Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(Tiểu luận) quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về giai cấp công nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.25 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI:

Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ:
Mã SV:
GVHD:

.
HÀ NỘI, NĂM 2020

h


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................... 1
NỘI DUNG....................................................................................................................... 3
1. Khái niệm giai cấp công nhân...............................................................................3
1.1.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp cơng nhân........................3

1.1.1.

Vai trị của quần chúng nhân dân..............................................................5

2. Cơ sở thực tế.........................................................................................................10


3. Thực trạng nội dung nghiên cứu.........................................................................12
3.1.

Thành công....................................................................................................12

3.2.

Hạn chế..........................................................................................................13

3.3.

Nguyên nhân..................................................................................................13

4. Đề xuất giải pháp.................................................................................................13
5. Bài học và sự vận dụng vào đời sống sinh viên..................................................14
5.1.

Bài học............................................................................................................ 14

5.2.

Sự vận dụng vào đời sống sinh viên..............................................................15

KẾT LUẬN..................................................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................18

h


ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ trong quá khứ, những người lao động sản xuất hay những người công nhân đã
biết phát triển, sáng tạo ra các công cụ sản xuất, giá trị thặng dư và chính trị xã hội để
phục vụ đời sống. Trong xã hội hiện đại đi liền với việc phát triển đất nước thì giai cấp
cơng nhân càng nắm giữ vai trò quan trọng, là bộ phận đi đầu trong xây dựng xã hội mới,
nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chủ nghĩa xã hội
khoa học, một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nghiên cứu một
cách toàn diện về các quy luật chính trị xã hội của quá trình hình thành và phát triển của
các hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học tập
trung nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản, điều kiện, con đường, hình thức, phương pháp
đấu tranh của giai cấp công nhân để chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã
hội.
Ngày nay, cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức phức tạp, nhất là sau cuộc khủng hoảng
của mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ XX, nhiều
người đã bộc lộ sự hoài nghi về sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Các thế lực thù địch,
chống cộng, cùng với các phần tử cơ hội, xét lại và chủ nghĩa thực chứng mới dưới mọi
hình thức đã và đang mưu toan xuyên tạc, phủ nhận nhiều quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, trong đó có quan điểm về giai cấp cơng nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
Qua đó có thể khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đặc biệt trong thời buổi cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào,
thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới cịn đang có nhiều biến động, tiêu cực,... thì vấn đề làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra càng trở nên bức thiết hơn bao giờ
hết.

1

h



Đảng và nhà nước ta rất chú trọng vấn đề trên, vì vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân không chỉ được thể hiện trong các văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc mà cịn
là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch
sử và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Lợi ích giai cấp cơng
nhân thống nhất với lợi ích của tồn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nướcmạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội
dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa...".

2

h


NỘI DUNG
1.

Khái niệm giai cấp công nhân.

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân.
Trước tiên cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ:
“Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vơ sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của
bản thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử” để phân biệt rõ sự khác
nhau giữa giai cấp công nhân và giai cấp vơ sản. Khi trình bày “Lịch sử phát triển giai
cấp vơ sản” thì Mác và Ăngghen đã loại dần những người vơ sản nói chung ra, để cuối
cùng chỉ nói đến “những người vơ sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp

do công nghiệp sản sinh ra”. Vì vậy, chúng ta chỉ chú ý trước tới những công nhân công
nghiệp... Như vậy, không phải Mác nói vơ sản chung chung, bất kỳ, mà chỉ là “vô sản
trong công nghiệp”, do nền đại công nghiệp sản sinh ra. Theo cách đặt vấn đề như trên thì
giai cấp cơng nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc cách mạng cơng nghiệp cơ khí là công nhân đại công nghiệp. Các ông rất thận trọng khi nói vơ sản cơng nghiệp, phân
biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh, các loại tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là
những lực lượng khác nhau về chất lượng. Các ơng đã viết: "cịn tầng lớp vô sản lưu
manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội
cũ, có thể được cách mạng vơ sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của
họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho phe phản động hơn”. Để tìm hiểu bản chất giai cấp
cơng nhân là gì, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xét trên 2 tiêu chí:
Quần chúng nhân dân theo nghĩa rộng là dân cư của một quốc gia, đó là tồn bộ
những người thực hiện hoạt động sinh sống của mình trong phạm vi một quốc gia. Trong
chế độ công xã nguyên thuỷ, sự khác nhau giữa thuật ngữ "dân cư" và "quần chúng nhân
dân" khơng có ý nghĩa đáng kể. Tuy nhiên trong xã hội có đối kháng giai cấp thì sự khác

3

h


nhau này là hết sức quan trọng, bởi vì ở đó diễn ra một sự chia rẽ ngày càng sâu sắc giữa
các nhóm dân cư thống trị bóc lột với đông đảo người lao động.
Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định tiêu chuẩn quan trọng nhất để thừa nhận những
nhóm dân cư nhất định là một bộ phận của quần chúng nhân dân là sự quan tâm và khả
năng tham gia giải quyết nhiệm vụ của tiến bộ, góp phần phát triển xã hội. V.I.Lênin đã
viết: "Khi dùng danh từ "nhân dân", Mác khơng thơng qua danh từ ấy để xố mờ mất sự
khác biệt về giai cấp; Mác đã gộp vào danh từ ấy những thành phần nhất định có khả
năng làm cách mạng đến cùng".
Với cách tiếp cận như vậy, triết học Mác-Lênin khẳng định quần chúng nhân dân là
bộ phận có chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những

giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng
phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Qua khái niệm trên, chúng ta thấy rằng trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử
khác nhau, với những nhiệm vụ khác nhau thì quần chúng nhân dân bao gồm những
thành phần, tầng lớp và giai cấp khác nhau. Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm quần chúng
nhân dân cần phải căn cứ vào những nội dung sau: Thứ nhất, quần chúng nhân dân bao
gồm những người sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần; Thứ hai, quần
chúng nhân dân là những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức bóc lột, đối
kháng với nhân dân; Thứ ba, quần chúng nhân dân bao gồm những giai cấp, tầng lớp xã
hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử cho nên quan niệm về vai trò quần
chúng nhân dân trong các thời kỳ khác nhau cũng có sự khác nhau. Trước khi chủ nghĩa
Mác ra đời, triết học duy tâm và triết học duy vật đều không hiểu đúng đắn vai trị quần
chúng nhân dân. Tư tưởng tơn giáo quan niệm mọi thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý
chí của đấng tối cao, là do "mệnh trời", ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết học
duy tâm đề cao vai trò của các vĩ nhân, cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc
vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc, quần chúng nhân dân chỉ là "lực lượng tiêu
cực" là "phương tiện" mà các vĩ nhân cần đến để đạt được mục đích của mình. Những
nhà duy vật trước Mác cũng chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm về xã hội khi cho rằng

4

h


nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân sớm nhận
thức được chân lý vĩnh cửu.
1.1.1.

Vai trò của quần chúng nhân dân


Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của quần
chúng nhân dân: Họ phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân hoặc cho
rằng lịch sử phát triển của XH loài người là do lực lượng siêu nhiên quyết định: tôn giáo
cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử là do ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên
và trao quyền cho các cá nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học đề cao, tuyệt
đối hố vai trị của các cá nhân lãnh tụ, cịn quần chúng nhân dân chỉ là cơng cụ, là
phương tiện để sai khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm
duy tâm về XH khi cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển của XH là tư tưởng, đạo
đức của các vĩ nhân, và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu, dẫn dắt
quần chúng. Có nhà tư tưởng lại đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, phủ nhận vai
trị của các vĩ nhân, hoặc khơng lý giải một cách khoa học vai trò của quầnchúng nhân
dân. Đối lập với quan điểm trên, triết học Mác-Lênin khẳng định, quần chúng nhân dân là
chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò quyết định đối với tiến trình lịch sử.
Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông
qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó
khơng làm biến đổi XH mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của
quần chúng nhân dân, đểbiến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Vai trị sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội
dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội . Học thuyết về
hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã chứng minh rằng, phương thức sản xuất là nhân
tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nguyên lý cơ bản đó của chủ nghĩa duy
vật lịch sử vạch rõ rằng, khơng có sản xuất vật chất thì bất cứ xã hội nào cũng khơng tồn
tại được. Lịch sử của xã hội, do vậy trước hết cũng là lịch sử phát triển của sản xuất vật
chất. C.Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp... tạo ra
một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp
quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người ta”. Thực
5


h


tiễn lịch sử của xã hội loài người cho thấy, mọi quan hệ phức tạp của đời sống xã hội dù
thể hiện trong bất kỳ lĩnh vực nào: chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn
giáo hay khoa học... tất cả đều hình thành và biến đổi trên cơ sở sự vận động của nền sản
xuất vật chất. Cộng đồng xã hội nào cũng được tạo nên từ những con người cụ thể, do đó
sự tồn tại và phát triển của con người là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Song, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn, uống, mặc, ở,... mà để có những thứ đó,
họ phải sản xuất và tái sản xuất. Nghĩa là, loài người bắt đầu làm nên lịch sử của mình
bắt đầu từ việc chế tạo ra công cụ lao động, sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Trong quá trình sản xuất vật chất đó, con
người tất yếu phải liên kết lại với nhau theo những cách thức nhất định, đó chính là quan
hệ sản xuất. Trong Lao động làm thuê và tư bản, C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta
không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với
nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và
quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những
mối liên hệ và quan hệ xã hội đó”. Trên quan hệ sản xuất này mà hình thành và phát triển
hàng loạt những mối quan hệ xã hội khác mang tính tất yếu đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội, như chính trị, đạo đức, văn hóa, khoa học, tơn giáo,... Như vậy, sản xuất
vật chất là điều kiện căn bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi nghiên
cứu về xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin cho rằng, “điểm
khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may mắn
lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất”. Thật vậy, lồi vật khơng sản xuất mà
chỉ thích ứng với những biến đổi khách quan, tự phát của mơi trường tự nhiên; trong khi
đó, loài người chủ động tiến hành sản xuất vật chất, cải biến môi trường tự nhiên cho
phù hợp với nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình. Trong quá trình sản xuất ra của cải

vật chất, con người ngày càng hiểu biết về giới tự nhiên, tích lũy kinh nghiệm, thói quen
trong sản xuất, cải tiến và chế tạo công cụ ngày càng tinh xảo, đồng thời tri thức của con
người không ngừng được nâng cao và lực lượng sản xuất cũng ngày càng phát triển. Lực
lượng sản xuất cơ bản của xã hội là quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động
chân tay và lao động trí óc. V.I.Lênin chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
6

h


nhân loại là cơng nhân, là người lao động”. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất
đã dẫn đến sự thay thế các quan hệ sản xuất lỗi thời bằng những quan hệ sản xuất mới,
dẫn đến sự thay đổi toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội. Như vậy, lịch sử của xã
hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của sự thay đổi các phương thức
sản xuất khác nhau qua các thời đại, lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất,
của quần chúng nhân dân. Xtalin cho rằng, “lịch sử của sự phát triển xã hội đồng thời là
lịch sử của bản thân những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng lao
động: họ là lực lượng cơ bản của quá trình sản xuất và tiến hành sản xuất những của cải
vật chất cần thiết cho sự sinh tồn của xã hội”. Vai trò của quần chúng nhân dân trong sản
xuất càng được nâng cao theo trình độ phát triển của xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa
học – cơng nghệ có vai trị đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song, nó
chỉ có thể được phát huy thơng qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động,
nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội của thời đại kinh
tế tri thức. Do vậy, có thể nói rằng, chính quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra của
cải vật chất của xã hội, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Dù xem xét trong tồn bộ
lịch sử của sự hình thành và phát triển xã hội lồi người nói chung, hay xem xét trong
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của các xã hội hiện thực nói riêng, thì sự sản xuất vật chất
của quần chúng nhân dân vẫn ln đóng vai trị là cơ sở, nền tảng của sự tồntại và phát
triển của xã hội. Bởi vậy, việc giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội chỉ có căn cứ
khi xuất phát từ chính nền sản xuất vật chất xã hội do quần chúng nhân dân tạo nên.

Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay, lịch sử xã hội là lịch sử đấu tranh giai
cấp. Đây là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức giai cấp, không do một lý
thuyết xã hội nào tạo ra. Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin,
đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc bạo loạn, khủng bố, lật đổ, chỉ có ý nghĩa
phá hoại, tiêu cực mà là những cuộc đấu tranh rộng khắp của quần chúng nhân dân lao
động chống lại giai cấp thống trị bảo thủ. Nguyên nhân khách quan của cuộc đấu tranh
giai cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng là do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng
sản xuất phát triển mang tính chất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã trở nên lạc hậu so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa một bên là
7

h


giai cấp cách mạng, tiến bộ đại diện cho lực lượng sản xuất mới đang đòi hỏi một quan
hệ sản xuất mới thích hợp, với một bên là giai cấp bóc lột bảo thủ, đại biểu cho những lợi
ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Chính các cuộc đấu tranh của quần chúng
nhân dân bị áp bức, bị bóc lột chống lại giai cấp thống trị, giai cấp bóc lột, phát triển từ
thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn đã làm cho xã hội phát triển. Thơng qua đấu
tranh giai cấp, trình độ giác ngộ giai cấp và trình độ tổ chức lực lượng đấu tranh của quần
chúng ngày càng cao. Đến một giai đoạn nhất định, sự phát triển của cuộc đấu tranh giai
cấp của quần chúng nhân dân dẫn đến cách mạng xã hội. Theo V.I.Lênin, mọi cuộc cách
mạng xã hội đều biểu hiện dưới hình thức đấu tranh giai cấp và thông qua đấu tranh giai
cấp mà đưa xã hội tiến lên từ thấp đến cao. Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, quần
chúng nhân dân lao động luôn giữ vai trò quyết định. Khi nghiên cứu lý luận và thực tiễn
cách mạng, C.Mác cho rằng, “chính con người làm ra lịch sử của mình”; rằng, lịch sử là
lịch sử của con người theo đuổi những mục đích của mình. Tuy nhiên, lịch sử đó khơng
phải được tạo nên bởi những cá nhân riêng lẻ, mà phải do số đơng thực hiện, đó là quần

chúng nhân dân. Lịch sử đã chứng minh rằng, khơng có cuộc chuyển biến cách mạng nào
mà không phải là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản
của cách mạng, đóng vai trị quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. V.I.Lênin
khẳng định: “Cuộc cách mạng chỉ thực sự là một cuộc cách mạng khi nào hàng chục
triệu người đồng lịng hăng hái nổi dậy”, “Tồn bộ lịch sử các cuộc chiến tranh giải
phóng đều chỉ cho chúng ta thấy rằng khi các cuộc chiến tranh đó được đông đảo quần
chúng tham gia một cách chủ động thì cơng cuộc giải phóng được thực hiện một cách
nhanh chóng”.Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, để cách mạng thành công
không chỉ cần lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, mà còn cần đến tính
tích cực, sáng tạo của họ trong từng thời kỳ lịch sử. Thời kỳ cách mạng là thời kỳ mà tính
chủ động, sáng tạo của đơng đảo quần chúng được phát huy cao độ. Đó cũng là thời kỳ
bộc lộ rõ nét nhất, sâu sắc nhất sức mạnh vô địch của quần chúng đứng lên lật đổ xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin viết: “Cách mạng là ngày hội của những người bị áp
bức và bị bóc lột. Khơng lúc nào quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người sáng tạo trật
tự xã hội mới tích cực như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế... thì
nhân dân có thể làm được những kỳ công”. Nhờ sức mạnh của quần chúng nhân mà
“thời kỳ cách mạng có một tính sáng tạo lịch sử rộng lớn hơn, phong phú hơn, tự giác
8

h


hơn, có kế hoạch hơn, có hệ thống hơn, dũng cảm hơn và rõ ràng hơn so với những thời
kỳ tiến bộ của tiểu thị dân, của Đảng dân chủ - lập hiến, của chủ nghĩa cải lương”. Đáng
chú ý là, cuộc cách mạng xã hội càng triệt để bao nhiêu thì tính tích cực và sáng tạo của
quần chúng càng sâu sắc bấy nhiêu. Ngược lại, các cuộc cách mạng khơng triệt để thì tất
nhiên, khơng phát huy được mạnh mẽ tính tích cực và sáng tạo của quần chúng. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, tính tích cực sâu sắc của quần chúng nhân dân thể hiện rõ nhất
trong cách mạng vơ sản, vì đó là cuộc cách mạng mang lại lợi ích cơ bản cho nhân dân
lao động. Cuộc cách mạng đó tiêu diệt chế độ tư hữu, xóa bỏ chế độ người bóc lột người

và đưa đến xã hội mới tiến bộ, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.Kế thừa và
phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chú ý đến nhiều cuộc cách
mạng xã hội, đặc biệt là cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo. V.I.Lênin so
sánh: “Sức sáng tạo về mặt tổ chức của nhân dân, đặc biệt là của giai cấp vô sản, rồi
đến của giai cấp nơng dân, trong những thời kỳ gió xốy cách mạng thể hiện mạnh hơn,
phong phú hơn, có kết quả hơn trong thời kỳ gọi là tiến bộ lịch sử yên tĩnh (chậm như xe
bò) hàng triệu lần”. Như vậy, vai trò của quần chúng nhân dân rất to lớn trong các cuộc
cách mạng, nhất là giai cấp công nhân. Với ý nghĩa đó, cách mạng vơ sản là cuộc cách
mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất và triệt để nhất trong lịch sử lồi người. Nó có nhiệm vụ
xóa bỏ tận gốc rễ chế độ người bóc lột người để đi đến xây dựng một xã hội khơng cịn
giai cấp, trong đó mọi người đều bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện cá nhân con người; có sứ mệnh giải phóng giai cấp công nhân, quần
chúng nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức. Xã hội mới là một xã hội “trong đó
sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người”. Một cuộc cách mạng xã hội vĩ đại, sâu sắc, triệt để như vậy không thể là sự
nghiệp của một cá nhân, của một đảng, mà phải là sự nghiệp của đông đảo quần chúng
nhân dân. V.I.Lênin đã khẳng định, việc xây dựng xã hội mới không phải là sự nghiệp
riêng của Đảng Cộng sản, mà là sự nghiệp của tất cả quần chúng lao động, không có một
chuyển biến chế độ, cách mạng xã hội nào mà không là hoạt động của đông đảo quần
chúng nhân dân. Chẳng hạn như vào thời kỳ cổ đại nếu khơng có các cuộc đấu tranh ngày
càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nơ lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nơ thì
chế độ nơ lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến chính các
phong trào đấu tranh của nơng dân, thợ thủ cơng, thương nhân, trí thức… do giai cấp tư
9

h


sản lãnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII
làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại tư sản.

Có thể nói, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng xã hội đều bắt đầu
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất nghĩa là
bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao
động là chủ thể của các q trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trị là động lực cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh
thần. Quần chúng nhân dân chẳng những đóng vai trị quyết định trong sản xuất vật chất,
trong cách mạng xã hội mà cịn đóng vai trị to lớn trong sự nghiệp phát triển văn học,
nghệ thuật, khoa học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự,
kinh tế, chính trị, đạo đức… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy
sự phát triển nền văn hoá tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Nhân loại vô cùng
biết ơn những nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học như: Aristôt, Pascal, Anhxtanh, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh…Họ đã có những tác phẩm, phát minh vô cùng vĩ đại
làm phong phú kho tàng văn hoá nhân loại. Tuy nhiên, những sáng tạo văn hố tinh thần
đó đều có quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân. Sở dĩ như vậy vì, hoạt động của
quần chúng nhân dân trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh
thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, quần chúng nhân dân còn là người bảo vệ và phát
huy các giá trị văn hóa. Các giá trị văn hố tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đơng
đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Truyện Kiều của Nguyễn Du sống mãi với nhân dân ta và nhân dân thế giới chính là vì
tác phẩm phản ánh sinh động cuộc sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, đồng thời
thừa kế những tinh hoa văn học dân gian, nhất là ca dao, dân ca.
Nói về vai trị của quần chúng trong sáng tạo nghệ thuật, Hồ Chí Minh nhận định:
"Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng,
quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng
còn là người sáng tác nữa... Những sáng tác ấy là những hịn ngọc q". Quần chúng là
mảnh đất màu mỡ ni dưỡng các sáng tác, là người sáng tạo, kiểm nghiệm và có quyền
hưởng thụ các giá trị văn hố.
10


h


2.

Cơ sở thực tế
Xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần chúng nhân

dân ln đóng vai trị quyết định trong lịch sử.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, trải
qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước quần chúng nhân dân luôn là lực lượng đông
đảo làm nền tảng cho đất nước, là gốc rễ của mỗi dân tộc, là động lực chính để thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Như Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân, thuận lịng dân thì sống, nghịch lịng dân thì chết". Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã chỉ rõ vai trò của quần chúng nhân dân: "Trong bầu trời, khơng có gì q
bằng nhân dân, khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân".
Nhận thức được vai trò to lớn và sức mạnh của quần chúng nhân dân Đảng Cộng
sản Việt Nam trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng ln nêu cao tư tưởng "Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng". Bài học kinh nghiệm đầu tiên được nêu ra tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đó là: Đảng phải quán triệt tư
tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động. Thực tiễn đã chứng minh, nếu ở đâu cấp uỷ, chính quyền khơng quan tâm sâu sắc
đến nhân dân, có những cán bộ quan liêu, hách dịch, coi thường nhân dân, vi phạm quyền
lợi của nhân dân thì sẽ gây hại cho cách mạng. Ví dụ như vụ gây rối tại Thái Bình tháng
5/1997, kẻ xấu đã lợi dụng việc khiếu kiện của nhân dân để trả thù cá nhân, hoạt động vi
phạm pháp luật. Kết quả thanh tra cho thấy, nguyên nhân chính của vụ việc trên là do có
những cán bộ tham nhũng, có những biểu hiện mất dân chủ khiến nhân dân bất bình, mất
lịng tin vào chính quyền.
Là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quần chúng nhân dân cũng giữ vai trò quyết định

trong sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc. Vì vậy, trong cơng tác cơng an việc quán triệt và
vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân có ý
nghĩa hết sức to lớn. Để được như vậy, thiết nghĩ lực lượng công an phải làm tốt những
vấn đề sau đây:
Nhận thức đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, ln kính trọng, u mến
nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân. Mỗi cán bộ, chiến sỹ phải xây dựng cho mình quan
điểm tác phong quần chúng, luôn ghi nhớ rằng "Công an của ta là cơng an nhân dân, từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào nhân dân mà làm việc". Bên cạnh đó
11

h


cán bộ, chiến sỹ công an phải không ngừng phấn đấu học tập và rèn luyện theo 6 điều
Bác Hồ dạy về tư cách người công an cách mệnh, 5 lời thề danh dự của công an nhân
dân, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình, chống lại các hiện tượng tiêu cực, quan
liêu, sách nhiễu nhân dân, có thái độ trân trọng, lắng nghe, tiếp thu những ý kiến của
nhân dân và kịp thời khắc phục, sửa chữa những sai lầm thiếu sót.
Bên cạnh việc xác định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
bảo vệ an ninh tổ quốc, để phát huy được sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân lực
lượng công an phải làm tốt công tác vận động quần chúng, phải biết đoàn kết, tập hợp
quần chúng thành một khối thống nhất. Chỉ như vậy, lực lượng công an mới có được lực
lượng đơng đảo tạo nên sức mạnh vơ địch như Bác Hồ đã nói: "Năm vạn người chỉ có
năm vạn cặp mắt và năm vạn đơi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đơi bàn tay,
hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được…".
3.

Thực trạng nội dung nghiên cứu

3.1. Thành công

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân từ miền xuôi tới miền
ngược đã đóng góp cơng sức, tích cực tham gia cùng lực lượng Công an nhân dân đấu
tranh chống gián điệp, biệt kích, tiễu phỉ, trừ gian, bảo vệ các cuộc hành quân, trú quân
của bộ đội, dân công, bảo vệ các tuyến đường giao thơng quan trọng, góp phần to lớn vào
chiến dịch Điện Biên Phủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tham mưu, nòng cốt của lực
lượng Công an các cấp, nhân dân được tập hợp, tổ chức thành những đội quân tích cực
tham gia phong trào “Phòng gian bảo mật”, nêu cao tinh thần cảnh giác để bảo vệ cuộc
kháng chiến, chống lại mọi âm mưu của kẻ thù, vạch mặt những tên đầu sỏ gian ác, các
đối tượng gián điệp làm tay sai cho địch; đặc biệt là nhân dân đã đoàn kết thực hiện khẩu
hiệu “Ba không” (không nghe, không biết, không thấy) nhằm giữ bí mật mọi thơng tin
của cuộc kháng chiến, thực hiện tuần tra canh gác, bảo vệ các lực lượng tham gia kháng
chiến, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, cùng tồn Đảng, toàn
quân làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, vai trò và sức mạnh của nhân dân
tiếp tục được phát huy cao độ. Bằng việc tham gia tích cực, có hiệu quả các phong trào
“Ba phòng”, “Bảo mật phòng gian”, “Bảo vệ trị an”... nhân dân đã trở thành bức tường
12

h


thành vững chắc, là chỗ dựa tin cậy của lực lượng Công an nhân dân trong đấu tranh
chống gián điệp biệt kích, chống phản động và các đối tượng gây rối an ninh, trật tự, phá
hoại công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Được sự giúp đỡ to lớn của các tầng lớp
nhân dân, lực lượng Công an ở cả hai miền Nam, Bắc đã đấu tranh thắng lợi, làm thất bại
nhiều âm mưu, ý đồ phá hoại đất nước của các thế lực phản động, bảo vệ an toàn các cơ
quan đầu não của Trung ương Đảng và Bộ Cơng an... góp phần giữ vững an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, cùng toàn Đảng, toàn quân đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau ngày đất nước thống nhất, nhân dân tiếp tục sát cánh giúp đỡ lực lượng Công

an đấu tranh đập tan âm mưu bạo loạn, lật đổ chính quyền cách mạng của các thế lực thù
địch, các tổ chức đảng phái phản động ở trong nước và phản động lưu vong ở nước
ngoài; tham gia các phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống các loại tội phạm và
tệ nạn xã hội, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng, kiến thiết
đất nước sau chiến tranh.

3.2. Hạn chế
Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân
cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ
điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.

3.3. Ngun nhân
Quần chúng nhân dân vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử. Phải thừa nhận
rằng, mọi quá trình vận động, phát triển của lịch sử đều diễn ra thông qua hoạt động của
đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức. Trong
đó, quần chúng nhân dân có vai trị quyết định, bởi vì họ là đại bộ phận đơng đảo dân
chúng có sự thống nhất với nhau về lợi ích căn bản, tự liên kết lại một cách tự nhiên
khách quan thành một tập thể to lớn có tính toàn xã hội để giải quyết những vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.

4.

Đề xuất giải pháp
Ngày nay nước ta đang trong quá trình đổi mới thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước, nhân tố con người là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất. Chính vì
13

h



thế địi hỏi Đảng và Nhà nước phải có một cơ chế chính sách đào tạo cán bộ, đặc biệt hơn
là cấp cơ sở xã, phường, thị trấn. Đi đôi với vấn đề đào tạo là chế độ đãi ngộ nhằm đảm
bảo cho các yêu cầu hoạt động trước mắt cũng như lâu dài, cần xem xét quan tâm hơn
nữa về mọi mặt trong việc xây dựng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân
đặc biệt là vùng nông thôn, vùng căn cứ kháng chiến. Cụ thể là: quan tâm xây dựng quy
hoạch tổng thể và phát triển kinh tế xã hội cho từng địa phương, cơ sở. Có một cơ chế
chính sách đầu tư thích đáng cho sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn như:
điện, trường học, trạm y tế,... Trong đó vấn đề quan trọng là phát triển mạng lưới trường
phổ thông trung học và dạy nghề nằm nâng cao trình độ văn hóa, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho con em nhân dân được học tập dễ dàng. Mặt khác tăng trình độ dân trí, tạo nguồn
lực trước mắt cũng như sau này để đáp ứng theo yêu cầu chủ trương của Đảng và Nhà
nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa về nơng nghiệp ở nơng thơn.

5.

Bài học và sự vận dụng vào đời sống sinh viên

5.1. Bài học
Phát huy truyền thống coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, trong lịch sử dân
tộc, đồng thời lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và tự thực tiễn cách mạng
Việt Nam, Đảng ta đã rút ra bài học “lấy lấy dân làm gốc”. Từ thực tế khó khăn của thời
kỳ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, nhân dân
Quảng Bình đã đưa một tổng kết quý giá :”Dễ mười lần khơng dân cũng chịu; Khó trăm
lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh hết sức tâm đắc với sự tổng kết đó, và đã khơng ít
lần sử dụng lại trong các bài viết, bài nói của mình. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên
giá trị.
Tuy vậy, những năm qua, đặc biệt là thời kỳ trước đổi mới (năm 1986) bệnh quan
liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng ở một số cán bộ Đảng viên là người lãnh
đạo đã làm xói mịn mối liên hệ mật thiết vốn có giữa Đảng và quần chúng. Hậu quả của

tình trạng đó khơng những làm tính tích cực XH của quần chúng nhân dân bị hạn chế
hoặc tước bỏ quyền làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng thiếu tin tưởng vào lực
lượng của bản thân mình, làm cho họ có thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, thiếu suy
nghĩ phán đoán, thiếu độc lập tự chủ, khơng phát huy được tính tích cực sáng tạo của
đơng đảo quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, mà còn làm suy yếu vai trò lãnh đạo
14

h


của Đảng Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đổi mới cũng là sự nghiệp của dân,
do dân, vì dân. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi, phải phát huy được tính chủ
động, sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân. Đổi mới là một sự
nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện cần
có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa vào dân, qua thực tiễn phong phú
của nhân dân tiến hành tổng kết, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi
lên, đó là chìa khóa của thành cơng.

5.2. Sự vận dụng vào đời sống sinh viên
Trong xã hội hiện đại ngày nay, tầng lớp tuổi trẻ ngày càng trở lên quan trọng với
cuộc sống, đặc biệt là thế hệ sinh viên. Họ xuất thân từ mọi tầng lớp khác nhau trong xã
hội, từ những mảnh đất khác nhau trên khắp mọi miền Tổ quốc và cùng học tập trong
môi trường đại học. Đây có thể coi là bộ phận ưu tú của lớp trẻ, của thanh niên nói chung
vì họ đã được sàng lọc qua các kỳ thi tuyển sinh quốc gia. Trong môi trường đại học, lực
lượng này được tập hợp có tổ chức, có quản lí chặt chẽ của nhà trường và các tổ chức
đoàn thể như hội sinh viên, đồn thanh niên, do đó dễ dàng thống nhất hành động theo
những mục tiêu chung. Hơn nữa sinh viên là lớp người có khả năng tiếp thu cái mới,
nhạy cảm với những biến động của tình hình kinh tế xã hội. Cuộc sống ở môi trường đại
học này nảy sinh ở những sinh viên nhu cầu tìm hiểu, mở rộng, tiếp thu kiến thức, nhu
cầu tự học, tự đào tạo,... ngày càng phát triển theo định hướng nghề nghiệp trong quá

trình học. Là sinh viên năm nhất của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – ngơi trường tự
hào có truyền thống lịch sử giảng dạy và học tập trong nhiều thập kỷ qua , tôi tự nhận
thức được rằng mình là cơng dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa thì phải có
trách nhiệm gánh vác và xây dựng Tổ quốc, đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé của
mình cho mảnh đất quê hương. Mỗi chúng ta là một công dân sinh sống trên mảnh đất
Việt Nam cần nâng cao ý thức về tầm quan trọng của quần chúng nhân dân có ý thức
phát triển, giữ gìn văn hóa, đồn kết, phát huy truyền thơng văn hóa yêu nước, phong tục
tập quán của cha ông ta. Đồng thời nhận thức được quan niệm của Mác-Lênin là một
quan niệm đúng đắn, sâu sắc, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm ra con đường đúng
đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa đất nước ta đi lên Chủ nghĩa Xã hội, tiến tới
nền hịa bình độc lập như ngày nay.
15

h


16

h


KẾT LUẬN
Từ học thuyết Mác-Lênin về con người và vai trò của quần chúng nhân dân trong
lịch sử đã chỉ ra cho chúng ta thấy sự hình thành và phát triển của xã hội lồi người và
vai trị của quần chúng nhân dân trong lịch sử xã hội, với mối quan hệ ràng buộc giữa cá
nhân và cộng đồng xã hội, làm sáng tỏ những nhân tố tác động cơ bản đến các cuộc cách
mạng khi xã hội có giai cấp.
Với quan điểm nêu trên đó là cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn rất cụ thể nhằm giúp
cho mỗi Đảng của giai cấp vô sản cũng như mọi giới lãnh đạo nhận thấy được vị trí vai
trị và tầm quan trọng của con người, của quần chúng nhân dân trong lịch sử.

Chính vì lẽ đó vận dụng quan điểm Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình
cách mạng thực tiễn đã rút ra bài học “lấy dân làm gốc” là hoàn toàn đúng dựa trên cơ sở
khoa học và khách quan. Vì thế có thể khẳng định rằng bài học “lấy dân làm gốc” là một
đường lối sách lược hàng đầu trong quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng ta. Có nghĩa
là nhằm quy tụ sức mạnh tổng hợp tạo thành một động lực và nền tảng vững chắc cho
quá trình xây dựng, đổi mới cũng như bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy ngày nay trong quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơng cuộc đổi mới
và q trình hội nhập kinh tế thế giới thì bài học “lấy dân làm gốc” của Đảng ta càng có ý
nghĩa quan trọng hơn, địi hỏi mọi sự hoạt động của Đảng phải xuất phát từ tâm tư ý chí,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân. Mọi cán bộ đảng viên phải
biết dựa vào dân và nắm lấy dân, hướng dẫn dìu dắt nhân dân, giáo dục họ nhận thức và
tự giác theo đường lối cách mạng của Đảng.
Song song bên cạnh đó phải tăng cường xây dựng củng cố hệ thống chính trị ở địa
phương, phải thật sự quan tâm và xem công tác vận động quần chúng là công tác trọng
tâm thường xuyên liên tục.Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện sai lệch tha hố sa
sút ý chí chiến đấu trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên cũng như các hiện tượng quan liêu
của quyền hống hách, xa rời thực tế, xa tời quần chúng nhân dân.
Thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, xây
dựng tốt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, quy tụ được khối Đại
17

h


đoàn kết dân tộc để đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ
nghĩa mà Đảng đã đề ra với mục tiêu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh.

18


h



×