Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Trái đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 129 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA VẬT LÝ

Thiên Văn Học
ĐỀ TÀI:


Giáo viên hướng dẫn: TH.S TRẦN QUỐC HÀ
Sinh viên thực hiện:
LƯƠNG TUẤN ANH HÀ CẨM ÂN
TRẦN THỊ HỒNG GIANG NGUYỄN THỊ THANH HÀ
ĐỖ THỊ THU HÀ NGUYỄN THI THU HIỀN
PHẠM DƯƠNG MINH HẢI ĐÀO THỊ HIỆP
VŨ TRÚC THANH HOÀI NGUYỄN THỊ HẢO
HUỲNH THỊ HƯƠNG TRƯƠNG VĂN HÊN
NGUYỄN VĂN HÙNG PHAN ANH HUY
NGUYỄN CAO KHẢ MAI THỊ ĐẮC KHUÊ
NGUYỄN THỊ NGỌC LAN( 26-6-87) NGUYỄN THỊ MỸ LINH
VÕ THỊ NGỌC LÝ PHẠM THỊ MAI
NGUYỄN THỊ TƯỜNG MINH TRẦN THỊ NGHIỆP
Khoa Vật Lý _ Lớp 3A _ Nhóm 2
TP Hồ Chí Minh, Tháng 11 Năm 2008
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 1
MỤC LỤC:
MỤC LỤC: 1
LỜI MỞ ĐẦU: 6
I. Sự hình thành và hình dạng của Trái Đất: 7
A. Bạn đã biết gì về hành tinh của chúng ta? 7

B. Đặc điểm: 7



C. Một số giả thiết về sự hình thành của Trái Đất: 10

1. Giả thuyết Căng 11

2. Giả thuyết Laplatxơ 11

3. Giả Thuyết ÔTÔ XMIT 12

D. Hình dạng Trái Đất: 14

1. Các học thuyết về dạng hình cầu của Trái Đất (Trái Đất): 14

2. Lí thuyết về hình dạng phổng cầu của Trái Đất: 15

E. Góc nhí nhố: 18

1. Trái Đất nặng bao nhiêu? 18

2. 10 điều thú vị về Trái Đất: 19

a. Bầu khí quyển 19

b. Sa mạc 19

c. Quả cầu xanh khổng lồ 19

d. Những đại dương muối mặn 19

e. Hồ và biển 19


f. Những dãy núi hùng vĩ 20

g. Hồ sâu nhất 20

h. Những cơn địa chấn 20

i. Nóng, nóng và nóng 20

j. Gió và bụi 20

3. Trước khi có hạt mưa đầu tiên: 20

II. CẤU TRÚC TRÁI ĐẤT: 21
A. CẤU TRÚC BÊN TRONG: 22

1. LỚP VỎ TRÁI ĐẤT: 22

a. VỎ LỤC ĐỊA: 23

b. VỎ ĐẠI DƯƠNG: 24

c. VẬT LIỆU CẤU TẠO VỎ TRÁI ĐẤT 24

d. THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA VỎ TRÁI ĐẤT: 25

Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 2
2. LỚP MANTIN (QUYỂN MANTIN): 26


3. NHÂN TRÁI ĐẤT: 27

B. Khí quyển: 29

C. CÁC TÍNH CHẤT VẬT LÝ CỦA TRÁI ĐẤT: 31

1. Từ tính của Trái Đất: 31

2. Áp suất và trọng lực bên trong Trái Đất: 32

3. Nhiệt bên trong Trái Đất: 34

III. CHUYỂN ĐỘNG CỦA TRÁI ĐẤT: 35
A. Trái Đất quay quanh trục của nó 35

1. Hiện tượng: 35

2. Chứng minh Trái Đất quay xung quanh trục của nó: 36

a. Mô hình thí nghiệm: 36

b. Thí nghiệm: 36

c. Hiện tượng thực tế: 37

3. Hệ quả của chuyển động quay quanh trục của Trái Đầt: 37

a. Sự luân phiên ngày và đêm : 37

b. Giờ trên Trái Đất và đường chuyển ngày quốc tế : 38


c. Sự lệch hướng của các vật thể : 39

4. Thông tin lí thú: 39

a. Tại sao chúng ta không cảm thấy Trái Đất đang quay? 39

B. Trái Đất quay quanh Mặt Trời: 40

1. Hiện tượng: 40

2. Chứng minh Trái Đất quay quanh Mặt Trời: 41

a. Hiện tượng thứ nhất: 41

b. Hiện tượng thứ hai chứng tỏ Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời là tinh
sai. 41

3. Chuyển động có chu kì của Trái Đất quanh Mặt Trời: 42

4. Thông tin lí thú: 44

a. Do ảo ảnh ta thường cho rằng Mặt Trời chuyển động chứ không phải Trái
Đất 44

b. Hiện tượng Nhật thực - Nguyệt thực: 45

C. Chuyển động của trục quay của Trái Đất: 46

1. Tiến động 46


2. Chương động. 48

a. Chương động là: 48

b. Các giá trị của chương động gồm: 49

Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 3
c. Sự di chuyển của cực Trái Đất trên mặt của nó 49

D. Sự quay của Trái Đất trong Thiên Hà: 49

IV. Trường hấp dẫn: 50
A. Trường hấp dẫn là gì: 50

1. Khái niệm về trường hấp dẫn: 50

2. Định luật vạn vật hấp dẫn của newton: 50

B. Đo hằng số hấp dẫn: 53

C. Bạn biết chưa? 55

1. Thời gian chậm lại trong trường hấp dẫn 55

D. Các sóng hấp dẫn lan truyền với vận tốc ánh sáng 56

E. Thiết lập biểu thức định luật vạn vật hấp dẫn từ ba định luật
Kepler: 57


1. Ba định luật Kepler: 57

2. Lập luận dẫn đến định luật van vật hấp dẫn 58

F. Chuyển động của các thiên thể trong trường hấp dẫn 59

1. CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC THIÊN THỂ TRONG TRƯỜNG LỰC
HẤP DẪN 59

a. CHUYỂN ĐỘNG KHÔNG NHIỄU LOẠN CỦA CÁC THIÊN THỂ 60

G. Các hiện tượng vật lí có liên quan đến định luật vạn vật hấp dẫn:
65

1. Hiện tượng nhật thực, nguyệt thực 65

a. Một số quan điểm : 65

b. Giải thích hiện tượng: 66

c. Nhật Thực 66

d. Nguyệt thực 70

e. Những điều lí thú về Nguyệt thực và Nhật thực: 71

2. Hiện tượng thủy triều: 75

a. Khái niệm thủy triều 75


b. Nguyên nhân 75

H. Trường hấp dẫn của Trái Đất – trọng lực: 80

1. Trọng lực là gì? 80

2. Sự rơi tự do: 80

a. Định nghĩa: 80

b. Gia tốc rơi tự do: 80

I. Vận tốc vũ trụ: 82

Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 4
1. Vận tốc vũ trụ cấp 1(tốc độ vũ trụ cấp 1): 83

2. Tốc độ vũ trụ cấp 2 (vận tốc vũ trụ cấp 2 hay vận tốc thoát ly): 84

3. Vận tốc vũ trụ cấp 3: 85

J. Trái Đất – hệ quy chiếu phi quán tình: 86

1. Hệ qui chiếu quán tính 86

2. Hệ qui chiếu không quán tính và lực quán tính 87

a. Định nghĩa hệ qui chiếu không quán tính: 87


b. Lực quán tính 87

3. Lực quán tính trong vài hệ qui chiếu không quán tính đơn giản 88

a. Hệ qui chiếu chuyển động thẳng với gia tốc là
a

88

b. Hệ qui chiếu không quán tính có chuyển động quay tròn đều 89

4. Một số biểu hiện thực tế của lực quán tính li tâm và lực coriolic do sự
quay của Trái Đất 92

a. Thể hiện của lực li tâm quán tính: 92

b. Thể hiện của lực Coriolis: 94

K. Trọng lượng của các vật _ trạng thái tăng, giảm và không trọng
lượng: 100

1. Trọng lượng: 100

2. Trạng thái tăng giảm và không trọng lượng : 101

3. Những tác động sinh lý của tình trạng không trọng lượng 104

4. Một số định luật vật lý trong tình trạng không trọng lượng 104


5. PHƯƠNG TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG TRONG HỆ QUY CHIẾU
KHÔNG QUÁN TÍNH 105

6. PHƯƠNG TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG CỦA CHẤT ĐIỂM GẦN BỀ
MẶT TRÁI ĐẤT 106

V. Có thể bạn chưa biết! 113
A. Nguồn gốc hình dạng và phạm vi của từ trường Trái Đất: 113

1. Nguồn gốc 114

2. Hình dạng 115

3. Vai trò và ảnh hưởng của từ trường: 116

B. Từ trường Trái Đất 'đẩy' oxy ra khỏi khí quyển 117

C. Tại sao từ trường Trái Đất suy yếu? 118

D. Phát hiện hành tinh giống Trái Đất 120

E. Trái Đất sẽ kết thúc như thế nào? 121

F. Làm thế nào để bay khỏi Trái Đất? 121

Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 5
G. Khí hậu làm thay đổi hình dạng Trái Đất 122

H. Ở đâu các vật nặng hơn? 124


I. Vì sao chúng ta không cảm thấy Trái Đất chuyển động? 125

J. Trái Đất tự quay một vòng có đúng một ngày không? 126

K. Trái Đất có thể phóng nhiệt ra ngoài được không? 127

L. Động đất có liên quan đến Mặt Trăng không? 127

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 128

Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 6
LỜI MỞ ĐẦU:
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 7

I. Sự hình thành và hình dạng của Trái Đất:
A. Bạn đã biết gì về hành tinh của chúng ta?
- Khoảng cách đến Mặt Trời ( triệu km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) : 152,1 và 1
- Chu kì quay quanh Mặt Trời : 365,25 ngày
- Chu kì quay quanh trục : 24 giờ - 1 ngày
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ) :
23,5
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng
đạo ( tính bằng độ ) : 0
- Đường kính ở xích đạo ( km ) : 12.756
- Khối lượng so với Trái Đất ( 5.974 x 10
24
): 1

- Khối lượng riêng ( g/cm
3
): 5,52
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 29,8
- Gia tốc trọng trường ( m/s
2
) : 9,78
- Nhiệt độ bề mặt :(độ)
+ Cao nhất : 55
+ Trung bình : 22
+ Thấp nhất : -70
- Thành phần cấu tạo chủ yếu : Fe , silicat
- Số vệ tinh : 1
- Khí quyển : có
- Thành phần khí quyển : N
2
, O
2
, Ar , H
2
O , CO
2

B. Đặc điểm:
Là hành tinh thứ 3 của hệ Mặt Trời,với kích thước vừa phải (đường kính 12.750km),
Trái Đất chỉ lớn hơn sao Kim một chút, tỉ trọng chỉ hơn sao Thuỷ một chút, còn cấu
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 8
tạo bên trong và thành phần hoá học thì Trái Đất không khác nhóm các hành tinh bên
trong là bao nhiêu, tuy tỉ lệ từng thành phần khác với các hành tinh này.

Nhìn từ vũ trụ , Trái Đất hiện ra như 1 hành tinh xanh: màu xanh biển của các đại
dương, màu trắng pha lơ các mây bao bọc bên ngoài, và màu xanh lá cây chen lẫn màu
nâu của các lục địa lúc ẩn lúc hiện bên dưới màn mây.
Khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời là 150 triệu km. Đó là khoảng cách đủ để
nước có thể tồn tại được ở thể lỏng, rất cần cho sự sống. Khoảng cách này cũng là
khoảng cách để nhiệt đến từ Mặt Trời ở mức độ thuận lợi cho các phản ứng hoá học
tạo nên các hợp chất hữu cơ.
Khối lượng vừa phải của Trái Đất đủ để giữ lại 1 bầu khí quyển không quá đậm đặc
đến mức nguy hại như ở sao Kim, nhưng cũng không quá loãng đến mức không giữ
được nhiệt như ở sao hoả hay Mặt Trăng. Trong suốt quá trình phát triển, bầu khí
quyển Trái Đất luôn biến đổi chậm chạp, giảm dần lượng khí CO
2
, tăng dần khí oxi.
Đầu tiên khí cacbonic, hơi nước và nitơ thoát ra từ các miệng núi lửa được giữ lại
trong khí quyển. Sau đó các đại dương được hình thành từ sự nguội lạnh và ngưng kết
của hơi nước trong khí quyển rơi xuống. Khi có đại dương, nước hấp thụ bớt khí CO
2
trong khí quyển. Đến khi các sinh vật đầu tiên xuất hiện ở biển, trong đó có loài tảo
lục, thì sự hấp thụ CO
2
và thải khí oxi và trong không khí ngày càng tăng. Ngày nay,
khí quyển chứa 78% nitơ, 21% oxi và 1% còn lại là CO
2
, acgong, metan, hơi nước và
các khí khác. Từ những sinh vật đầu tiên xuất hiện cho đến nay, quá trình oxi hoá bầu
khí quyển Trái Đất đã diễn ra gần 3 tỉ năm. Mặc dù có 1 tỉ lệ rất thấp ở lớp không khí
đậm đặc sát mặt đất, hơi nước (khoảng 0,5 – 5%), CO2 (0,03%), khí metan và ozon
(vài phần triệu) lại có vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống. Khí CO
2
và hơi nước

hấp thu năng lượng Mặt Trời, giữ lại các tia hồng ngoại, gây hiệu ứng nhà kính điều
hoà nhiệt độ trên Trái Đất. Còn ozon với nồng độ cao ở cách mặt đất 80km có vai trò
hấp thụ các tia cực tím nguy hiểm với sự sống không cho xuống đến mặt đất. Khí
quyển còn như 1 cỗ máy thiên nhiên sử dụng năng lượng Mặt Trời phân phối điều hoà
nước trên khắp hành tinh dưới hình thức mây mưa, điều hoà lượng CO
2
và O
2
trên Trái
Đất … Bầu khí quyển của Trái Đất có chiều dày vào khoảng hơn 800 km gồm nhiều
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 9
tầng. Từ mặt đất lên đến độ cao 20km là tầng đối lưu có không khí đậm đặc nhất, là
nơi diễn ra mọi hiện tượng khí tượng mây mưa sấm chớp, có nhiệt độ giảm dần theo
độ cao. Từ độ cao 20km là tầng bình lưu có nhiệt độ tăng dần từ -60
o
C đến 0
o
C, là
nơi các luồng không khí chuyển động theo chiều ngang với tốc độ cao và có lớp ozon
ở trên cùng. Tầng giữa nằm từ 50 – 80km là nơi các thiên thạch nhỏ va vào Trái Đất,cọ
sát vào không khí và bị bốc cháy tan thành sao băng. Tầng nhiệt ở độ cao 80 – 450 km,
có không khí rất loãng tồn tại dưới dạng ion điện nên còn gọi là tầng điện li, là nơi
phản hồi các sóng vô tuyến trở lại mặt đất và cũng có 1 lớp ozon ngăn chặn các tia cực
tím ở trên cao. Đây cũng là nơi diễn ra các hiện tượng cực quang, hiện tượng này chỉ
thấy được ở vùng gần cực. Trên cùng là tầng ngoài nằm từ 450km đến khoảng 800 km,
không khí loãng dần và hoà vào không gian giữa các hành tinh.
Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy lượng ozon trong tầng thấp nhất của khí
quyển ngày càng nhiều trong khi đó hàm lượng ozon trong tầng bình lưu ngày càng
giảm(đã giảm tới 6%,và đã bị lủng ở nam cực) từ 20 năm trở lại đây. Hậu quả của sự

suy giảm này là các tia cực tím có thể xuyên qua khí quyển đến mặt đất ngày càng
nhiều hơn và làm cho nhiệt độ trong tầng đối lưu và ngày càng nóng lên do hàm lượng
ozon gần mặt đất ngày càng tăng.
Ngoài ra Trái Đất còn có đặc điểm : đây là 1 hành tinh còn đang hoạt động. từ 1
thiên thể nóng bỏng ban đầu ,mặt ngoài của Trái Đất nguội dần tạo thành lớp vỏ cứng
của Trái Đất,dày khoảng 30km. Lớp vỏ này gồm nhiều mảng ghép lại ,có 7 mảng lớn
và hơn một chục mảng nhỏ . Chúng trôi trượt ,va đập vào nhau ở bên trên lớp bao vẫn
còn nóng chảy ở nhiệt độ 1.000
o
C ,dày khoảng 2.900km,với thành phần chủ yếu là sắt
(90%) và các nguyên tố nhẹ silic, oxi(10%). Trong cùng là lớp nhân gồm 2 phần :
nhân ngoài dày khoảng 2.200km gồm sắt, niken, oxi ở trạng thái nóng chảy đặc quánh,
và nhân trong dày khoảng 1.300km, gồm sắt, niken bị nén chặc ở nhiệt độ tới 4.000
o

C. Nơi các mảng nền va chạm, cọ quẹt vào nhau là nơi thường xảy ra hiện tượng động
đất hoặc núi lửa phun, nơi dồn ép đất đá lắng tụ dưới đáy biển lên thành núi cao.
Sự trôi trượt và chuyển dịch liên tục của các mảng nền trôi trên lớp bao làm cho bề
mặt Trái Đất luôn biến đổi không ngừng. Cách đây 250 triệu năm ,trên Trái Đất chỉ có
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 10
1 lục địa duy nhất là lục địa Pangiêa và 1 đại dương khổng lồ là biển Têtít. Cách đây
120 triệu năm đã tách ra thành 2 lục địa Gôngvana và Lôraxia còn bây giờ đã thành 6
lục địa và 4 đại dưong.
Trên Trái Đất cũng còn không ít miệng hố thiên thạch. Từ việc nghiên cứu các mẫu
đất đá trên Mặt Trăng, sao Kim, sao Hoả,…do các tàu thăm dò vũ trụ mang về, cùng
với việc nghiên cứu các miệng hố thiên thạch trên các hành tinh và các vệ tinh và vệ
tinh khác trong hệ Mặt Trời, các nhà khoa học đã nhận thấy có mối tương quan giữa
tuổi hành tinh với số lượng hố thiên thạch, hành tinh được hình thành càng lâu, càng
có nhiều miệng hố thiên thạch. Số thiên thạch rơi vào các hành tinh, vệ tinh nhiều nhất

là trong khoảng thời gian cách đây khoảng 4 tỉ năm, giảm dần cách đây 3,5- 4 tỉ năm
tuổi và từ 3,5 tỉ năm trở lại đây đã ổn định ở con số không nhiều lắm. Bản đồ phân bố
các miệng hố thiên thạch phần lớn có tuổi dưới 200 triệu năm, còn số tuổi trên 600
triệu năm chỉ vài ba cái. Tính bình quân ra, với những thiên thạch có đường kính trên
10km thì cứ 3 triệu năm mới va chạm với Trái Đất 1 lần.
Trái Đất tự quay quanh trục 1 vòng hết 24 giờ và quay quanh Mặt Trời 1 vòng hết
365 ngày và 6 giờ với tốc độ 29,8km/giây. Khi quay, trục quay của Trái Đất nghiêng
với mặt phẳng hoàng đạo 23
0
24’ và luôn nghiêng về 1 phía, đã tạo ra các hiện tượng
các mùa khí hậu. Với hình dạng khối cầu, khi quay Trái Đất đã tạo ra sự phân bố nhiệt
độ không đều trên bề mặt từ xích đạo về phía 2 cực, gây nên sự chênh lệch về khí áp,
tạo ra hệ thống các loại gió điều hoà nhiệt độ Trái Đất. Chuyển động quay của Trái
Đất không quá nhanh để lực ly tâm có thể bắn chúng ta ra ngoài không gian. Lực ly
tâm tác động lên mọi vật cùng quay theo Trái Đất nhưng vô cùng nhỏ. Lực ly tâm lớn
nhất ở xích đạo ,nó kéo mọi vật lên trên và làm cho chúng nhẹ hơn 1 chút ít. Vì thế
mọi vật ở xích đạo cân nhẹ hơn 5% so với ở 2 cực, và cũng vì vậy mà Trái Đất hơi bị
phình ra ở xích đạo, bán kính xích đạo lớn hơn bán kính từ 2 cực đến tâm Trái Đất
21km.
C. Một số giả thiết về sự hình thành của Trái Đất:
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 11
1. Giả thuyết Căng
Giả thuyết này ra đời năm 1755. Lần đầu tiên quan niệm cổ truyền của tôn giáo về vũ
trụ bị đánh đổ bởi một nhà triết học chứ không phải một nhà khoa học tự nhiên.
Căng cho rằng hệ Mặt Trời đã được hình thành từ một đám mây bụi vũ trụ, một tinh
vân gồm những vụn nhỏ riêng biệt giống như những tinh thạch, và bất động. Dưới tác
dụng của lực hấp dẫn vũ trụ, các vụn trở nên chuyển động. Những phần tử nhẹ và đám
mây bụi bị xé ra làm nhiều mảng. Một trong những mảng ấy về sau thành hệ Mặt Trời,
trong đó khối lớn ở trung tâm hút những khối lân cận và dần dần tạo thành Mặt Trời.

Xung quanh khối trung tâm, những vùng tập trung ít nhiều vật chất cũng hút những
phần tử ở gần để tạo ra các hành tinh và vệ tinh.
Giả thiết Căng đã nêu lên quá trình tiến hóa của các thiên thể mà thời bấy giờ người
ta coi như không hề thay đổi từ khi thượng đế tạo nên.
Vì ông chỉ là nhà triết học, giả thiết của ông còn nhiều điểm mơ hồ, không chính
xác, do đó ít được chú ý. Theo ông thì hệ Mặt Trời là một khối nóng đỏ, dần dần
ngưng đọng lại, Mặt Trời theo giả thuyết này với thời gian sẽ phải tắt hẳn.
2. Giả thuyết Laplatxơ
Ðây là một giả thuyết đầu tiên tương đối có hệ thống, nó ảnh hưởng rất lớn trong hơn
một thế kỷ.
Laplatxơ giả thuyết rằng hệ Mặt Trời phát sinh từ một tinh vân khổng lồ từ chất khí vũ
trụ có nhiệt độ rất cao và tự quay xung quanh một trục giữa cố định. Khi nguội đi, tinh
vân giảm thể tích và vẹt lại ở hai cực đồng thời tốc độ quay nhanh lên (theo định luật
bảo toàn động lượng). Khi lực ly tâm lớn hơn lực hấp dẫn thì các phần vật chất ở xa
ngoài trục quay sẽ bị tách ra và tiếp tục quay xung quanh tinh vân ở vị trí lực hấp dẫn
cân bằng với lực ly tâm.
Càng ngày tinh vân càng giảm thể tích lại và tỷ trọng càng tăng lên, cuối cùng khối
tinh vân còn lại ở giữa hình thành Mặt Trời. Các dòng khí xung quanh sẽ ngưng tụ lại
tạo thành các hành tinh. Tại những khu vực nào đó của dòng khí, vật chất tập trung
nhiều hơn tiếp tục thu hút những vật chất xung quanh vào mình để hình thành các hành
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 12
tinh, nếu như dòng khí mà vật chất trong đó phân bố đồng điều thì sẽ hình thành các
tiểu hành tinh.
Theo giả thuyết này thì Trái Đất ban đầu là một khối khí rất nóng rồi nguội dần. Vỏ
ngoài nguội trước nhăn lại, chỗ cao thành núi, chỗ thấp thành đáy biển. Ðến khi nhiệt
độ xuống dưới 1000C thì hơi nước trong không gian quanh Trái Đất bắt đầu đông lại
và rơi xuống các chỗ trũng để trở thành nước ớ các biển đầu tiên. Sau này, vật chất
trong lòng Trái Đất vẫn còn nóng chảy. Mỗi khi có vết nứt ở vỏ, các chất nóng chảy từ
trong lòng phun ra thành núi lửa.

Những tồn tại của giả thuyết:
- Nếu quả thực tinh vân ban đầu theo Laplatxơ quay nhanh để làm văng các khối vật
chất, thì không phải chỉ có những dòng khí tách ra mà cả tinh vân đó sẽ nổ tan.
- Theo như các nghiên cứu hiện nay quá trình hình thành núi không chỉ do vỏ đầu tiên
của Trái Đất nhăn lại mà chủ yếu được hình thành trong chu trình phát triển của vỏ
Trái Đất (quá trình kiến tạo mảng).
- Laplatxo cho rằng các khối vật chất từ tinh vân nguyên thủy thoát ra đều quay cùng
chiều xung quanh trục của tinh vân. Nhưng ngày nay người ta quan sát thấy sao Kim
và sao Thiên Vương có chiều quay ngược lại, sao Mộc và sao Hải Vương cũng có vệ
tinh bay ngược chiều. Và điều nay đã không giải thích được.
3. Giả Thuyết ÔTÔ XMIT
Giả thuyết này được xây dựng từ năm 1944. Năm 1951 viện hàn lâm khoa học Liên
Xô đã đã dưa ra thảo luận rất kỹ giả thuyết này. Hội thảo đã xác nhận giá trị khoa họa
lớn lao của nó, vì lần đầu tiên những đặc điểm cơ bản về cấu tạo của hệ Mặt Trời được
giải thích theo một logic chặt chẽ. Ðồng thời, hội thảo cũng nêu ra một số thiếu sót
trong công trình của Ôtô Xmit để ông tiếp tục nghiên cứu.
Theo ông thì trước khi hình thành các hành tinh, hệ Mặt Trời gồm có Mặt Trời và một
đám mây chủ yếu là những hạt rắn nguội lạnh. Những hạt rắn ấy có tên chung là
những thiên thạch. Ðám mây có hình dáng vẹt, và các hạt rắn quay theo những hướng
khác nhau trên nhiều mặt phẳng khác nhau trong thiên hà. Ðến một lúc nào đó Mặt
Trời đi vào một trong những đám mây như thế, làm cho mỗi hạt có thêm một chuyển
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 13
động mới: là chuyển động tròn xung quanh Mặt Trời. Trong khi chuyển động các hạt
va chạm vào nhau, nóng lên và tốc độ giảm đi. Nếu các hạt chỉ có chuyển động hỗn
độn thì sự giảm tốc độ của chúng sẽ khiến chúng rơi vào Mặt Trời. Nhưng vì các hạt
còn có chuyển động tròn xung quanh Mặt Trời nên tốc độ của chuyển động hỗn độn
dần mất đi để nhường chỗ cho chuyển động tròn xung quanh Mặt Trời. Như vậy các
hạt sẽ tụ tập vào trong mặt phẳng xích đạo của Mặt Trời và đám mây trở nên có hình
dáng một cái đĩa xoay tròn, nơi đây mật độ của vật chất tăng lên, do đó lực hấp dẫn

của các hạt lẫn nhau càng mạnh. Những hạt lớn hút những hạt bé va chạm phải chúng.
Các hạt khi thì vỡ ra, khi thì kết tụ lại dần lớn lên và cuối cùng trở thành hành tinh.
Các vật chất ở gần Mặt Trời là nham thạch và kim loại chịu nóng, còn ở xa Mặt Trời
cá hạt lớn dần lên nhờ các chất khí trong đám mây nguyên thủy đọng lại xung quanh
các hạt bụi. Do vậy ở gần Mặt Trời chỉ có thể hình thành những hành tinh thuộc nhóm
Trái Đất nhỏ, ở xa Mặt Trời là những hành tinh lớn cấu tạo bởi những chất nhẹ.
Theo tác giả thì Trái Đất khi mới hình thành, Trái Đất chỉ là một khối nguội lạnh và
chỉ nhận nhiệt từ một nguồn duy nhất là Mặt Trời, lúc ấy nhiệt độ vào khoảng 4
o
C.
Trong quá trình thành tạo, các chất phóng xạ tập trung lại trong lòng Trái Đất, nhiệt
lượng do chúng phóng ra sẽ làm tăng nhiệt độ trong lòng Trái Đất. Sự phân bố các
chất phóng xạ trong lòng Trái Đất không đồng điều, cho nên tạo nên những lò phát
sinh nhiệt riêng biệt. Trái Đất dần tiến tới trạng thái cân bằng do sự chuyển động
tương tác của các khối tinh thạch. Lúc dầu các tinh thạch gắn vào nhau lộn xộn không
theo một trật tự nào cả. Về sau các chất trong lòng Trái Đất, dưới tác dụng của lực ép
khổng lồ (về nhiệt độ), chảy ra ở trạng thái dẻo và rất nhớt. Trong trạng thái này,
những chất nặng hơn (kim loại) chuyển xuống trung tâm, còn những chất nhẹ hơn (đá)
dần dần nổi lên trên. Chuyển động như thế làm cho Trái Đất có cấu trúc thành các
quyển và có nhân nặng. Ông cũng cho rằng quá trình tạo núi là do quá trình tăng nhiệt
độ như thế.
Ở một giai đoạn phát triển nhất định của Trái Đất, khi khối lượng đạt tới độ lớn cần
thiết thì bắt đầu hình thành khí quyển. Các chất khí điều nằm trong đám mây bụi,
nhưng khí nguyên sinh có lẽ do sự dồn ép các khí từ trong lòng hành tinh mà có.
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 14
Sự phát sinh các nguồn năng lượng bên trong (từ sự phân hủy phóng xạ, sự phân dị
trọng lượng và các phản ứng hóa học) đặc cơ sở cho sự đội lên và lún xuống ở các khu
vực của Trái Đất và cho các quá trình hoạt động của núi lửa. Trong các bồn trũng,
nước tích tụ lại, biển và đất nổi bắt đầu được phân chia.

Những thiếu sót của giả thuyết
Thiếu sót chính của giả thuyết là không đề cập đến các quá trình tiến hóa của Mặt
Trời và của các vì sao. Một điểm khác là sự tồn tại trong không gian giữa các vì sao
những vụn tinh thạch khá lớn có thể bị ngôi sao thu hút và không bị áp lực ánh sáng
đẩy ra chưa được chứng minh.
Tóm lại, giả thuyết Oâtô Xmit giải thích một cách hiệu quả một số lớn những hiện
tượng trong sự cấu tạo hành tinh , nhưng có yếu điểm là chưa gắn nguồn gốc của hệ
Mặt Trời với sự tiến hóa của các sao và các thiên thể khác nói chung. Tuy có minh
định nguồn gốc của các hành tinh nhỏ bé một cách rõ ràng, các hành tinh lớn lại có các
tính chất vật lý ngoài sức giải thích của nó.
Kết luận: Qua các giả thuyết trên đây chúng ta thấy việc tìm hiểu nguồn gốc các hành
tinh trong hệ Mặt Trời là một vấn đề rất khó khăn, giả thuyết sau có hoàn chỉnh hơn
giả thuyết trước, nhưng tới nay nguồn gốc Trái Đất chưa phải đã được làm sáng tỏ
hoàn toàn.
D. Hình dạng Trái Đất:
1. Các học thuyết về dạng hình cầu của Trái Đất (Trái Đất):
Vào thế kỉ thứ IX trước công nguyên, những
ngưới thuộc trường phái Pythagores đã xây
dựng nên học thuyết về dạng hình cấu của
Trái Đất. Học thuyết này không dựa trên cơ sở
những quan sát thực nghiệm mà lại dựa trên
cơ sở logic học: Trái Đất là một vật thể hoàn
hảo thỉ phải có một dạng hoàn hảo – dạng
hình cầu.
Cho đến thế kỉ thứ V trước công nguyên, biểu
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 15
tượng về hình dạng của Trái Đất chỉ dựa trên cơ sở tri giác cảm tính. Ngưới ta cho
rằng Trái Đất có bề mặt bằng phẳng, có
dạng như một cái đĩa và bị bao quanh bởi

một con sông thần thoại gọi là Đại Dương.
Một số nhà triết học cổ Hy Lạp nghĩ rằng
Trái Đất là một tạo phẩm của thượng đế, mà
tạo phẩm của thượng đế bao giớ cũng hoàn
hảo. như vậy Trái Đất phải có một dạng
hoàn hảo nhất trong số các dạng toán học, tức là dạng hình cầu. ngay trong thời kì cổ
sơ đó, người ta cũng đã tìm thấy những bằng chứng cơ bản về dạng cầu của Trái Đất
và trong nhận thức khoa học về hình dạng của Trái Đất, điều đó là bước đầu tiên để đi
đến chân lí.
Đến thế kỉ thứ IV trước công nguyên, nhà triết học Aristote đã chứng minh được rằng
Trái Đất có dạng hình cầu khi ông quan sát hiện tượng nguyệt thực.
Bước sang thế kỉ thứ III trước công nguyên, nhà học giả Eratosthenes ở thành phố
Alexanđri đã tính được kích thước của hình cầu với độ dài của vòng tròn (chu vi) lớn
gần với thực tế một cách lạ thường vào khoảng 40.000 km.
2. Lí thuyết về hình dạng phổng cầu của Trái Đất:
Hình dạng của Trái Đất được tạo nên dưới tác dụng của hai loại lực
Lực hấp dẫn: tạo nên dạng hình cầu , bởi vì trên Trái Đất lực hấp dẫn lớn hơn 100 lần
lực liên kết của thép, còn trên các thiên thể nhỏ khác, như trên các tiểu hành tinh, chỉ
lực liên kết có hiệu lực cho nên các thiên thể này không có dạng hình cầu.
Lực li tâm: được sinh ra do Trái Đất quay quanh trục gây nên sự nén ở hai cực (sự dẹt)
và quy định dạng phổng cầu của Trái Đất. Độ sai lệch của hình phổng cầu với hình cầu
được quy định bởi tốc độ quay quanh trục, tốc độ này càng tăng lên thì lực nén ở hai
cực càng lớn.
Độ dẹt ở hai cực của Trái Đất được phát hiện từ thế kỉ thứ XVII, khi vào năm 1672,
Pise đem chiếc đồng hồ quả lắc từ Paris sang Cayenne (thủ đô của Guyane, ở gần xích
đạo) ở Nam Mỹ đã nhận thấy rằng quả lắc của chiếc đồng hồ này có chiếc dài đến mức
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 16
mà ở Paris chu kì lắc bằng một giây. Ở gần xích đạo, đồng hồ đã chậm đi 2 phút 20
giây trong một ngày. Newton và Huyghens giải thích hiện tượng đó bằng sự giảm đi

của trọng lực ở độ vĩ xích đạo so với các độ vĩ trung bình. Sự giảm đi này đã sinh ra do
sự nén vào ở hai cực và sự dãn ra ở xích đạo, nghĩa là sức hút của Trái Đất ở Paris lớn
hơn ở xích đạo. Sự giải thích này dẫn đến kết luận là hình dạng Trái Đất không phải là
một khối cầu, mà là một khối cầu dẹt ở hai cực hay một khối elipxoit, tức dạng phỏng
cầu – kết quả của hiện tượng tự quay quanh trục của Trái Đất. Tốc độ quay càng nhanh
thì độ dẹt càng lớn.
Đến thế kỉ XIX, Sube (1859) – nhà khoa học người Nga lại cho rằng hình phỏng cầu
của Trái Đất không những chỉ dẹt ở hai cực mà còn dẹt ở cả xích đạo, nghĩa là xích
đạo không phải là một đường tròn hoàn toàn mà cũng là một đường elip. Nhưng độ dẹt
đó rất nhỏ, chỉ bằng 1/30.000 bán kính xích đạo.
Những công cuộc trắc địa ở Liên Xô (cũ) dưới sự lãnh đạo của Krasovsky (1942) cho
thấy quan niệm hình dạng Trái Đất như một khối phổng cầu có hai trục là không đầy
đủ. Các bán trục xích đạo hay các bán kính của khối phỏng cầu Trái Đất không như
nhau. Khối phỏng cầu Trái Đất, ít ra là ở bán cầu Bắc được đo bằng phương pháp trắc
địa gồm có ba trục. trên cơ sở những kết quả đo đạt trắc địa trên, ngưới ta đã tính ra
được kích thước của một khối elipxoit tham chiếu, nghĩa là khối elipxoit Trái Đất đã
được tính toán về mặt toán học với những kích thước nhất định, và với vị trí trong vật
thể của Trái Đất được dùng làm bề mặt trên đó có dẫn ra mọi kết quả đo đạc trắc địa.
Ở Nga, nhũng kích thước sau đây của elipxoit ba trục đã được thừa nhận:
Bán kính xích đạo hay bán trục lớn a = 6.378,160 km
2
Bán kính ở cực hay bán trục nhỏ b = 6.356,770 km
2
Độ dẹt ở cực = 1/298 = 21,360 km
2
Độ dẹt ở xích đạo = 1/30.000 = 0,213 km
2
Chiều dài vòng kinh tuyến = 40.008,5 km
2
Chiều dài xích đạo = 40.075,7 km

2
Diện tích bề mặt Trái Đất = 510.200.000 km
2
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 17
Thể tích Trái Đất = 1,083.1012 km
3
Bán trục lớn nhất ở xích đạo nằm trên kinh tuyến 150 kinh đông và bán trục nhỏ nhất ở
1050 kinh đông.
Sự sai biệt về hình dạng của Trái Đất giữa khối hình cầu và khối phỏng cầu ba trục
không lớn, chỉ có 21,36 km ở các cực.
Trái Đất có dạng geoid.
Hình dạng của Trái Đất không phải là được đặt tên theo bề mặt tự nhiên của nó với các
miền núi, đồng bằng, đại dương, mà là theo một bề mặt lí thuyết. Đó là bề mặt cùng
mức của thế năng trọng lực, nghĩa là một bề mặt ở khắp nơi đều vuông góc với trọng
lưc, được gọi là geoid theo nghĩa đen là hình dạng của Trái Đất). Nói cách khác, hình
dạng của Trái Đất không trùng với bất kì một hình thức toán học nào và có hình dạng
rất cá biệt: hình dạng tự cầu.
Nguyên nhân Trái Đất có dạng geoid là do ngoài lực liên kết và lưc quay, hình dạng
của Trái Đất được quy định bởi sự phân bố các loại đá nặng và nhẹ trong vật thể của
nó, bởi vì trị số của trọng lực có liên quan với tỉ trọng của đá. Ở những nơi tích tụ đá
nặng, bề mặt Trái Đất nằm nhích lại gần tâm, còn ở những nơi tích tụ các loại đá có tỉ
trọng nhỏ, bề mặt Trái Đất lại nằm cách xa tâm hơn.
Trái Đất có dạng geoid là kết luận được rút ra lần đấu tiên dựa trên cơ sở các công
trình đo cung độ, nhưng chỉ sự ra đời của các vệ tinh nhân tạo mới thực hiện được việc
làm sáng tỏ và việc đo đạc độ sai lệch của geoid so với khối phỏng cầu toán học ở mọi
thời điểm trên bề mặt đất liền và đại dương. Người ta thấy rằng Trái Đất hơi giống
hình quả lê hay trái tim : ở các độ vĩ trung bình của bán cầu nam, bề mặt của geoid cao
hơn bề mặt của khối phỏng cầu khoảng 20 m, ở xích đạo các bề mặt này trùng nhau,
còn ở các độ vĩ trung bình của bán cầu bắc thì bề mặt geoid thấp hơn bề mặt của khối

phỏng cầu; cực bắc cao hơn đến 15 m, cực nam thấp hơn 20 m và toàn bộ lục địa Nam
cực nằm thấp hơn bề mặt của khối phỏng cầu đến 30 m. Ở các đại lục, bề mặt geoid
nhô lên trên bề mặt khối bầu dục, ở các đại dương nó lại thấp hơn, nhưng sự khác biệt
nhau giữa các mục này trung bình không vượt quá trên dưới 7150 m . Những kết quả
quan sát của vệ tinh cho thấy cả nhũng biến dạng theo độ kinh của geoid và đã chứng
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 18
thực kết luận của các nhà trắc địa về tính ba trục của nó : thiết diện của Trái Đất cũng
không phải hình tròn mà là hình elip, bán trục lớn của nó dài hơn bán trục nhỏ của nó
đến 100 m.
Kết quả nghiên cứu của Belousov (1963) chỉ rằng, do độ nhớt đáng kể của vật chất
trong hành tinh, sự thay đổi hình dạng của Trái Đất sẽ phần nào chậm lại so với sự
thay đổi tốc độ quay của nó. Hình dạng hiện nay của Trái Đất tương ứng không phải
với tốc độ quay hiện nay mà với tốc độ của 10 triệu năm trước đây.
Theo A.Bom et al, vận động kiến tạo trong vật thể Trái Đất có liên quan với sự giảm
bớt có tính chất thế kỉ độ dẹt ở hai cực của hành tinh. Sự giảm bớt lâu dài độ dẹt ở hai
cực Trái Đất phải dẫn đến độ phình ở xích đạo và sự nâng lên của các miền gần cực,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất các đại lục ở vùng xích đạo và Đại Dương ở các
vùng cực và vùng ôn đới.
Theo Katterfeld (1962), ngày nay với sự phân bố đất và biển như vậy, độ dẹt ở bán cầu
Bắc giảm đi và ở bán cầu Nam lại tăng lên. Chắc có lẽ trong quá trình giảm bớt có tính
chất thế kỉ độ dẹt ở cực Trái Đất, bán cầu Bắc đi trước bán cầu Nam.
Các quan niệm về hình dạng Trái Đất nêu trên đã chứng tỏ các bước tiến trong nhận
thức của con người về không gian, về khía cạnh địa lí, và cả về khía cạnh phương
pháp.
Bước tiến 1: từ chỗ coi là có bề mặt phẳng, có dạng như cái đĩa đến Trái Đất có dạng
hình cầu (IV – III BC).
Bước tiến 2: Trái Đất có dạng hình phỏng cầu (elipxoit) (XVII – XVIII AC).
Bước tiến 3: Trái Đất có dạng hình tự cầu (geoid).
E. Góc nhí nhố:

1. Trái Đất nặng bao nhiêu?
Trọng lượng của cùng một vật thể, đặt ở Mặt Trăng sẽ nhẹ hơn so với Trái Đất tới 6
lần. Các vật có trọng lượng là do lực hút Trái Đất mà sinh ra. Trái Đất có khối lượng
bằng 5,98 x 10
27
gam, xấp xỉ 6 triệu kilôgam. Trọng lượng của một vật thể nặng tỷ lệ
thuận khối lượng Trái Đất và tỷ lệ nghịch với bán kính Trái Đất (6.370 km). Nếu xác
định được hằng số tỷ lệ (hằng số vạn vật hấp dẫn) trong mối quan hệ đó thì có thể tính
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 19
ra trọng lượng của Trái Đất. Giữa thế kỷ XVIII, nhà khoa học Anh Cavendis thông qua
thử nghiệm đã rút ra được trị số chính xác của hằng số đó. Cho nên khối lượng của
Trái Đất cũng tính ra được.
Biết bán kính Trái Đất có thể tính được thể tích của Trái Đất bằng 1,08 x 1027 cm
2

khối lượng riêng trung bình của Trái Đất bằng khối lượng chia cho thể tích bằng 5,52
g/cm
3
, khối nham thạch trên bề mặt Trái Đất lớn gấp đôi. Cho nên qua đó có thể đoán
hết, trong lòng đất có thể có các chất thuộc kim loại nặng như sắt, niken…
2. 10 điều thú vị về Trái Đất:
a. Bầu khí quyển
Bầu khí quyển bao trùm Trái Đất có rất nhiều tầng: tầng
trung, tầng điện ly, tầng thượng, tầng ngoài khí quyển nhưng
chỉ có tầng đối lưu là gần nhất với mặt đất, cung cấp không
khí cho sự sống của con người và muôn loài. Đây cũng là
tầng khí mỏng nhất, chỉ dày hơn 15km.
b. Sa mạc
Cho dù bạn có tin hay không thì hầu hết các sa mạc trên

Trái Đất không hoàn toàn bao gồm bởi cát mà khoảng 85%
là đá và sỏi. Sa mạc lớn nhất thế giới, Sahara, chiếm 1/3
diện tích châu Phi (và ngày càng mở rộng lãnh thổ) có thể
bao trùm cả lục địa châu Mỹ.
c. Quả cầu xanh khổng lồ
Trái Đất trên thực tế không phải là hình tròn mà chỉ là một
quả cầu dẹt ở hai đầu trên và dưới.
d. Những đại dương muối mặn
Nếu như con người có thể làm bay hơi tất cả nước trên tất cả các
đại dương của Trái Đất và trải đều số muối thu được sau quá trình
làm bay hơi đó lên khắp mặt đất thì mọi vật trên hành tinh này sẽ
được phủ một lớp muối dày hơn 150m.
e. Hồ và biển
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 20
Hồ lớn nhất trên thế giới là Biển hồ Caspi, biên giới tự nhiên giữa
Iran và Nga. Khái niệm hồ và biển đôi khi không được phân biệt rõ
ràng.
f. Những dãy núi hùng vĩ
Dãy núi Andes ở Nam Mỹ dài hơn 7.060 km và là dãy núi dài nhất
thế giới; tiếp theo sau Andes lần lượt là dãy Rockies, Himalayas, Great Dividing
Range ở Úc, Trans-Antarctic.
g. Hồ sâu nhất
Hồ sâu nhất thế giới thuộc về Baikal của Liên Xô (cũ) với chiều dài là 624km, rộng
gần 47km và sâu 1.637m.
h. Những cơn địa chấn
Những trận động đất có sức tàn phá khủng khiếp nhất trong số
những thảm họa tự nhiên xảy ra trên Trái Đất. Trung bình 1 năm,
Trái Đất “chuyển mình” khoảng 1 triệu lần và trong số lần động đất
như thế, hầu như con người không hề dự đoán được trước.

i. Nóng, nóng và nóng
Nhiều người cho rằng Thung lũng chết, California, Mỹ là nơi
nóng nhất trên Trái Đất nhưng đó vẫn chưa phải là nơi ghi
được kỷ lục này. Azizia thuộc Libya mới là nơi nóng nhất quả
đất với nhiệt độ lúc đỉnh điểm lên đến 57,8 độ C vào ngày 13/
9/1922 trong khi đó tại Thung lũng Chết, nhiệt độ cao nhất là
vào ngày 10/7/1913 đạt 56,6 độ C.
j. Gió và bụi
Các chuyên gia từ Trung tâm khảo sát địa chất Mỹ khẳng định
rằng mỗi năm có gần 1.000 tấn mảnh vụn trong vũ trụ theo mưa
rơi xuống Trái Đất.
3. Trước khi có hạt mưa đầu tiên:
Chúng ta hãy đoán xem Quả đất, lúc mới sinh ra như thế nào? Schmidt cho rằng do
một khối bụi lạnh bị bắn ra và quay lông lốc. Theo luật kết hợp của vật chất bên trong,
khối bụi ấy càng ngày càng rắn đặc và có lẽ có hình bầu dục như quả trứng, vì sức
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 21
quay chung quanh trục Bắc- Nam quá nhanh. Mặt đất lúc bấy giờ trơn tru, không có
chỗ lồi chỗ lõm như bây giờ và nhất là khô khan tuyệt đối.
Nếu hoàn cảnh như thế tiếp tục thì lịch sử của Quả đất có lẽ là dừng ở đó. Nhưng
không, sự kết hợp vật liệu tiếp tục ở bên trong và Quả đất cứ co rút mãi. Đến một
giai đoạn nào đó, vật liệu phóng xạ mỗi ngày một bành trướng, các phản dây chuyền,
loại ta tìm thấy nơi bom nguyên tử hay bom khinh khí, đốt nóng ruột đất đến cùng
cực. Sức nóng này khiến cho vật liệu đặc và lạnh trước đó phải lỏng ra, từ bên trong
lẫn bên ngoài. Sự chảy lỏng đó lan dần ra phía ngoài, khiến cho lớp bụi cứng rắn ở
ngoài cùng bây giờ biến thành một vỏ mỏng, che đậy một hoả lò bên trong.
Vỏ mỏng đó tất không thể nào gìn giữ được sức trào ra của đá lỏng bên trong. Chỗ nào
vỏ còn dày thì còn có sức cản, chỗ nào mỏng quá, sẽ sụp đổ, toạc nứt và đá lỏng trào
ra bên ngoài. Hiện tượng này, ngày nay ta còn thấy được, và gọi là núi lửa. Núi lửa
đem đá lỏng trải khắp mặt đất, và đá này đặc lại thành núi, thành đồi, thành gò; đó là

những chỗ lồi nguyên thuỷ của mặt đất. Khi đá lỏng bên trong trào ra, tất nhiên một
dung tích bên trong mất đi. Do đó, chỗ nào yếu của vỏ đất sẽ bị móp vào, như một quả
banh cao su bị xì hơi. Các nơi móp vào, tạo những chỗ trũng nguyên thuỷ của mặt đất.
Mặt Trăng ngày nay cũng có hình ảnh gần giống như vậy.
Còn không khí của ta thở được thành lập như thế nào? Từ đâu? Khi nào? Theo nhà bác
học Urey, cùng với đá lỏng trào ra từ họng núi lửa, ta có hơi nước và không khí. Hai
thứ này, do áp lực khủng khiếp bên trong ruột đất, bắn vọt lên tận trời xanh, để cô
đọng lại ở khoảng không gian lạnh ghê gớm chung quanh Địa cầu rồi thành mây và
không khí. Vậy khí trời do ruột đất làm ra, chứ không phải do khối bụi nguyên thuỷ
còn sót lại. Nhờ có lớp không khí đó, tiếng đọng bấy giờ mới lan truyền từ góc trời này
đến phương trời kia: tiếng gió gào qua vách núi, tiếng lách cách của đá nứt nẻ, tiếng
sấm động từ các chòm mây. Nhưng bao giờ mới có tiếng suối reo? Ta còn phải đợi
một ít lâu nữa.
II. CẤU TRÚC TRÁI ĐẤT:
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 22
Trái Đất có dạng gần giống như hình cầu dẹt, với đường kính khoảng 12.742 km. Độ
lệch lớn nhất là các điểm cao nhất (đỉnh núi Everest, cao 8.850 m) và điểm thấp nhất
(đáy vũng Mariana, ở độ sâu 10.911 m dưới
mực nước biển). Do đó độ dẹt của Trái Đất
là khoảng 1/584, hay 0,17 %. Khối lượng
của Trái Đất khoảng 6,000 yottagam (6 x
10
24
kg). Lớp ngoài, tức lớp vỏ Trái Đất, chỉ
chiếm có 0,6 % khối lượng hành tinh. Dưới
lớp vỏ dày từ % đến 35 km đó, có một sự
phân cách rõ rệt, gọi là mặt Moho, đánh dấu
chỗ chuyển tiếp từ lớp vỏ sang lớp mantin
sâu tới 2900 km, chiếm 82 % khối lượng

hành tinh.
Ở phần trên, lớp mantin một phần ở thể
nóng chảy và có độ quánh tương tự như
cháo đặc. Lớp mềm đó, gọi là quyển mềm
(asthenosphere), có một vai trò quan trọng vì nó làm thành một cái nền trơn cho vỏ
Trái Đất trượt trên nó, cho phép các lục địa có thể trôi giạt trên quả địa cầu.
Trên đại thể lớp mantin này có thể chia thành 3 phần: phần trên dày khoảng 370 km,
phần chuyển tiếp dày 600km, phần dưới dày 1900km.
Dưới lớp mantin là lớp nhân có bán kính 2100 km với nhân trong là quả cầu sắt rắn
bán kính 1370 km, tạo thành tâm Trái Đất. Phần nhân ngoài là một khối sắt lỏng, tạo
ra từ trường của hành tinh chúng ta.
A. CẤU TRÚC BÊN TRONG:
1. LỚP VỎ TRÁI ĐẤT:
Vỏ Trái Đất gồm một phức hệ đá nằm trên mặt Môkhôrôvich. Ðây là mặt phân chia vỏ
Trái Đất với quyển manti mang tên nhà khoa học Nam Tư, người đề xuất vào năm
1909 (gọi tắc là mặt Môkhô).
Cấu trúc Trái Đất. 1: Lõi rắn trong
cùng; 2: Lõi lỏng; 3: Lớp phủ
nhớt; 4: Lớp vỏ; 5: Lớp đất đá trên
cùng; 6: Khí quyển Trái Đất
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 23
Vỏ Trái Đất chiếm khoảng 1% thể tích và 0,5% khối lượng của Trái Đất. Vỏ có bề
dày và cấu tạo không giống nhau:
Ở vùng đồng bằng bề dày: 35 -
40km
Ở vùng núi già tới: 50 - 60km, còn
ở vùng núi trẻ có thể tới 80km.
Còn dưới lòng đại dương, chỗ nâng
cao là nơi bề dày của vỏ vào

khoảng 5 - 10km. Nhưng trung bình
khoảng 33 km.
Theo thuyết kiến tạo mảng, Lớp vỏ
gồm nhiều mảng ghép lại, gọi là các
mảng nền, có khoảng 7 mảng lớn và
hơn 1 chục mảng nhỏ. Chúng trôi
trượt, va đập vào nhau ở bên trên
lớp phủ (lớp mantin). 7 mảng lớn:
mảng Bắc Mĩ, Nam Mĩ, Thái Bình Dương, Ấn - Úc, Nam Cực, Âu – Á, một số mảng
nhỏ như Ả Rập, Philippin, Caribe, Nasca, Đông Dương… Sự trôi trượt và chuyển dịch
liên tục của các mảng trên lớp Mantin làm cho bề mặt Trái Đát biến đổi không ngừng.
Cách đây 250 triệu năm trên Trái Đất chỉ là một đại lục duy nhất là lục địa Pangiêa và
một đại dương khổng lồ là biển Têtít, thì cách đây 120 triệu năm đã tách ra thành 2 lục
địa Giôngvân và Lêraxia, còn bây giờ đã tách thành 6 lục địa ( Á, Âu, Bắc Mĩ, Nam
Mĩ, Phi, châu Đại Dương, Châu Nam Cực) và 4 đại dương ( Thái Bình Dương, Đại
Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Băng Dương).
Vỏ Trái Đất cấu tạo chủ yếu bằng những vật chất cứng rắn, độ dày dao động từ 5 km
(ở đại dương) đến 70 km (ở lục địa). Căn cứ vào sự khác nhau về thành phần cấu tạo,
độ dày… vỏ Trái Đất lại chia thành hai kiểu chính: vỏ lục địa và vỏ đại dương.
a. VỎ LỤC ĐỊA:
Đề tài: Trái Đất GVHD: Th.s Trần Quốc Hà
Trang 24
Phân bố ở độ sâu từ 0- 65 km, dày trung
bình 45 km, ở trạng thái rắn, có tỷ trọng
trung bình là 2,7 g/ cm
3
. Thành phần cấu tạo
vỏ lục địa là các silicat giàu magiê và và
nhân. Vỏ lục địa có cấu tạo gồm 3 lớp: lớp
trầm tích có bề dày thay đổi từ 0- 20 km,

dưới lớp trầm tích là lớp granit (sial) có bề
dày thay đổi từ 10- 40 km, dưới lớp granit là lớp bazan (sima) có bề dày từ 15- 25 km.
b. VỎ ĐẠI DƯƠNG:
Phân bố ở độ sâu từ 0- 10 km, có bề dày trung bình là 7 km, ở trạng thái rắn, có tỉ
trọng trung bình là 3, 0 g/ cm
3
. Thành phần hóa học của vỏ đại dương là các silicat
giàu magiê và sắt. Vỏ đại dương có cấu tạo gồm hai lớp: lớp trầm tích có bề dày rất
mỏng ( khoảng 1 km), lớp bazan có bề dày khoảng 6- 7 km.
c. VẬT LIỆU CẤU TẠO VỎ TRÁI ĐẤT
Khoáng vật và đá là những vật liệu cấu tạo nên vỏ Trái Đất
 Khoáng vật:
Khoáng vật là những đơn chất hoặc hợp chất hoá học trong thiên nhiên, xuất hiện do
kết quả hoạt động của những quá trình lí – hoá khác nhau xảy ra trong vỏ Trái Đất
hoặc trên bề mặt Trái Đất.
Trong thiên nhiên, đa số khoáng vật ở trạng thái rắn và có đặc tính lí – hoá riêng biệt
(thành phần cấu tạo, màu sắc, độ cứng, tỉ trọng…). Các khoáng vật là các đơn chất như
vàng, kim cương… hoặc các hợp chất như canxit, thạch anh, mica…
 Đá:
Đá là tập hợp có quy luật của một hay nhiều loại khoáng vật, chiếm phần chủ yếu
trong cấu tạo của vỏ Trái Đất.
Về nguồn gốc hình thành, các loại đá thuộc ba nhóm:
- Đá macma được hình thành do kết quả nguội lạnh của khối vật chất nóng chảy, là
hỗn hợp của nhiều chất trong lòng Trái Đất. Đá macma là loại đá rất cứng, gồm nhiều

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×