đã thay đổi một chút ít không khí của thế giới hiện tại,
phải chăng đó là khát vọng thoát khỏi cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn
day dứt về một kiếp sống tàn lụi, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường.
Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hộI Việt
Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thời sự văn học buổi ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét
một hoàn cảnh, tâm lí thời đại mà Nam Cao đã phải từng thốt lên : “Cuộc đời đang cùn đi, gỉ đi, nổi
váng lên”…
“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởi cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó,
giống như một bài thơ.
Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lạI nhiều lần (không
dưới ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trời phố huyện cũng như cảnh đời những con người phố huyện, tác
giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật :hình ảnh bóng tối bao trùm cảnh vật và
con người mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thờI điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác
nhau. Bóng tối như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con
người. Tác giả nhắc đến bóng tối nhiều lần dướI những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau :
“buổi chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lại”, “chiều, chiều rồi” , “bóng tối ngập đầy” , “bước của buổi
chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tối đến với tiếng trống thu
không tư trên chòi cao, bóng tối sắp đến với những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tối đến
với dãy tre làng đen lại, bóng tối đến với cánh muỗi vo vo, bóng tối đến với những viên đá nhỏ trên con
đường mấp mô, bóng tối trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lạI, bóng tối được lặp đi lặp
lại đầu và cuối huyện. Bóng tối như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đang len lỏi,

luồn lách, bám sát vào mọi cảnh vật, mọi trạng thái hoạt động âm thầm của mọi sinh vật. Nó như cái nền
không gian nghệ thuật của tác phẩm và không gian xã hội của con người. Bởi tối là lúc chị Tí xuất hiện
“tối đến chị mới dọn cái hàng dưới gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mới xuất hiện như một chấm
lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra … bóng tối là nơi cụ Thi mang đến và
mang đi “một tiếng cười khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đời không rõ ràng nhưng rõ ràng là
đang chứa ẩn một nỗi lòng u uất cứ chìm trong bóng tối; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu
chật hẹp, với chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm
tối: đêm tối ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồi yên lặng ngắm nhìn trong đêm tối, về khuya,
Liên ngồi yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh
như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…
Lặp đi lặp lại gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tối cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ
đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.
Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong
“Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện với nhiều trạng
thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ
thăm thẳm bao la rất gần ũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện
là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.
Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh
tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất
nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “ hai
đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói “mỗi truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì người nói muốn nhấn mạnh cả về
nội dung lẫn hình thức của truyện. Nội dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà
để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi
muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy
đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”
Hai loại ánh sáng trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ"
Có người đã nói với tôi rằng: “Văn chương Thạch Lam chẳng có gì là hay cả, từ truyện ngắn
“Gió lạnh đầu mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”, cho đến “Hai đứa trẻ” toàn là những chuyện vụn vặt của
đời sống hết sức tầm thường được xây dựng trên tổ hợp của lối văn nhạt nhẽo. Thực sự đọc văn của

Thạch Lam thà rằng đọc mấy cái tin vắn lại còn hay hơn!” Tôi thật e ngại cho người đó! Người đó trái
tim sắt đá ư? Tâm hồn người đó không có cảm xúc ư? Hay là người đó chỉ thích tiếp xúc với những loại
văn chương kinh dị, trinh thám, kiếm hiệp…? Nếu mà là như vậy thì người đó dù có đọc đến hàng trăm,
hàng nghìn những tác phẩm của Thạch Lam đi chăng nữa hẳn ý tưởng ấy vẫn không hề thay đổi được.

Trái với nhận định trên, đối với tôi văn chương của Thạch Lam như một thiếu nữ chân quê, mộc
mạc, giản dị, song đằm sâu trong từng câu chữ, lời văn là bao nhiêu cung bậc tình cảm. Có thể nói nhà
văn thiên về khai thác thế giới tâm linh nhiều hơn là xây dựng những tình tiết gay cấn, ly kỳ… Một
trong những truyện ngắn hay, xuất sắc như thế của Thạch Lam phải kể tới “Hai đứa trẻ” rút trong tập
“Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Trong truyện ngắn này, nhà văn nói đến nhiều vấn đề quan
trọng và ánh sáng cũng là một trong những vấn đề quan trọng ấy có thể chuyển tải nội dung thành ý
tưởng tác phẩm.
Với dáng hình dịu nhẹ, mỏng thoáng của từng câu chữ, với một đề tài vụn nhỏ, Thạch Lam đã
thọc sâu ngòi bút của mình mà ngoáy lên những cảnh vật, những tâm trạng thật khiến cho những người
có cảm xúc rung động đến bất tận, suy nghĩ đến nao lòng. Bao nhiêu cảnh vật dường như se lạnh khi
tiếng trống thu không treo lơ lửng âm thanh vào tai mỗi người.Và ngày qua, đêm đến, ta thấy có rất
nhiều ánh sáng hiện lên trước phố huyện tiêu điều, xơ xác… Song ánh sáng mà nhà văn đặc biệt quan
tâm, chú ý thì chỉ có hai loại. Đó là, ánh sáng của chiếc đèn nhỏ của mẹ con chị Tý và ánh sáng của đoàn
tàu, ấy mới là biểu tượng cho khung trời phố huyện với ước mơ quá đơn sơ, với khát vọng quá mong
manh vào tương lai tươi sáng hơn ở ngày mai khi bóng đêm đặc kịt trên nền trời u ám.
Cái buồn trước đêm tối cứ thả vào hư không sẽ bớt đi rất nhiều thê thảm, nếu không có những
hoạt động tẻ nhạt, buồn bã, gờn gợn và ánh sáng nhỏ mọn do con người tạo ra. Nhưng con người hy
vọng vào một điều viễn vọng thì vẫn phải hoạt động để giành lại sự sống đi đến hạnh phúc cho mình.
Chính vì thế, mẹ con chị Tý: “Ngày, đi mò cua, bắt ốc; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc
cây bàng, bên cạnh cái miếu gạch” với một chiếc đèn Hoa Kỳ không đủ ánh sáng để soi rõ mặt người…
Ngọn đèn nhỏ mọn ấy buồn rầu leo lét, hưu hắt vắt vào khoảng trời đầy bóng đêm. Bóng đêm bao
vây tứ phía và chỉ cần một ngọn gió nhẹ cũng có thể làm cho số phận của chiếc đèn hụt tắt giữa mênh
mông trời đất. Chị em Liên nhìn vào vũ trụ thăm thẳm, bao la để kiếm tìm những vì sao có hình sông
Ngân, có hình cầu Ô Thước và hình con vịt theo sau lão Thần Nông. Nhưng vũ trụ nó làm mỏi ý nghĩ
của con người nên hai chị em Liên chỉ một lát “lại chúi nhìn về mặt đất, về luồng sáng thân mật chung

quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tý”. Ngọn đèn của chị Tý leo lét như nỗi buồn đa
mang theo tháng năm, như cuộc sống im ỉm mà phố huyện nơi đây đương tẻ nhạt, khoác một tấm áo
đêm thùi thũi đi về. Cho dù có cố gắng đến bao nhiêu đi chăng nữa, ánh sáng ấy “chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ” mà thôi. Một vùng đất nhỏ dưới tán bàng héo úa, tàn lụi, rơi rớt vài giọt sương đêm khỏa
vào nỗi buồn mỗi ngày lại nhịp lên mênh mang xuyên qua lòng phố huyện, rồi lại ủ rũ “bên cạnh cái
mốc gạch”. Số phận của con người cứ quanh đi, quẩn lại như thế theo phức điệu nhàn nhạt mà xã hội
thực dân - phong kiến mang lại.
Quán hàng với ánh đèn của chị Tý nghiêng đọng một nỗi buồn như thế, một nỗi buồn mà ngày
nào cũng trong trí nhớ: “Ôi chao sớm với muộn mà có ăn thua gì?”, “Giờ muộn thế này mà họ chưa ra
nhỉ?” Nhưng họ vẫn phải đi kiếm kế sinh nhai, vì thế ngọn đèn của chị Tý cũng lóe lên cho mình sự đam
mê quyến rũ một sắc buồn để hút mọi tầm mắt lao tới mà thưởng thức, mà chiêm ngưỡng. Nhà văn đã tả
ngọn đèn của chị Tý khác hẳn so với các ánh sáng khác như: ánh sáng chiếc đèn của nhà bác Phở Mỹ,
ánh sáng leo lét trong nhà ông Cửu, ánh sáng xanh trong hiệu khách, ánh đèn chập chờn như ma trơi của
bác Siêu, cho đến ánh sáng của những ngôi sao sa, ánh sáng của chú đom đóm lập lòe… thì đều chỉ góp
phần tô đậm thêm cho nỗi buồn nơi quán nước có ánh sáng từ chiếc đèn chị Tý mà thôi. Vì thế mà ánh
sáng ngọn đèn leo lét, hiu hắt ở quán nước này dường như đã trở thành nơi hội tụ của cả phố huyện
trong đêm tối: “Tất cả phố xá trong huyện thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tý”.
Đêm tối mênh mông mỗi lúc lại đặc kịt: “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường
qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”… Nhưng ánh sáng của chị Tý cứ miệt mài lan
tỏa. Nhà văn Thạch Lam đã trở đi, trở lại nhiều lần để miêu tả thật kỹ ngọn đèn này. Có lẽ đó là ý tưởng
mà tác giả gợi lên hun hút của nỗi buồn đi vào bế tắc chăng? Những con người đêm, con đường đêm,
phố huyện đêm và cả xã hội Việt Nam đêm đã thui chột những ước mơ cao xa đang giục giã lòng
người trở về cuộc sống nguyên thủy ngày xưa đầy kinh dị. Từng ánh sáng của bóng đèn mẹ con chị Tý
cố sức leo vào không gian bao la, thăm thẳm, song đã bị bóng đêm đắng quạch đẩy lùi. Nỗi ám ảnh cuộc
sống mà ánh sáng từ chiếc đèn của mẹ con chị Tý lần lượt đi vào tiềm thức con người. Nỗi ám ảnh ấy
đã làm cho sự sống hóa thành mong manh, vụn nhỏ, tẻ nhạt, hiu quạnh… treo vào hư vô. Lần cuối, khi
đoàn tàu và ánh sáng của nó rơi lặng lẽ, im nghỉm trong đêm tối thì hình ảnh “chiếc đèn của chị Tý” đi
vào giấc mộng của Liên thật tự nhiên đến nao lòng, đau xót và “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự
xa xôi””…
Thạch Lam xây dựng nên hình tượng ngọn đèn chị Tý không chỉ đơn thuần là ngọn đèn nữa

mà nó là biểu tượng cho cuộc sống thực tại nơi đây: nhỏ nhoi, hiu hắt đầy buồn chán của chị em Liên
cũng như những con người nhỏ bé đang dật dờ đi lại trên phố huyện này. Ngọn đèn được nhà văn miêu
tả trở đi, trở lại nhiều lần và khi đi ngủ, Liên vẫn còn mường tượng tới ánh sáng hưu hắt,lay lắt ấy như
một ám ảnh tâm lý cho đến ngàn năm cũng không thể nào gỡ ra được.
Ánh sáng đèn của chị Tý cùng với những ánh sáng khác nơi phố huyện thì ngay từ đầu truyện
đã ngồn ngộn nổi lên một cách lay lắt chẳng làm sáng thêm cho không gian chút nào, ngược lại càng
làm rách vá mảng trời đêm mùa hạ “êm như nhung”. Từ đó đến cuối truyện nhà văn Thạch Lam mới
miêu tả ánh sáng của đoàn tàu hành quân qua phố huyện buồn thương này.
Ánh sáng của đoàn tàu giờ đây đã khác hẳn, không phải là ánh sáng đơn điệu từng hột lọt qua
phên nứa rơi rớt xuống nền đường lởm chởm, hoang màu của rác rưởi, lá nhãn, bãi mía, vỏ bưởi, vỏ thị
và mùi âm ẩm bốc lên; không phải là ánh sáng chập chờn như ma trơi của bác Siêu; không phải là ánh
sáng ganh nhau lấp lánh như sao sa; lại càng không phải ánh sáng nhấp nháy như con đom đóm… Ánh
sáng của đoàn tàu là ánh sáng rực sáng, là ánh sáng chói lòa. Mọi ánh sáng mà Thạch Lam miêu tả trước
chỉ nhằm tô đậm thêm bóng tối, khoác thêm nỗi buồn dài lê thê như con sông đổ mãi ra biển khơi không
hết. Ánh sáng của những ngọn đèn lay lắt, vật vờ ở phố huyện lại càng điểm cho không gian thêm hưu
quạnh, se sắt, lại càng làm cho cay đắng, xót xa nỗi lòng người. Chính vì vậy, con tàu từ Hà Nội đi qua
mang theo ánh sáng từ nơi ấy đến là một điều mong mỏi khao khát của chị em Liên: “Hà Nội xa xăm,
Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đem một chút thế giưới khác đi qua”. Nỗi chờ mong
của chị em Liên chỉ giản dị, đơn sơ như thế thôi, nhưng trong suy nghĩ của trẻ thơ nó lại vô cùng có ý
nghĩa cho ước mơ sau này.
Tôi xin được lạc đề một chút, hồi tôi còn nhỏ vào những năm 1989, 1990 lúc đó làng tôi không
có điện sáng như bây giờ, cứ tối nào tôi và mẹ tôi lại cõng nhau ra cổng để xem những ánh điện chói
ngời mông lung, huyền ảo đẹp đến mê lòng trên Hương Canh, trên Lý Nhân và cả ở Minh Tân nữa. Mẹ
tôi bảo những ánh sáng đó là thần tượng “sao dưới đất”. Tôi liền hỏi mẹ tôi: “Bao giờ làng mình có thần
tượng sao dưới đất đó hả mẹ?” Mẹ tôi im lặng trong suy tư, cảm nghĩ rồi lặng lẽ đáp: “Không lâu nữa
đâu, khi nào con lớn lên thì thần tượng sao dưới đất sẽ đến với con”. Những buổi tối theo mẹ ra cổng
ngắm nhìn “thần tượng sao dưới đất” như thế ấy đến bay giờ đã thành một kỷ niệm khó quên của đời
tôi. Và giờ đây bắt gặp tâm trạng đợi tàu của chị em Liên tôi lại thấy lòng mình nao nao đồng cảm, nhặt
ra cho mình nhiều ưu tư suy nghĩ về cuộc sống của những đứa trẻ nghèo khổ. Những đứa trẻ như chị em
Liên đợi tàu như chờ đợi thiên thần mang hạnh phúc đến để lấp đi những nỗi buồn ám ảnh đa mang theo

tháng ngày.
Trong con mắt trẻ thơ, ánh sáng, nhất là ánh sáng chói ngời, xa lạ sẽ hằn sâu trong trán và thúc
đẩy ước mơ đến mãnh liệt. Thạch Lam đã miêu tả ánh sáng của đoàn tàu một cách khác thường. Ánh
sáng được vận động theo đoàn tàu, mới đầu chỉ nghe thấy “tiếng dồn dập, tiếng rít lên” và “bừng sáng
trắng lên tít đằng xa”; rồi sau đó tàu tiến lại gần thì mới “sáng trưng, chiếu ánh xuống cả đường”. Một
thứ ánh sáng mà cả phố huyện này đều muốn vươn tới. Nhưng rồi “chiếc tàu cùng với ánh sáng lấp lánh
của nó” cũng “đi vào đêm tối” rơi tõm vào sự im lặng. Hai chị em Liên nhìn với theo chỉ thấy “cái chấm
nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Đúng là “Nay hoàng
hôn đã lại mai hôn hoàng” nào có sai.
Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sáng của khát vọng, là ánh sáng của ước mơ về cuộc sống tươi
sáng đẹp đẽ hơn. Ánh sáng đó là niềm thao thức chờ đợi hằng đêm của chị em Liên như một món ăn tinh
thần không thể nào thiếu được để rồi có một ước muốn treo cái thế giới tẻ nhạt vĩnh viễn vào không
trung và chỉ để lại đây cuộc sống náo động, sôi nổi với thiết tha lòng người yêu thương, đùm bọc, giúp
đỡ nhau. Nhưng những khát vọng đó lại trở thành vô vọng bởi vì “ chiếc tàu đi vào đêm tối” thì bóng
đêm lại trùm lên phố huyện, lại trùm lên những con người nhỏ nhoi, những cuộc đời hiu hắt, buồn bã.
Không gian bóng đêm tẻ nhạt, lúc nào cũng dắt bên mình một vũ điệu “bài ca không quên” trôi
dài theo năm tháng. Vũ điệu ấy cứ tô thêm cho mình ngọn đèn lay lắt , hiu hắt, nhỏ bé… như chứa đựng
tâm trạng của mọi người trong tạo hóa. Bóng đêm bao vây và tiếng tàu lại vang lên cùng với ánh sáng
rạng rỡ, huy hoàng càng xé nát mảnh trời nhung đen. Từ một không gian tự nhiên đã trở thành biểu
tượng một không gian xã hội bao vây con người, cản trở khát vọng cuộc sống tươi sáng, hạnh phúc của
họ.
Chúng ta chỉ đi vào một khía cạnh của truyện ngắn “Hai đứa trẻ” mà thôi, nhưng bao nhiêu tâm
trạng, bao nhiêu nỗi lòng, bao nhiêu suy nghĩ mà nhà văn Thạch Lam muốn bày biện cũng nổi lên khá
rõ. Qua ánh sáng từ chiếc đèn mẹ con chị Tý và ánh sáng của đoàn tàu ta thấy được cuộc sống khổ cực,
quẩn quanh nơi phố huyện, cũng như những khát vọng, những ước mơ muốn làm cho thế giưới thực tại
thay đổi. Song ước mơ vẫn chỉ là ước mơ, còn thực tại vẫn cứ là thực tại. Dù sao đi chăng nữa, đó chính
là nỗi lòng của nhà văn gửi gắm cho độc giả.
Tôi ước gì mình cũng có những cảm xúc sâu kín, nhưng thấm thía như nhà văn Thạch Lam để
sau này bước lên văn đàn, mình cũng có những trang văn hay lay động lòng người đến thế.
Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ - sự kết hợp hài hoà giữa bút

pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo
“ Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn
luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện với nhau. Để làm rõ điều
vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
“ Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc.
Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của
nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ
thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi
đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.

Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của
buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt
vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi
buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”.

Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một
hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm.
Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mang trong mắt Liên dường
như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ
Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi
chờ. Hiện thực không làmta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động
một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng
mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời
gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ
nhàng : “Chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn
những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời
điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát,

uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ cón tâm hồn
lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát
cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua
cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên vộivàng vào thắp đèn xếp những quả
sơn đen lại”.
“Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất
nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn
nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con
mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên
đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ
mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè
trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp”
nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của
người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh
sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn
chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuônmặt người phụ nữ chân quê chất phát đã trải
qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm.
Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán
cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để
họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi
đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh
phố nghèo. Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã
làm nên tổng thể củacảnh vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp
bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét

bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý
do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan
hoà thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất
buồn.
Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh
thoát, ẩn hiện nhân cách tyệt vời của ông.
Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà
đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây
ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống
cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi
lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác,
một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa
chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là
Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng
buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố
huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt
lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc
vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn
tưởng như non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo
khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất
rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài
dãy hàng quán với những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái
gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là
chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ
con.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu
hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗi

buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi
buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện
thoáng giao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn.
Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuýên tàu vẫn là niềm mong mỏi của chị. Có người nói “chờ đợi là
một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên điều khủng
khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợi
tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều
đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời
lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn
nhưng vẫn tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. quả thực, tâm hồn Liên là
một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho
đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên
chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là người dẫn
chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện
thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình người
của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ : “Thơ
là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác
nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại “cuộc
đời” thật nhiều sâu sắc.
Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam)
1. Tìm hiểu đề:
Đề bài thuộc kiểu đề tự do - chỉ nêu chủ đề mà không bắt buộc về cách thức, phương pháp triển khai chủ
đề đó. Chủ đề được nêu trong đề bài này là chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam). Về
thực chất, có thể hiểu, đề bài yêu cầu phân tích để tìm ra những biểu hiện của chất thơ cũng như vai trò
của nó trong việc tạo nên dấu ấn phong cách Thạch Lam và thành công của truyện ngắn "Hai đứa trẻ".
Để thực hiện yêu cầu này của đề bài, học sinh cần nắm vững, hiểu rõ khái niệm "chất thơ", chất thơ
trong truyện ngắn để trên cơ sở đó xác định đúng và phân tích thấu đáo biểu hiện cũng như giá trị của
chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ".
2. Dàn ý:

a. Mở bài:
- Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi đơn
giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức ảnh hưởng lớn
trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong
lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại
cùng với nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính
là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" ("Nắng trong vườn" - 1938) là một truyện ngắn giàu chất thơ.
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
- "Chất thơ": Tính chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm
trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình
cảm nhân văn.
- Chất thơ trong truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế cái
mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết,
hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc,
tâm hồn.
- Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết
không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời
sống hoặc của tâm hồn con người.
b.2. Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ":
b.2.1. Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
- ở nhân vật Liên có vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết, tự nhiên như chưa từng
chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc sống:
+ Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng nồng, âm ẩm bốc lên đã
khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động tâm
hồn Liên để cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng như ngập đầy
bóng tối của buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh
để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm
hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới

quanh mình: những con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa bàng
rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá khứ và mơ mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu sinh
không thể xoá bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt hàng ngày lại
khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại không nhiều, nhưng quá khứ luôn trở về
trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo".
Chính nỗi nhớ quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện với hình ảnh thực của chuyến tàu
đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để "sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết" mà
chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống một cuộc sống nghèo
khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua song không vì thế mà
Liên đóng kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh mình. Nhìn những đứa trẻ nghèo đang
nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy "động lòng thương" tuy chính chị cũng không có gì để cho
chúng. Sẵn có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút rượu của bà cụ Thi điên dù trong em
không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ khi phải đối diện với một người không
hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm động như
được "thanh lọc tâm hồn" để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
- ở cái tôi Thạch Lam ẩn kín sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn "Hai đứa tre"
bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể không nhận thấy
cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn
nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân
vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc
này để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất thơ để tạo thành
một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
b.2.2. Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật:
- Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại vừa vô
cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng
ở mọi vật bình thường".
+ Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị và thôn

quê song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất phố.
+ Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều
chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy", đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn",
tiếng trống thu không "vang xa để gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió mát",
vòm trời "hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những con đom đóm "bay là là trên mặt đât hay len
vào những cành cây", bóng bác phở Siêu "mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng
rào hai bên ngõ"…Tất thảy đều là những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà
ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi nó không chỉ hiện diện như một
khái niệm mà như một trạng thái của sự sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao
động ấy vào tâm hồn con người. Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ
quê cũng gợi nhớ bao điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của
ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương
này". Sức gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của rất nhiều người
Việt.
- Truyện có những chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những cảm xúc,
cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả
thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối; Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao
để mà thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và An chờ đợi chuyến
tàu đêm… Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là đỉnh điểm của chất thơ trong
tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là một thực tế, vừa là một ảo ảnh trong cái nhìn non
trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã chìm vào giấc
ngủ song dư âm của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để "gióng lên cái gì đó
còn ở tương lai" (Nguyễn Tuân). ánh sáng của đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ ánh sáng khác - ánh
sáng của khát vọng da diết trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá ra thứ ánh
sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý.
- Mạch truyện của "Hai đứa trẻ" rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình
và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình". Từ đó có thể
thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm,

rung động của tâm hồn con người.
+ Truyện "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của những tình
tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để làm được điều này, nhà văn đã đặt
điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên - một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái
có tâm hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện với sự đan xen,
song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ mà dường như, cái nổi trội lên, chi phối
sự vận động của mạch truyện lại là hành trình tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang
hiện diện trong thực tại - hình ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút Thạch
Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác nhiều khi rất mong
manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: nỗi buồn man mác
trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm
giác xa xôi không biết…
- Để thể hiện thành công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình đặc sắc
trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu dàng, hoà hợp sự kín đáo
và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần
nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch Lam
nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm
buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả
như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh
đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia
đồng ruộng mênh mang và yên lặng".
+ Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống khẽ
vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu hiền của tâm hồn Liên: êm
ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này
liên kết với nhau như một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
+ Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo nức
bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến tàu rực
sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực,
vui vẻ và huyên náo". Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh trắc

tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc động:
"Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua". Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập,
đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là ở độ
nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu văn.
c. Kết luận:
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa chất thơ
- cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà
văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện
căn của con người…
- Với những gì được khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện "Hai đứa trẻ" tựa như một
bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý nghĩa xã hội thì vẫn "đem đến cho người đọc một cái
gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu" (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là cốt
cách văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng độc giả.
Phân tích nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua bức tranh
phố huyện khi chiều xuống, phố huyện lúc đêm về và phố huyện
lúc tàu đến và tàu đi trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch
Lam.
DÀN Ý
I/ Mở bài:
- Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một
cây bút tài hoa, có biệt tài về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của
ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ
hồ , mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi.
- Một trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của
Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của ông. Ở đây, nhà văn đã thật thành công
khi miêu tả nội tâm nhân vật trong sự tương ứng với thế giới ngoại cảnh với bao buồn
vui của bức tranh phố huyện khi chiều xuống, phố huyện lúc đêm về và phố huyện lúc
có chuyến tàu đêm đi qua.
II/ Thân bài :
1/ Bức tranh phố huyện khi chiều xuống :

- Cảnh chiều tàn được hiện lên với :
+ Âm thanh của tiếng trống thu không ; tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ
đưa vào; tiếng muỗi
+ Hình ảnh của phương Tây đỏ rực với những đám mây hồng và dãy tre làng cắt hình
đen kịt trên nền trời…

thiên nhiên đẹp, gợi buồn… như một “ bức họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi và
gợi cảm .Một bức tranh quê hương bình dị mà không kém phần thơ mộng, mang cốt
cách Việt Nam .
- Tâm trạng của Liên :
+ Liên thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
+ Liên còn cảm nhận được “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
+ Liên thấy “động lòng thương” bọn tẻ con nhà nghèo đi nhặt rác…và xót thương cho
mẹ con chị Tí …

Qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam, Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm ,
tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
=>Bằng sự quan sát ,miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú…
nhà văn đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều
tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm hồn Liên lan tỏa nhuốm vào
cảnh vật.
2/Bức tranh phố huyện lúc đêm về:
- Bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hòa trộn đầy dụng ý:
+ Ánh sáng trộn vào bóng tối hay ngựơc lại bóng tối trộn vào ánh sáng ( không
gian phố huyện có nhiều quầng sáng, nhưng cũng có nhiều khoảng tối, đến những hòn áa
trên đường vào làng cũng mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên
tối…).
+ Nhưng ánh sáng thì le lói, chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng; bóng đêm thì
vừa mênh mông hiu quạnh vừa dày đặc
( tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa, tối

đến mức cả tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống ầcm canh của phố huyện tưởng
chừng như không vang lên được).
 Điều này gợi một nỗi buồn đầy cảm thông, một nhận thức – dù rất mơ hồ- về
những kiếp sống chìm khuất, le lói, những thân phận như “bị bỏ quên’ nơi cái ga xép
của một phố huyện buồn thiu.
3/ Bức tranh phố huyện lúc đoàn tàu đi qua :
- Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu - chút thế giới khác mà
chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát ( rồi mang đi) và hình ảnh trở
về trạng thái sống lặng lẽ, tối tăm không thay đổi nơi phố huyện.
- Cũng có một cảm giác xa xôi không biết của nhân vật Liên sau khi đoàn tàu đêm
đi qua ở cuối truyện: “những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình
ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự
xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.,nhưng
Liên không nghĩ đươc lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,
cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”.
- Một bên là “sự hoạt động náo nhiệt cuối cùng của đêm” và một bên là “sự im
lặng mênh mông” trong đêm tối, trong giấc ngủ( và cả trong sự lãng quên?). Chuyến
tàu đêm đi qua sáng rực, vui vẻ và huyên náo, đầy vẻ hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua
trong giây lát ngắn ngủi rồi trả phố huyện về cuộc sống mênh mang yên lặng và đầy bóng
tối. Điều đó làm nỗi buồn như càng thấm thía hơn trong lòng hai đứa trẻ.
III/ Kết bài :
- Tóm lại, tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc, tâm trạng. buồn man mác,
mơ hồ khó hiểu trước bức tranh cuộc sống nghèo của phố huyện lúc chiều muộn: buồn
khắc khoải trong cảnh đợi chờ, mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cuộc sống
nghèo khổ thường ngày; buồn thấm thía sâu sa về một cuộc sống quẩn quanh, không thể
đổi thay và mọi cái tốt đẹp, tươi sáng chỉ là hi vọng mong manh.
- Cũng tương ứng với cảnh vật, con người trong từng thời khắc khác nhau là những tâm
trạng, cảm giác, ý nghĩ khác nhau (đọan đầu: lòng buồn man mác trước thời khắc của
ngày tàn;đoạn giữa: mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày, lặng
theo mơ tưởng; đoạn cuối: thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc

đèn con của chị tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ)
=> Tất cả thể hiện niềm cảm thông sâu sắc cuả nhà văn. Tưởng chừng tác giả đã
hòa nhập vào tâm trạng, cảnh ngộ của nhân vật để diễn tả những gì mong manh,
mơ hồ khó tả nhất của tâm hồn con người
Phân tích nhân vật Liên (Tâm trạng nhân vật Liên – tâm trạng chờ tàu)
trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam.

Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam được bạn đọc biết đến nhiều nhất. Tác phẩm
được in trong tập Nắng trong vườn (1938). Truyện gây ấn tượng cho người đọc bởi văn phong nhẹ
nhàng, giàu tình người tình đời. Ấn tượng khó quên trong lòng người đọc về thiên truyện ngắn này có lẽ
là hình ảnh hai đứa trẻ mà cô bé Liên là nhân vật được nhà văn Thạch Lam tập trung khắc họa nhiều
nhất.
Liên là cô bé mới tám tuổi, cái tuổi mà theo như người xưa nói “biết ăn biết ngủ, biết học hành
là ngoan”. Nói đúng hơn là tuổi vô lo. Nhưng mọi điều đều ngược lại. Dưới ngòi bút của Thạch Lam,
Liên hiện lên với hình ảnh của một cô bé như già đi trước tuổi. Tuổi thơ chìm trong nỗi buồn của sự tàn
tạ, héo úa của một cuộc sống đầy bóng tối, bế tắc không lối thoát. Đối với tâm hồn thơ bé ấy, đoàn tàu
đêm từ Hà nội về chạy ngang qua phố huyện chính là niềm an ủi cuối cùng cho một niềm đau.
Thầy Liên mất việc và đặt dấu chấm hết cho những tháng ngày sống ở Hà Nội. Con phố nhỏ
Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương nơi đón chị em Liên về là một nơi đói nghèo trong rơm rạ với những kiếp
người bé nhỏ, lay lắt. Bản thân gia đình Liên cũng chẳng khá giả gì hơn: mẹ làm hàng xáo, chị em Liên
trông coi gian hàng tạp hóa nhỏ xíu với những thức hàng lặt vặt, ngày phiên mà chẳng bán được bao
nhiêu?
Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời. Tâm trạng
của Liên cũng diễn tiến theo thời gian: từ chiều hôm cho đến khi đoàn tàu ngang qua phố huyện. Truyện
mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều. Đó âm thanh báo hiệu ngày
tàn và cũng là âm thanh chấm hết một ngày đầy ánh sáng mà thay vào đó là bóng tối và nỗi buồn. Thạch
Lam mở đầu truyện rất hồn hậu, rất thơ với bức tranh quê bình dị, man mác hương đồng gió nội với
" Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió
nhẹ đưa vào". Đó cũng là thời khắc mở ra thế giới tâm trạng của Liên, là lúc mà “Trong đôi mắt Liên
bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên

không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Buồn mà thấy “không
hiểu sao” có nghĩa là cái buồn ghê ghớm lắm. Buồn mà không biết mình buồn vì cái gì thì thật là đau
khổ không gì bằng. Thạch Lam đã để nhân vật tự nhận thức và tự bộc lộ tâm trạng chứ không cần kể lể
dài dòng. Và bóng tối đã trùm lên phố nhỏ, trùm lên đồng ruộng, trùm lên cả nỗi buồn của Liên đang
thoi thóp thở.
Trong bóng chiều nhá nhem, Liên nhìn về bãi chợ nơi những người bán hàng về muộn. Liên
động lòng thương những mảnh đời cơ cực, đó chính là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại
lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người
bán hàng”. Hình ảnh đó như xoáy sâu vào lòng trắc ẩn của cô bé tám tuổi giàu lòng nhân ái. Liên thấy
thương những đứa trẻ nghèo nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Thế đấy, nhân vật
Thạch Lam thường ít nói nhưng suy tư nhiều và mang đến những vẻ đẹp của tình người đằng sau những
nghĩ suy tha thiết về cuộc sống.
Trong cảm nhận của Liên, bóng tối thật ghê ghớm “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con
đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối là hiện thân của sự tù túng
ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự đói nghèo, lam lũ. Là hình ảnh đất nước ta trước
năm 1945 đầy nước mắt:
Cha ông ta từng đấm nát bàn tay trước cánh cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng mà đời im ỉm khóa
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi
Thạch Lam đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập để miêu tả bóng tối và ánh sáng. Nếu như
bóng tối nuốt chửng tất cả phố huyện vào trong cái dạ dày tối thui của nó thì ánh sáng xuất hiện với tần
số thấp. Đó chỉ là “hột sáng”, “khe ánh sáng”, “đốm sáng”, “vệt sáng”… tất cả đều hiện lên thật bé nhỏ
tội nghiệp “ mất đi rồi lại hiện ra trong đêm tối”. Và cùng với ánh sáng nhỏ nhoi, yếu ớt đó là những
phận người với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi và lụi tàn, le lói như ngọn đèn trước gió. Liên thương hết
thảy những con người nơi phố huyện nhỏ bé này. Đó chính là chị Tý với cuộc đời cơ cực “mò cua bắt
ốc”, tối đến cùng ghánh hàng nghèo xơ xác chỉ với bát nước chè, điếu thuốc lào, thanh kẹo lạc… tất cả
gia tài mưu sinh bên ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Liên thương bác phở Siêu với
ghánh phở xa xỉ, ế ẩm nhưng đêm nào cũng thấy bác dọn hàng. Thương bác xẩm với manh chiếu rách tả
tơi cùng chiếc thau trắng trống trơn chưa một niềm hi vọng, thương lắm những tiếng đàn bác góp

chuyện bật trong yên lặng. Thương bà cụ Thi điên đơn chiếc với tiếng cười chìm vào bóng tối… Cuộc
sống phố huyện là như vậy. Đơn điệu, tẻ nhạt. Đêm nào cũng như đêm nào, cứ lặp đi lặp lại:
Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
Điều gì có thể làm chị em Liên quên đi được thực tại này ? May ra chỉ có vũ trụ là cơ hội cuối
cùng để ru hai chị em vào những miền cổ tích. Cảnh hai chị em ngẩng mặt lên trời tìm con vịt theo sau
ông thần nông cho thấy: tâm hồn hai đứa trẻ thật hồn nhiên, vô tư trong sáng và rất đỗi trẻ con. Nhưng
buồn thay, bầu trời đầy sao trên kia cũng không thể nào cứu vớt được hai sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp ấy.
Bởi “vũ trụ bao la và thăm thẳm như chứa đầy bí mật và xa lạ với hai đứa trẻ”. Để rồi cuối cùng chính
chúng lại quay về với quang cảnh phố chung quanh mà đặc biệt là ngọn đèn con của chị Tý. Và cứ thế
trong đêm tối những con người tội nghiệp ngồi chờ đợi một điều gì đó cho sự sống nghèo khổ hằng ngày
của họ.
Và đoàn tàu từ Hà Nội về đã thực sự là ước mơ và khát vọng của người dân phố huyện. Họ thức
đợi chuyến tàu vì mưu sinh hay vì lí do nào khác nữa. Tất cả thao thức, đợi chờ như thể đợi chờ một
phép màu sẽ đến. Họ mong bán được chút hàng để gỡ gạc cho cuộc sống ngày mai. Còn riêng hai đứa
trẻ, chúng không thức đợi chuyến tàu để bán hàng mà vì lí do khác. Chúng muốn được nhìn thấy đoàn
tàu qua phố huyện vì đoàn tàu như mang một thế giới khác đi qua đủ làm cho chúng rạo rực và ánh lên
niềm vui sướng dù chỉ là trong chốc lát. Vì thế đêm nào cũng vậy dù buồn ngủ ríu cả mắt nhưng cả hai
chị em vẫn cố thức để đợi chuyến tàu. Điều đó cho thấy đoàn tàu là một hình ảnh đã trở thành quen
thuộc và ăn sâu trong tâm hồn hai đứa trẻ và chờ tàu đã trở thành một khát vọng mãnh liệt và là một
món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng.
Sự mong mỏi của chị em Liên với đoàn tàu quả thật đã làm người đọc xúc động mãnh liệt. Mới
bảy, tám tuổi mà mẹ bắt trông coi cửa hàng tạp hóa đã là việc làm quá sức lại còn bắt thức cho tới khuya
để chờ bán hàng thì quả là tội nghiệp. Nhưng Liên và An thức tới khi đoàn tàu đi qua phố huyện không
phải là nghe lời mẹ mà là chúng đang hành động theo tiếng gọi của con tàu. “Tàu đến chị đánh thức em
dậy nhé!”. Đó là câu nói của An khi mí mắt đã sụp xuống trong cơn buồn ngủ rồi mà vẫn còn dặn với
chị. Câu nói bình thường thế mà sao mới nghe qua đã thấy xót thương. Nó chứa đựng trong đó là tất cả
niềm khát khao và hi vọng được nhìn thấy đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của đêm khuya. An đi vào

giấc ngủ, Liên ngồi im lặng, đầu óc chị bỗng dưng cũng yên tĩnh lạ thường. Yên lặng đến nỗi có thể
nghe được “hoa bàng rụng xuống vai Liên từng đợt một, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Dường
như nhà văn muốn cho nhân vật của mình được nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt. Thế rồi thoáng
trong tiếng gió xa xôi là tiếng đoàn tàu vụt đến. Rồi tiếng reo thảng thốt, mừng rỡ của bác Siêu “Đèn ghi
đã ra kia rồi!”. Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở
đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đó là lúc mà Liên vội vã đánh thức em “ dậy
đi An, tàu đến rồi!”. Lời giục dã gấp rút, hối thúc như thể nếu An không dậy thì sẽ không bao giờ còn
được nhìn thấy đoàn tàu nữa. Thạch Lam không dùng từ ngữ nào để miêu tả sự háo hức của hai chị em
mà cái háo hức ấy vẫn cứ hiện lên thật sống động và giàu chất nhân văn.
Hai chị em đứng chờ đoàn tàu từ đằng xa. Chúng có dịp chiêm ngưỡng cái kẻ đã làm chúng đợi
chờ ấy bằng cách đứng gần hơn nữa. Và rồi “tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe
vụt qua”. Đây là phút giây hạnh phúc nhất là lúc mà Liên và An dường như quên hết thảy những nỗi
buồn hiện tại, quên cả những đói nghèo lam lũ, ê chề đang bao vây cuộc đời họ. Trong lòng họ giờ đây
chỉ có đoàn tàu. Đoàn tàu mang thứ ánh sáng mạnh mẽ, khác thường ngang qua phố huyện “các toa đèn
sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường… những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và
kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đó là ánh sáng của sự sang trọng, văn minh, thứ ánh sáng khác xa
với những ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nơi phố huyện. Đoàn tàu giống như một tia chớp, một ngôi sao băng
rạch ngang qua bầu trời phố huyện rồi mất hút vào đêm tối nhưng cái ánh sáng của nó là ước mơ và khát
vọng của biết bao nhiêu số phận con người bé nhỏ đang mong ngóng. Đoàn tàu mang một thế giới khác
đi qua, chính là khát vọng muốn được đổi đời của họ. Họ gửi theo chuyến tàu cả tâm hồn của mình, họ
muốn được đến với những chân trời mới, nơi đó có ánh sáng của văn minh của no đủ. Nơi đó sẽ không
còn cảnh đói nghèo lam lũ, không có cảnh đơn điệu và buồn tẻ mà ăm ắp niềm vui. Họ xứng đáng được
nhận một cuộc sống như thế, tại sao không? Nhưng ước mơ chỉ là ước mơ. Tất cả lại quay về với quầng
sáng thân mật xung quanh ngọn đèn con chị Tý. Chấm hết cho một đêm đợi chờ trong khát vọng và kết
thúc bằng nỗi buồn rưng rưng nước mắt.
Liên và An đứng lặng người trong bóng tối dù chuyến tàu đã “đi vào đêm tối, để lại những đốm
than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau
cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Sự nuối tiếc của họ dường như đã phơi bày tất cả một cuộc sống
nghèo nàn, bế tắc. Nhất là khi họ tự nhận thức rằng “Tàu đêm nay không đông và dường như kém sáng
hơn ”. Nghĩa là đoàn tàu cũng chỉ xoa dịu một chút nỗi đau trong tâm hồn hai đứa trẻ chứ không thể nào

phá vỡ bức tường thành mang tên “nỗi buồn” của chúng. Và Liên lặng người đi trong suy tưởng, đằng
sau ánh sáng của đoàn tàu và tiếng động cơ gầm vang đó là một thế giới rất riêng tư. Đó chính là nỗi nhớ
về Hà Nội nơi có ánh sáng của những ngọn đèn, nơi vui vẻ và huyên náo. Nơi đó là vùng sáng trong tâm
tưởng và cũng là vầng sáng trong ký ức tuổi thơ. Nơi mà ngày xưa chị em Liên được đi chơi bờ Hồ,
được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ký ức tươi đẹp thế nhưng giờ họ lại bị cầm tù giữa biết bao
nhiêu là buồn bã. Chính đoàn tàu đã mang lại cho Liên liều thuốc an thần và khơi dậy trong tiềm thức
biết bao điều tươi đẹp. Cuộc sống ấy thực sự khác xa với cuộc sống ở nơi này nhiều lắm nhưng biết làm
sao được khi ký ức không thể trở về. “ Một quá khứ huy hoàng. Một hiện tại mong manh. Một tương lai
mù mịt”. Đáng buồn thay!
Cuối cùng Liên cũng đi vào giấc ngủ, một giấc ngủ chập chờn hình ảnh ngọn đèn con của chị
Tý . Một giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối. Đó chính là một sự ám ảnh về cuộc sống bế tắc, tù đọng
không lối thoát mà biết đến bao giờ chị em Liên mới có thể đổi thay.
Với lối viết nhẹ nhàng, mỗi truyện tựa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, Thạch Lam đã
mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc về những thân phận cuộc đời trong xã hội cũ. Qua nhân
vật Liên nhà văn đã làm toát lên những giá trị nhân văn cao đẹp, giúp chúng ta thấu hiểu nỗi buồn đau
của dân tộc trong thế kỷ bạo tàn dưới ách đô hộ của bọn thực dân và đế quốc. Trang văn khép lại rồi mà
ta còn thấy trước mắt mình hình ảnh hai đứa trẻ ngồi đấy giữa phố huyện nhỏ nghèo tăm tối đang đợi
chờ chuyến tàu đi qua trong khát vọng mỏi mòn.
Hình tượng trẻ em trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”
1.Trẻ em trong truyện là những ai ?
Đó là chị em Liên ngồi trên chiếcchõng tre dưới gốc cây bàng, thức khuya chờ tàu xuống để bán hàng,
may ra còn có một vài người mua
Mấy đưá trẻ con nhà nghèoở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, nhặt nhạnh bất cứ cái gì
Thằng cu con chị Týbê xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng. Nó loay hoay nhóm lưả nấu nước
chè phụ chị Tý
Khi đêm xuống, trẻ con tụ tập thềm hè, nói cười vui vẻ
Thằng con bác Sẩm bò ra đất nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát
2. Hoàn cảnh chung cuả những đưá trẻ
Nghèo khóbẩn thỉu chẳng được học hành, chẳng được quan tâm, chẳng được vui chơi, phải phụ cha mẹ
kiếm sống ( Chị em Liên, con chị Tý )

Chúng có những khát vọng thầm kín : Trẻ đi nhặt rác, Liên thương những đưá trẻ, Liên thức chờ tàu chỉ
điể nhìn ánh sáng đoàn tàu mà lặng yên mơ tưởng
Chúng làm cho bức tranh cuộc sống phố huyện trở nên đỡ tẻ nhạt, bên cạnh cuộc sống lam lũcuả người
lớn và bong tối bao bọc chung quanh, bởi vì chúng hồn nhiên chơi đuà ( con bác Sẩm bò ra đấtnghịch
rác, chị em Liên nhìn sao tìm sông Ngân hà, ông sao Thần Nông, những đưá trẻ tụ tập vui chơi trên
thềmhè ) bên cạnh “ chừng ấy người trong bong tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo
khổ hàng ngày cuả họ “
3. Hình tượng trẻ em
Nói hình ảnh trẻ em là hình tượng, nghiã là hình ảnh ấy chưá đựng tư tưởng tình cảm và giá trị thẩm mỹ
của tác phẩm
Nhan đề tác phẩm là Hai Đưá Trẻ, TL đã lưu ý người đọc về hình tượng trẻ em trong tác phẩm. Không
chú ý điều này, khi đọc tác phẩm sẽ có thể nhìn lệch hướng chủ đề, dù rằng Nhân vật trung tâm là Liên,
truyện cuả cô bé tên Liên, mới lớn.
Qua Liên và những đưá trẻ, TL muốn nói điều gì ? ( Chủ đề và tư tưởng cuả tác phẩm )
TL lưu ý người đọc về tình cảnh trẻ em không được học hành, không được vui chơi, phải lam lũ phụ cha
mẹ kiếm sống. Khát vọng cuả chúng là khát vọng về một thế giới rực rỡ ánh sáng, nhưng chúng phải
sống trong hoàn cảnhkhó nghèo, tăm tối, tù đọng, không có ngày mai
Qua đó TL thể hiện tình cảm nhân đạo. TL yêu thương trẻ em, hiểu thấu những khát vọng thầm kín mơ
hồ cuả chúng, lên tiếng nòi đòi phải trả lại tuổi thơ cho trẻ. Đoạn văn tả tâm trạng Liên đứng nhìn tàu là
một đoạn văn đầy xúc cảm
“Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem
một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của
chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng
ruộng mênh mang và yên lặng. “
4.Giá trị thẩm mỹ hình ảnh những đưá trẻ
Nhân vật Liên tiêu biểu cho những nét đẹp cuả trẻ em nông thôn xưa, đảm đang, chu tất, biết quan tâm
đến cha mẹ và những người xung quanh
Qua mắt nhìn và tâm trạng Liên, hiện thực hiện lên vưà chân thực hồn nhiên, vưà đẹp lãng mạn. Điều ấy
tạo nên nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật cuả TL
Hình ảnh những đưá trẻ tạo nên một bức tranh sinh động riêng , vui tươi, bên cạnh những con người lam

lũ, tăm tối cuả phố huyện nghèo.
Dù sao đó vẫn là những hình ảnh lãng mạn về trẻ, khác với Cái Tý, Thằng Dần con chị Dậu đói vàng
mắt ( Tắt Đèn ), khác với những đưá trẻ cuả Nam Cao phải đi ở đợ hoặc bị bán đi vì cha mẹ nghèo quá.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×