lời mở đầu
Vấn đề vai trò quản lý kinh tế của nhà nớc là một chủ đề đã đợc đề cập
đến khá nhiều và cũng đã có rất nhiều ý kiến quan điểm khác nhau. Tuy
nhiên, không thể áp đặt một nguyên tắc chung nào cho các quốc gia với những
điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội khác biệt.
Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), Việt Nam đợc xếp là một trong
những quốc gia có nền kinh tế phát triển thấp kém nhất trên thế giới, đó là một
nền kinh tế què quặt, lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ và kinh tế nông nghiệp là chủ
yếu. Nhng ở thời kỳ này, với sự xuất hiện của các nhà t bản Pháp, các công ty
Pháp, cùng với sự giao lu hàng hoá giữa nớc Việt Nam thuộc địa với các nớc
khác trên thế giới thì nền kinh tế Việt Nam cũng đã đợc coi là một nền kinh tế
hàng hoá ở dạng sơ khai.
Cách mạng Tháng Tám (8/1945) thành công, Nhà nớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời, nhng không giống các quốc gia khác chúng ta không có
điều kiện để khôi phục và xây dựng kinh tế mà gần nh ngay lập tức lại phải
chịu đựng cảnh chiến tranh loạn lạc. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lợc (1946 - 1954) nền kinh tế không thể phát triển một
cách toàn diện, mà đó chỉ là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, lấy sản
xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp là chính với mục đích trớc tiên là phục
vụ kháng chiến. Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dơng đợc
ký kết, những tởng đợc sống trong hoà bình để phát triển kinh tế, nhng không
chúng ta lại phải trải qua một cuộc chiến tranh dài 20 năm (1955- 1975), đất
nớc bị chia cắt làm hai miền Bắc, Nam với hai chế độ chính trị, hai mô hình
kinh tế khác nhau. Miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa với mô hình kinh tế quản
lý tập trung bao cấp giống các nớc xã hội chủ nghĩa khác, miền Nam đi theo
mô hình kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa. Tuy vậy trong điều kiện bị chi phối
bởi qui luật của chiến tranh hai mô hình này cũng không mang đầy đủ đặc tr-
ng và ý nghĩa của nó. ở miền Bắc không thể tập trung toàn bộ sức lực cho phát
triển kinh tế mà lại phải chi viện lớn về ngời và của cho miền Nam, hơn nữa
miền Bắc cũng phải chịu sự tấn công bằng hải quân và không quân Mỹ, trong
điều kiện khó khăn đó quá trình thực hiện mục tiêu kinh tế không đợc hoàn
hảo. Còn ở miền Nam cũng cha thực sự là một nền kinh tế thị trờng phát triển
vì sức sản xuất trong nớc còn rất yếu, thực chất miền Nam chỉ là thị trờng tiêu
thụ hàng hoá của Mỹ và các nớc t bản khác.
Sau chiến thắng 1975 nớc nhà thống nhất. Cả nớc bắt tay vào xây dựng
một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất trên toàn quốc. Cũng chính trong
thời kỳ này mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bắt đầu bộc lộ khiếm
khuyết của nó không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các nớc xã hội chủ nghĩa
khác. Tuy rằng mô hình này có thể tập trung đợc sức ngời, sức của cho mục
đích phát triển trong một giai đoạn nhất định nhng vì nó không đề cao tới lợi
ích cá nhân cho nên sau một thời kỳ dài phát triển điều này đã làm triệt tiêu
động lực của mỗi cá nhân, tính ích kỷ của mỗi cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Hơn
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
1
nữa, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ những qui luật của kinh
tế nh qui luật cung cầu, qui luật giá trị, qui luật phân phối bị biến dạng đi, nền
kinh tế hàng hoá chỉ tồn tại trên danh nghĩa, lu thông hàng hoá bị đình trệ.
Chính vì những lý do này mà sau giai đoạn phát triển rực rỡ (những năm 60
của thế kỷ 20) thì tới những năm cuối của thập kỷ 70 ở những nớc xã hội chủ
nghĩa đã có những dấu hiệu chững lại và đồng thời những t tởng về cải cách
bắt đầu xuất hiện. Quốc gia tiên phong trong vấn đề cải cách là Trung Quốc.
Đảng và Nhà nớc ta đã sớm nhận biết đợc xu hớng phát triển này và những t t-
ởng về cải cách kinh tế đã đợc đề cấp tới từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
(3/1982) và đợc chính thức quyết định đa vào thực tiễn tại đại hội VI
(12/1986), trong các kỳ đại hội VII, VIII tiếp theo vấn đề cải cách tiếp tục đợc
bổ sung và hoàn thiện.
Chúng ta khẳng định rằng chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc là một tất yếu, nhng sự quản lý của Nhà nớc đối với nền kinh
tế ở mức độ nào, thông qua những công cụ gì là một vấn đề không dễ quyết
định. Trong lịch sử nhân loại có những thời kỳ Nhà nớc hầu nh không can
thiệp vào nền kinh tế - thời kỳ chủ nghĩa t bản tự do cạnh tranh, hoặc can thiệp
rất sâu vào nền kinh tế nh trong mô hình kinh tế tập trung ở các nớc xã hội
chủ nghĩa hay ở các nớc t bản chủ nghĩa sau khủng hoảng 1929 - 1933 theo lý
thuyết Keynes nhng những thành công do chúng mang lại chỉ mang tính lịch
sử, nó không là một mô hình vĩnh viễn và hoàn hảo cho sự phát triển bền
vững. Và tới nay các nhà kinh tế thống nhất với nhau rằng cần thiết có sự quản
lý của Nhà nớc đối với nền kinh tế trong một cơ chế thị trờng đầy năng động.
Nền kinh tế luôn vận động và phát triển trong mỗi thời kỳ nó lại có một
số đặc trng đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nớc ở mức độ phù hợp, chính vì vậy
khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế mới thì vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nớc là thiết yếu và việc nghiên cứu nó là vấn đề lâu dài đòi hỏi phải có quan
điểm đứng đắn, lập trờng vững vàng.
Trong giới hạn về kiến thức, đề án của em chỉ dừng lại ở việc tham khảo
ý kiến từ một số bài viết và công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề Tăng
cờng vai trò quản lý kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa nói chung và thực tế Việt Nam nói riêng. Bài viết
này đợc hoàn thành trớc hết nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo. Em
kính mong thầy cô cho em những ý kiến nhận xét để em hoàn chỉnh thêm việc
nghiên cứu và có đợc những suy luận đúng đắn và logic.
Em xin chân thành cảm ơn !
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
2
Ch ơng I : Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò kinh tế của Nhà
nớc trong nền Kinh tế thị trờng - Đặc trng của nền kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
I. Các quan điểm về vai trò kinh tế của Nhà n ớc trong lịch sử:
Trong lịch sử xã hội loài ngời đã có một thời kỳ không có Nhà nớc và
pháp luật. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển thấp kém
của lực lợng sản xuất, con ngời cùng chung sống, cùng lao động và cùng hởng
thành quả lao động chung. Mọi ngời đều bình đẳng trong lao động và hởng
thụ, xã hội không có kẻ giàu ngời nghèo, không phân chia thành giai cấp,
không có đấu tranh giai cấp. Cơ sở kinh tế đó đã làm xuất hiện hình thức tổ
chức xã hội là thị tộc. Nhiều thị tộc hợp lại thành bộ lạc.
Sự phát triển của lực lợng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm
thay đổi tổ chức xã hội thị tộc. Sau ba lần phân công lao động xã hội, chế độ t
hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu ngời nghèo, hình thành hai
giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp
và đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức
mới có khả năng dập tắt cuộc xung đột giai cấp ấy, tổ chức đó là Nhà nớc. Nh
vậy Nhà nớc xuất hiện một cách khách quan, không phải là một lực lợng từ
bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là "một lực lợng nảy sinh từ xã hội, một lực l-
ợng tựa hồ nh đang ở trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vòng bất tử"
1
Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nớc, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đi đến kết luận rằng "Nhà nớc là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nớc chỉ ra
đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai
cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trớc hết ở chỗ Nhà nớc là một bộ máy cỡng
chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để
duy trì sự thống trị giai cấp. Trong các xã hội bóc lột, Nhà nớc (Nhà nớc
chiếm hữu nô lệ, Nhà nớc phong kiến, Nhà nớc t sản) đều có bản chất chung
là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột - giai cấp thiểu
số trong xã hội. Ngợc lại, Nhà nớc xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính
vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị thống trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động - lực lợng chiếm đa số trong xã hội để trấn áp
những lực lợng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối cách
mạng. Mặt khác, trong điều kiện của xã hội có nhiều giai cấp, Nhà nớc không
chỉ là ngời bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà còn phải quan tâm đến lợi
ích chung của toàn xã hội. Bên cạnh tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản
chất của Nhà nớc thì tính xã hội cũng là một đặc trng của Nhà nớc.
Từ lý luận về Nhà nớc ta đã thấy Nhà nớc là công cụ của giai cấp thống
trị dùng để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.
1
Mác - Ăng ghen: Tuyển tập VI, NXB sự thật 1984
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
3
Khi đề cập tới chức năng của Nhà nớc các nhà nghiên cứu thống nhất rằng
Nhà nớc có hai chức năng chính là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
- Chức năng đối nội bao gồm hai bộ phận chính là chức năng kinh tế và
chức năng giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự chống
đối của các giai cấp khác và các âm mu phản động. Trong hai chức năng này
thì chức năng kinh tế đợc đa lên hàng đầu vì nó là cơ sở để Nhà nớc có thể tồn
tại và phát triển.
- Chức năng đối ngoại của Nhà nớc cũng bao gồm hai chức năng chính
là chức năng bảo vệ tổ quốc và chức năng củng cố mở rộng quan hệ hợp tác
hữu nghị với các nớc khác. Trong điều kiện ngày nay chức năng đối ngoại có
vị trí đặc biệt quan trọng.
Sự suy tàn của Nhà nớc phong kiến ở phơng Tây (thế kỷ XV) gắn liền
với sự hình thành Nhà nớc t sản, quá trình tích luỹ t bản đợc bắt đầu thực hiện
- nền kinh tế thị trờng cũng bắt đầu đợc hình thành. Trong thời kỳ này để cho
nền kinh tế phát triển nhanh giai cấp t sản cần phải có sự trợ giúp của "bà đỡ"
tức cần có sự can thiệp của Nhà nớc. Vai trò quản lý của Nhà nớc đợc xác lập
và nâng cao, thể hiện ngay trong t tởng kinh tế của phái trọng thơng. Cụ thể
Nhà nớc dùng chính sách tiền tệ nghiêm ngặt, tìm mọi cách để tích luỹ tiền tệ
(tiền vàng), không cho tiền tệ chảy ra nớc ngoài, có những qui định nghiêm
ngặt đối với các thơng gia. Trong chính sách ngoại thơng họ đẩy mạnh xuất
khẩu thành phẩm, không xuất khẩu sản phẩm dở dang, nguyên liệu thô, trợ giá
giúp đỡ cho xuất khẩu trong khi đó lại dùng hàng rào thuế quan, hạn ngạch
nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu. Cũng nhờ những chính sách này của Nhà n-
ớc mà trong giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ Nhà nớc t sản đã tích luỹ đợc một
lợng của cải rất lớn.
Xã hội phát triển lên cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất với
quan hệ sản xuất mới thì kiểu mua rẻ bán đắt, nền kinh tế quá chú trọng vào
thơng nghiệp không còn phù hợp nữa. Một quốc gia muốn phát triển thì phải
tăng cờng sức sản xuất trong nớc thông qua tăng năng suất lao động, nền kinh
tế cần một môi trờng tự do hơn để các nhà sản xuất có thể phát huy hết tiềm
lực của mình. Thời kỳ này đã dâng lên một làn sóng ủng hộ tự do cạnh tranh
mà tiêu biểu nhất là nhà kinh tế học cổ điển Anh - Adam Smith (1723 - 1790)
với học thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý Nhà nớc không can thiệp vào
hoạt động của nền kinh tế. Ông cho rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá
cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của nền kinh tế là do các qui luật
khách quan tự phát chi phối, sự vận động trên thị trờng là do quan hệ cung -
cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trờng quyết định, quan
hệ giữa ngời với ngời là quan hệ lợi ích kinh tế. Con ngời hoạt động chỉ nhằm
lợi nhuận siêu ngạch. Song do "bàn tay vô hình" chi phối buộc ngời ta phải
tuân theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Để cho nền kinh tế hoạt động đạt hiệu
quả Nhà nớc không nên can thiệp vào kinh tế thị trờng và hoạt động doanh
nghiệp. Nhà nớc chỉ nên can thiệp vào những vấn đề, những mặt cần tiềm lực
lớn mà sức một doanh nghiệp không thể với tới nh xây dựng đờng xá, cầu
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
4
cống, bến cảng (các công trình công cộng). Sự thực trong thời kỳ chủ nghĩa
t bản cạnh tranh, nền kinh tế đã vận hành một cách năng động và đạt hiệu quả
cao. Sự phát triển tự do cạnh tranh đến một mức độ nào đó dẫn đến sự hình
thành các tổ chức độc quyền làm giảm hiệu quả kinh tế, dẫn tới cạnh tranh
không lành mạnh và một vấn đề mà các nhà kinh tế học cổ điển không nghĩ
tới đó là khủng hoảng kinh tế. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng
hoảng kinh tế và thất nghiệp diễn ra thờng xuyên và nghiêm trọng theo chu kỳ
với khoảng cách ngày càng rút ngắn mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới 1929 - 1933 (khủng hoảng sản xuất thừa). Điều đó chứng tỏ rằng
thuyết "bàn tay vô hình" tỏ ra kém hiệu nghiệm và không còn phù hợp nữa.
Thực tiễn đòi hỏi phải có một lý thuyết kinh tế mới có khả năng thích ứng với
tình hình mới dể điều chỉnh đa nền kinh tế về trạng thái cân bằng. Và vào thời
điểm này John Meynard Keynes (1884 - 1946) đã đa ra lý thuyết Nhà nớc
điều tiết nền kinh tế thị trờng "bàn tay hữu hình". Theo lý thuyết Keynes Nhà
nớc can thiệp vào nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô Nhà nớc
sử dụng các công cụ nh lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lu thông tiền tệ,
lạm pháp, thuế, bảo hiểm , trợ cấp đầu t phát triển, khuyến khích tiêu dùng cá
nhân ở tầm vĩ mô Nhà nớc trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh và dịch vụ công cộng. Để đẩy mạnh sản xuất đảm bảo cân đối
cung cầu thì cần phải nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu có hiệu quả. J.M
Keynes và những ngời ủng hộ lý thuyết của ông tin tởng rằng sự can thiệp của
Nhà nớc vào nền kinh tế sẽ khắc phục đợc tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp
tạo ra sự ổn định lâu dài cho phát triển kinh tế - xã hội.
Nhng thực tế những chấn động trong kinh tế xã hội vẫn diễn ra, thất
nghiệp, lạm pháp, khủng hoảng không đợc cải thiện. Điều này đã làm tăng
thêm làn sóng phản đối Keynes và xuất hiện t tởng mới: cần phối hợp "bàn tay
vô hình" với "bàn tay hữu hình"để điều chỉnh kinh tế. Đó là quan điểm của
các nhà kinh tế học hiện đại P.Samuelson với lý thuyết kinh tế hỗn hợp cho
rằng để phát triển kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay là cơ chế thị trờng và
Nhà nớc. Ông cho rằng, điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ
lẫn thị trờng thì cũng nh định vỗ tay bằng một bàn tay.Theo quan điểm của
các nhà kinh tế học hiện đại thì Nhà nớc không phải là cái gì đó đứng ngoài
nền kinh tế mà nó cũng là một trong những chủ thể của nền kinh tế.
Từ sau năm 1917, cùng với sự ra đời của Liên bang Xô Viết và sau đó
là hệ thống XHCN từ sau năm 1945 là sự xuất hiện của nền kinh tế chỉ huy
vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhà nớc quản lý trực tiếp mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế bằng kế hoạch và hàng loạt
các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián tiếp. Kết quả thì các nớc này vẫn phải
chuyển sang cơ chế thị trờng và phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nớc
sau một thời gian dài phát triển rồi suy thoái, khủng hoảng nặng nề. Đối với n-
ớc ta, Nhà nớc là của dân, do dân và vì dân dới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam nên sự quản lý điều tiết nền kinh tế thị trờng là theo
định hớng Xã hội chủ nghĩa.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
5
II. Đặc tr ng của nền kinh tế thị tr ờng theo định h ớng xã hội chủ
nghĩa:
1. Khái niệm kinh tế thị trờng:
Về phơng diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản
xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và phân công lao
động xã hôị: thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng
hoá mà giai đoạn cao của nó đợc gọi là kinh tế thị trờng.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân
loại. Đó là phơng thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng
những tặng vật của thiên nhiên và sau đó đợc thực hiện thông qua những tác
động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì
sự sinh tồn của con ngời. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn,
với kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã
hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tuy không còn giữ địa
vị thống trị nhng vẫn còn tồn tại trong xã hội t bản cho đến ngày nay. Kinh tế
tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc
hậu.
Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá giản đơn, ra đời từ
khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự
phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác
nhau về t liệu sản xuất.
Chuyển từ kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh
dấu bớc chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của
nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng
dần đợc thay đổi : từ chỗ nh là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến,
không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những ngời thợ thủ công và
nông dân tự do, đến chỗ đợc thừa nhận trong xã hội phong kiến và đến Chủ
nghĩa t bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những đợc thừa nhận mà còn
phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trờng. Kinh tế hàng hoá và
kinh tế thị trờng chỉ khác nhau về trình độ phát triển.
Kinh tế thị trờng chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng
hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm
trù tiền tệ và thị trờng đợc phát triển và mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao
gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà bao hàm cả các yếu tố đầu vào
của sản xuất. Dung lợng thị trờng và cơ cấu thị trờng đợc mở rộng và hoàn
thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều đợc tiền tệ hoá. Kinh tế thị trờng
đợc hình thành với những điều kiện nh sau:
Một là, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động. Sự xuất hiện hàng hoá
sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Ngời lao động đợc tự do, anh ta có quyền
làm chủ khả năng lao động của mình và làm chủ thể bình đẳng trong việc th-
ơng lợng với ngời khác. Chủ nghĩa t bản đã thực hiện đợc bớc tiến bộ trong
lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
6
động để phục vụ túi tiền của các nhà t bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn
giữa t bản với lao động làm thuê. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
không phải mọi ngời có sức lao động đem bán đều là những ngời vô sản. Do
sự chi phối của lợi ích kinh tế và chi phí cơ hội, ngời lao động vẫn có thể bán
sức lao động của mình cho ngời khác nếu họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn
so với việc tổ chức quá trình sản xuất.
Hai là, phải tích luỹ đợc một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở
thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận. Lí luận
của trờng phái trọng thơng đã phản ánh rõ điều kiện tiền đề này.
Ba là, nền kinh tế thị trờng là nền kinh tế tiền tệ cho nên nền kinh tế thị
trờng cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tơng đối phát triển,
đáp ứng đợc nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh doanh.
Bốn là, sự hình thành nền kinh tế thị trờng đòi hỏi phải có một hệ
thống kết cấu hạ tầng tơng đối phát triển, đảm bảo cho lu thông hàng hoá và
tiền tệ thuận lợi, dễ dàng, tăng phơng tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao
đổi.
Năm là, tăng cờng vai trò kinh tế của Nhà nớc. Đối với nớc ta đây là
điều kiện có tính then chốt để hình thành và hoàn thiện nền kinh tế thị trờng.
Nhà nớc đã tạo ra môi trờng và hành lang cho thị trờng phát triển lành mạnh.
Đồng thời, Nhà nớc sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát
huy những u thế và hạn chế những tiêu cực của thị trờng. Nhà nớc thực hiện
chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc công bằng xã hội và hiệu
quả kinh tế xã hội. Nhà nớc còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lý hài hoà
quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trờng bên cạnh những đặc điểm riêng phù hợp với tình
hình cá biệt của mỗi quốc gia thì đều mang những nét chung nhất, những đặc
điểm mang tính chất phổ biến. Các đặc điểm này xuất phát chủ yếu từ việc
xoay quanh mối quan hệ giữa ngời sản xuất - thị trờng - và ngời mua. Trong
nền kinh tế thị trờng yếu tố cạnh tranh là một tất yếu do đó cũng sẽ dẫn đến
rất nhiều vấn đề, các mối quan hệ nảy sinh đầy phức tạp. Để một nền kinh tế
hoạt động nhịp nhàng và đạt hiệu quả thì các mối quan hệ đó cần đợc điều
chỉnh theo một nguyên tắc nhất định. Sự phát triển của nền kinh tế thị trờng
càng đòi hỏi tất yếu sự can thiệp, điều tiết của Nhà nớc vào nên kinh tế.
2. Cơ chế thị trờng - Đặc trng và những u khuyết điểm của nó:
2.1. Khái niệm:
Cơ chế thị trờng là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác
động của các qui luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ
bản của tổ chức kinh tế là cái gì, nh thế nào, và cho ai. Cơ chế thị trờng bao
gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trờng.
2.2. Các đặc trng cơ bản của cơ chế thị trờng:
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
7
Trớc hết, thông qua cơ chế thị trờng mà các vấn đề có liên quan đến
việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm nh lao động,
vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản đợc quyết định một cách khách quan
thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế thị trờng, đặc biệt là qui luật
cung cầu. Thông qua qui luật cung - cầu mà hình thành nên giá cả thị trờng,
giá cả thị trờng lên xuống xung quanh giá trị thị trờng và nó là kết quả thoả
thuận giữa ngời mua với ngời bán, nó tạo lên mức lợi nhuận trên thị trờng mà
từ đó có tác động chuyển dịch cơ cấu đầu t sản xuất vào các lĩnh vực cho lợi
nhuận cao
Thứ hai, trong cơ chế thị trờng, tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ
thể kinh tế đợc tiền tệ hoá thông qua giá cả thị trờng, làm cho các hoạt động
kinh tế phát triển nhanh và dễ dàng hơn.
Thứ ba, trong cơ chế thị trờng, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc
đẩy tăng trởng kinh tế và lợi ích kinh tế đợc biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận.
Thứ t, cơ chế thị trờng tạo cho các chủ thể kinh tế tự do lựa chọn phơng
án sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Dựa trên các qui luật kinh tế và tính tự
chủ, các mối quan hệ kinh tế, các nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn cho mình
phơng án sản xuất và kinh doanh phù hợp nhất để thu đợc lợi nhuận tối đa, và
ngời tiêu dùng đợc tự do lựa chọn tiêu dùng vì các quan hệ kinh tế đã đợc tiền tệ
hoá.
Thứ năm, thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là
sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trờng luôn duy trì đợc thế cân
bằng giữa mức cung và cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít gây ra sự
khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá.
Thứ sáu, cạnh tranh là môi trờng và động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của sản suất. Trong nền
kinh tế thị trờng, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất
và trong cả lĩnh vực lu thông, hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể
rất phong phú nhng động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi
nhuận.
Thứ bảy, cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất, mối quan hệ
giữa mục tiêu tăng cờng tự do cá nhân và mục tiêu và công bằng xã hội, giữa
đẩy nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế và nâng cao chất lợng cuộc sống cũng có
sự phát triển tơng ứng.
Thứ tám, cơ chế thị trờng đặt ngời tiêu dùng vào vị trí hàng đầu. Nhờ
sự phát triển sức sản xuất mới và các nhu cầu mới, cơ chế thị trờng có xu hớng
thoả mãn nhu cầu biến đổi không ngừng của các nhóm dân c sao cho phù hợp
với lối sống của họ, thay cho nguyên tắc sản xuất, cung ứng hàng loạt, bất
chấp nhu cầu.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
8
Thứ chín, nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị
trờng, là nhân tố sống động của cơ chế thị trờng. Nhà doanh nghiệp không
đứng ngoài cơ chế thị trờng. Không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ chế
thị trờng.
2.3. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trờng:
Thực tế khó đánh giá đầy đủ những u điểm và khuyết tật của cơ chế thị
trờng. Tuy nhiên, có thể nêu lên những u điểm của cơ chế thị trờng nh sau:
- Cơ chế thị trờng kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo
điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế
phát triển năng động, huy động đợc nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh
tế.
- Cạnh tranh buộc những ngời sản xuất phải giảm hao phí lao động cá
biệt đến mức thấp nhất có thể đợc bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ
mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động, nâng cao chất lợng và số lợng hàng hoá.
- Sự tác động của cơ chế thị trờng đa đến sự thích ứng tự phát giữa khối
lợng và cơ cấu của sản xuất với khối lợng và cơ cấu nhu cầu xã hội, nhờ đó có
thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn
loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nớc làm sẽ phải thực
hiện một khối lợng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện đợc và đòi hỏi
chi phí cao trong việc đa ra các quyết định.
- Cơ chế thị trờng mềm dẻo hơn Nhà nớc và có khả năng thích nghi cao
hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất
với nhu cầu xã hội.
Nhờ vậy cơ chế thị trờng giải quyết đợc những vấn đề cơ bản của tổ
chức kinh tế: Cần sản xuất loại hàng hoá gì với số lợng bao nhiêu do ngời tiêu
dùng quyết định. Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng
có mức lợi cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Sản xuất bằng phơng pháp nào, công
nghệ gì đợc quyết định bởi cạnh tranh để cho tối đa hoá đợc lợi nhuận và tối
thiểu hoá chi phí. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phơng pháp công nghệ
thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai (phân phối) đợc quyết định bởi quan hệ
cung cầu trên thị trờng các nhân tố sản xuất.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trờng
là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song bất kì
một tấm huân chơng nào cũng có mặt trái của nó. Cơ chế thị trờng không phải
là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt về mặt
xã hội. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samuelson đã nói rằng: Sau khi tìm hiểu về
bàn tay vô hình, chúng ta không nên quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị tr-
ờng, coi đó là hiện thân của sự hoàn hảo, là tinh tuý của sự hài hoà, của đấng
cao siêu, nằm ngoài tầm tay con ngời. Cũng nh báo cáo của Ban chấp hành
trung ơng Đại hội VII đã nêu rõ: Sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị tr-
ờng là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích của sản xuất phát triển,
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
9
kinh tế thị trờng cũng là môi trờng thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều
loại tiêu cực xã hội, thị trờng nh hiện tợng thai nghén cha biết sẽ ra sao. Điều
đó có nghĩa là bao hàm cả khả năng thất bại. Cơ chế thị trờng cũng có những
khuyết tật mà bản thân nó không thể tự giải quyết đợc:
- Tính tự phát: Do cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận, ngời sản xuất có
thể đổ xô vào các ngành sản xuất có lợi nhuận cao nên sản xuất quá mức cần
thiết hoặc do không dự kiến hết nhu cầu thị trờng, nên sản xuất không đủ đáp
ứng nhu cầu. Thị trờng điều tiết các dòng hàng, những ngời buôn bán không
thể tính hết đợc cầu của thị trờng nên sẽ xảy ra tình trạng có lúc hàng hoá đợc
tập trung vào một điểm trong một thời gian nhất định quá mức cầu thanh
toán cung lớn hơn cầu. Khi đó thị trờng lại phải tự điều chỉnh. Tính tự phát
cố hữu của thị trờng gây ra cho xã hội những lãng phí không nhỏ. Tuy nhiên
cần thấy rằng sự điều chỉnh tuy mang tính tự phát nhng lại rất linh hoạt.
- Chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán và phân hoá
thu nhập trong xã hội: Với mục đích bán đợc hàng, ngời sản xuất chỉ chú ý
đến nhu cầu có khả năng thanh toán. Trong khi đó toàn xã hội còn có những
nhu cầu khác, mà nếu đáp ứng nó thì có ít lợi nhuận và có khi không có lợi
nhuận, thậm chí thua lỗ, do đó các mặt hàng này bị mất nguồn cung. Song xã
hội lại rất cần các ngành đó, nhất là các sản phẩm dịch vụ công cộng.
Do tác động của cạnh tranh, có ngời giàu lên và có ngời bị phá sản, thu
nhập của các tầng lớp dân c cũng không đều, gây ra hiệu quả tiêu cực về mặt
xã hội, nhất là thất nghiệp.
- Cơ cấu kinh tế đợc hình thành một cách tự phát: Do tác động
của cạnh tranh, các đơn vị kinh tế sẽ tập trung vào các ngành có lợi nhuận cao,
để thu hồi vốn, còn các ngành lãi ít hoặc có cơ sở hạ tầng đòi hỏi nhiều vốn và
thu hồi vốn lâu sẽ không đợc quan tâm. Quá trình tự phát này kéo dài sẽ dẫn
đến mất cân đối về cơ cấu ngành.
- Gây mất cân bằng sinh thái: Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là
động lực trong kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trờng, các nhà doanh nghiệp
luôn luôn săn lùng lợi nhuận, tìm mọi cách nhằm đạt lợi nhuận tối đa chạy
theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, trớc mắt, cục bộ dẫn đến khai thác tự
nhiên bừa bãi phá huỷ môi trờng làm phơng hại đến lợi ích chung, lợi ích lâu
dài, gây nhiều hậu quả xấu về mặt xã hội.
- Phát sinh các tệ nạn xã hội: Sự tác động của cơ chế thị trờng đa
đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình ngời, do đó làm
nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội nh tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả
Tóm lại, cơ chế thị trờng có tác động điều tiết sản xuất và lu thông hàng hoá,
chi phối sự vận động của kinh tế thị trờng. Nhng sự điều tiết đó mang tính
chất mù quáng. Hơn nữa các chủ thể tham gia thị trờng hoạt động vì lợi ích
riêng của mình cho nên sự vận động của cơ chế thị trờng tất yếu dẫn tới những
mâu thuẫn và xung đột. Tất cả đã gây nên tình trạng không bình thờng trong
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
10
quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội. Vì vậy, xã hội đòi hỏi phải
có sự kiểm tra, điều tiết, định hớng một cách có ý thức đối với sự vận động
của cơ chế thị trờng. Đó là những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý
của Nhà nớc ở tất cả các nớc có nền kinh tế thị trờng. Nhà nớc thực hiện chức
năng quản lý kinh tế là đòi hỏi khách quan, là nhu cầu nội tại của nền kinh tế
hàng hóa vận động theo cơ chế thị trờng. Tuy nhiên, việc điều tiết, khống chế
và định hớng các hoạt động kinh tế của các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế
theo phơng hớng và mục tiêu nào, điều đó phụ thuộc vào bản chất của các
hình thức Nhà nớc và con đờng phát triển mà nớc đó lựa chọn. ở nớc ta, sự
quản lý của Nhà nớc nhằm hớng tới sự ổn định về kinh tế-xã hội, sự công
bằng và hiệu quả cũng nh làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trởng và phát
triển với tốc độ cao.
III. Tính tất yếu khách quan cần phải có vai trò quản lý vĩ mô
của Nhà n ớc đối với nền kinh tế ở Việt Nam:
Trong nền kinh tế thị trờng, tính tất yếu của sự điều tiết của Nhà nớc bắt
nguồn từ hai mặt:
Từ sứ mệnh lịch sử của Nhà nớc. Nhà nớc là tổ chức quyền lực chung,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thông qua đó mà giai cấp thống trị thực hiện
đợc sự thống trị của mình đối với toàn xã hội. Nhà nớc xã hội chủ nghĩa cũng
vậy, thông qua quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội mà thực hiện đợc sự thống
trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với toàn xã hội, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế xã hội. Một khi Nhà nớc đã không thể quản lý xã hội có
hiệu lực, hiệu quả, dẫn tới khủng hoảng kinh tế xã hội thì giai cấp thống trị
cũng khó mà giữ đợc địa vị thống trị của mình đối với toàn xã hội.
Hơn nữa, từ những đặc điểm của kinh tế thị trờng đòi hỏi có sự tác động
năng động, tích cực từ phía Nhà nớc thờng xuất hiện ở các trờng hợp sau:
- Kinh tế thị trờng thừa nhận nguyên tắc tự do cạnh tranh, cạnh tranh
trong kinh doanh, cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm, hành nghề Từ đó, một
mặt có thể dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất phá hoại; mặt
khác, có thể xuất hiện hiện tợng độc quyền của các doanh nghiệp. Làm xuất
hiện vai trò, nhiệm vụ của Nhà nớc là ngăn chặn sự độc quyền của thị trờng,
hớng vào sự cạnh tranh lành mạnh, phát triển sản xuất, bảo đảm cho sự bình
đẳng của mọi doanh nghiệp tham gia thị trờng, nhất là của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
- Sự vận động của kinh tế thị trờng là theo nguyên tắc tối đa hóa lợi
nhuận. Do đó, có thể dẫn tới tình trạng có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và phá
sản, ngời lao động mất việc làm mà bản thân kinh tế thị trờng thì không thể
giải quyết đợc những vấn đề đó. Nhà nớc xuất hiện nh ngời tổ chức phân phối
lại. Nhà nớc dùng tiền thu thuế để phân phối lại cho xã hội, nói cách khác Nhà
nớc có nhiệm vụ sửa chữa những khuyết tật của kinh tế thị trờng, hoàn thiện
thị trờng. Đó là một vài thí dụ để minh họa tính tất yếu khách quan của vai trò
Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng, có thể nói không có một nền kinh tế thị
trờng nào mà ở đó lại không có vai trò của Nhà nớc.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
11
Quản lý nhà nớc về kinh tế ở nớc ta trong nhiều năm trớc đây với cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp và cả trong những năm đổi mới theo cơ chế thị tr-
ờng vẫn còn nhiều khuyết điểm, vừa hạ thấp vai trò nhà nớc làm giảm hiệu lực
và hiệu quả quản lý của nhà nớc đối với các thành phần kinh tế lại vừa gây ra
nhiều vớng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm trì trệ thêm sự phát
triển và gây ra những khó khăn mới cho đời sống kinh tế xã hội của đất nớc.
Đã có một thời kỳ dài chúng ta phủ nhận kinh tế thị trờng trong chủ
nghĩa xã hội nhng khi chúng ta nhận thức lại, chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trờng thì vẫn có những sai lầm, cha nhận thức đúng
đắn vai trò nhà nớc trong quản lý nền kinh tế nhằm hớng sự phát triển của nền
kinh tế đảm bảo tính ổn định, công bằng v hiệu quả.
1. Cơ chế quản lý kinh tế trớc đây và vai trò quản lý của Nhà nớc:
Trong hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung do yêu cầu xây dựng nền
kinh tế theo chế độ công hữu, phi hàng hoá với nguyên tắc tập trung cao độ,
gắn liền với quan hệ cấp phát, giao nộp, dựa vào mệnh lệnh hành chính là chủ
yếu, nên nhà nớc đã đảm nhận vai trò quản lý tuyệt đối toàn bộ đời sống kinh
tế xã hội, nắm và chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nớc. Với cơ chế
này, nhà nớc đã thực hiện đợc những mục tiêu kinh tế và chính trị xã hội,
xây dựng lực lợng quốc phòng hùng mạnh, thực hiện các chính sách xã hội
quan trọng nh giáo dục, y tế, công bằng xã hội thể hiện tính u việt của xã
hội chủ nghĩa trên nhiều mặt. Song chức năng kinh tế của nhà nớc đợc đề cao
quá mức thể hiện trên những điểm chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất: Trong cơ chế cũ nhà nớc mở rộng quá đáng kinh tế quốc
doanh, gần nh đồng nhất kinh tế quốc doanh với chủ nghĩa xã hội, chỉ thừa
nhận một thành phần kinh tế XHCN với hai loại hình sở hữu: toàn dân và tập
thể. Các thành phần kinh tế khác bị hạn chế tới mức tối đa thậm chí còn bị
triệt tiêu, kinh tế t nhân không đợc phép tồn tại và hoạt động. Đến Đại hội
Đảng VI mặc dù đã có sự đổi mới nhận thức nhng vẫn còn nhấn mạnh kinh tế
quốc doanh phải chiếm tỷ trọng trong cả sản xuất và lu thông.
- Thứ hai: Nhà nớc đóng vai trò trung tâm và gần nh độc tôn trong lĩnh
vực đầu t xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nắm độc quyền ngân hàng,
ngoại thơng, ngoại hối, bao cấp tín dụng và do đó cha khai thác đợc nguồn lực
khác đầu t cho phát triển.
- Thứ ba: Nhà nớc trực tiếp điều hành và can thiệp quá sâu vào các hoạt
động kinh tế, Nhà nớc là ông chủ của một doanh nghiệp lớn với hệ thống
chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, trong đó các đơn vị kinh tế cơ sở chỉ là những ngời
thừa hành một cách thụ động mệnh lệnh chỉ huy từ trên xuống. Kế hoạch là
công cụ quản lý số một có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián
tiếp đối với tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế.
Luật kinh tế và các công cụ quản lý khác đều xếp sau công cụ kế hoạch.
- Thứ t: Nhà nớc muốn nắm toàn bộ khâu phân phối lu thông, dùng sức
mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ ba biện pháp: Kinh
tế, hành chính, giáo dục để nắm nguồn hàng vào tay mình.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
12
Tóm lại, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với cơ cấu kinh tế
công hữu và phi hàng hóa, quan hệ hàng hoá không đợc thừa nhận đầy đủ làm
triệt tiêu động lực phát triển, hình thành sự khan hiếm. Các công cụ điều tiết vĩ
mô nh lãi suất, giá cả, thuế, tiền công và tiền lơng không đợc sử dụng. Nhà n-
ớc tập trung mọi nguồn thu vào ngân sách Trung ơng vì vậy cũng chi mọi
khoản cần thiết liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống của
ngời lao động theo lối bình quân. Bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp
trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực
quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, phong cách quan liêu cửa quyền
của cán bộ Nhà nớc và tính thụ động, ỷ lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn
vị kinh tế.
Hình thức quản lý là cấp phát - giao nộp. Đó là một nền kinh tế hiện
vật còn hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Tình trạng lãi giả, lỗ thật là hậu
quả nghiêm trọng của kiểu hạch toán này.
Nh vậy cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hớng tiêu
cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã
hội, và kết quả là nền kinh tế Việt Nam trong thời gian này bị rơi vào khủng
hoảng: sản xuất đình trệ, hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang dẫn tới lạm
phát, đời sống nhân dân rất khó khăn. Chính vì thế vấn đề đổi mới là một yêu
cầu bức bách đợc đặt ra.
2. Cơ chế quản lý kinh tế mới và vai trò quản lý của Nhà nớc:
Cơ chế quản lý kinh tế mới hiện nay ở nớc ta là cơ chế thị trờng có sự quản
lý của Nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Nhà nớc đóng vai trò điều hành kinh tế vĩ mô (định hớng và điều tiết) nhằm
phát huy vai trò tích cực, hạn chế ngăn ngừa tiêu cực của cơ chế thị trờng.
Nhà nớc vừa phải thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản song song và đan xen
lẫn nhau, đó là vừa đổi mới, cải cách hệ thống quản lý bao gồm cải tạo cơ cấu
kinh tế cũ, xây dựng cơ cấu kinh tế mới, cải cách nền hành chính nhà nớc, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nớc phù hợp với cơ chế mới; vừa phải
điều hành nền kinh tế trong quá trình đổi mới, phải xử lý nhiều vấn đề mới
nảy sinh hết sức phức tạp và khó khăn. Mặt khác, nhiệm vụ quản lý nhà nớc
về kinh tế hết sức đa dạng, linh hoạt, luôn biến động do thực tế cuộc sống đặt
ra. Nhng Nhà nớc ta đã đạt đợc những thành tựu đáng kể đó là:
Nhà nớc ta đã phát huy vai trò trách nhiệm trong quản lý kinh tế xã
hội, tiến hành công cuộc đổi mới quản lý kinh tế nhng vẫn giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo tăng trởng kinh tế khá, cải thiện nâng cao đời sống nhân
dân, đa nớc ta cơ bản thoát khỏi khủng hoảng; đã mạnh dạn đổi mới cơ chế,
chính sách quản lý kinh tế và điều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp
có hiệu quả. Nhà nớc cũng đã mạnh dạn đổi mới hệ thống kinh tế nhà nớc, đổi
mới hệ thống tổ chức bộ máy nhà nớc, từng bớc phân định rõ chức năng lãnh
đạo của Đảng, quản lý nhà nớc về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh
doanh; đổi mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nớc phù
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
13
hợp với cơ chế mới Do đó, đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế xã hội
và thành công của công cuộc đổi mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc trong quá trình đổi mới, quản lý
nhà nớc về kinh tế còn có nhiều mặt hạn chế và yếu kém:
- Quản lý nhà nớc cha ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, cha phát
huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế đợc tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị tr-
ờng. Đất đai, vốn và tài sản nhà nớc cha đợc quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng
phí và thất thoát nghiêm trọng, cha tăng cờng đợc vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nớc.
- Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách cha đồng bộ, cha nhất quán,
thực hiện cha nghiêm.
- Quản lý lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tiền tệ, giá cả, kế hoạch, thơng
mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nớc cha tốt, cha hiệu quả
và chậm đổi mới.
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nớc còn nặng nề, quan hệ phân công và
hiệp tác cha rõ ràng và còn nhiều vớng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng; cán bộ và công chức nhà nớc
còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, cha tơng xứng với
yêu cầu của nhiệm vụ. Thực trạng cụ thể những năm gần đây nh sau:
Năm 2003 nền kinh tế vẫn duy trì đợc mức tăng trởng khá, đạt đợc mục
tiêu của kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trởng kinh tế (GDP) cả năm 2003 ớc đạt
7,2 - 7,3% đạt kế hoạch đề ra (kế hoạch là 7,0-7,5%)
(1)
. Tỷ trọng khu vực
công nghiệp và xây dựng trong GDP toàn nền kinh tế tăng từ 38,5% năm 2002
lên 39,9% năm 2003; tỷ trọng dịch vụ tơng ứng giảm từ 38,5% xuống 37,8%
và tỷ trọng khu vực nông, lâm, ng nghiệp giảm từ 23% xuống còn 22,3%.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trởng cao và đang từng bớc đi vào
thế phát triển ổn định với chất lợng đợc chú ý nâng cao. Giá trị sản xuất công
nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 15,9%, cao hơn so với cùng kỳ nhiều năm trớc
đây Tốc độ tăng trởng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp năm 2003 ớc đạt
10,4%
Các ngành dịch vụ có sự chuyển dịch tích cực, thị trờng trong nớc đáp
ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời
sống dân c. Tổng mức hàng hoá bán lẻ và tiêu dùng xã hội cả năm ớc thực
hiện 306 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2002. Hoạt động hàng không,
du lịch có nhiều cố gắng, do đã khống chế thành công dịch bệnh SARS, đồng
thời đã đẩy mạnh các biện pháp quảng cáo, khuyến mại nên đang từng bớc
(
1)
Theo dự báo của Ngân hàng thế giới (WB - tháng 8-2003), tốc độ tăng trởng kinh tế năm 2003 của Trung
Quốc đạt 7,2%, Nhật Bản: 0,6%, Thái Lan: 4,5%, Singapore: 1,7%; Philippines: 4,0%; Malaysia: 4,2%;
Inđonesia: 3,3%, Việt Nam: 7,0% (Việt Nam năm 2002: 6%). Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển Châu
á (ADB, tháng 8-2003), tốc độ tăng trởng kinh tế năm 2003 của Trung Quốc đạt 7,3%, Thái Lan: 5%;
Singapore: 2,3%; Philippines: 4,0%; Malaysia 4,3%; Việt Nam: 6,9% (Việt Nam năm 2002: 6,4%).
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
14
phục hồi. Các dịch vụ bu chính viễn thông, vận tải, tài chính, ngân hàng, bất
động sản tiếp tục phát triển.
Xuất khẩu tiếp tục đạt đợc tốc độ tăng trởng cao. Kim ngạch xuất khẩu
ớc cả năm 2003 đạt khoảng 19,5 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2002 và vợt
mức kế hoạch đề ra (kế hoạch là 8,0- 8,5%). Kim ngạch nhập khẩu ớc cả năm
2003 đạt 24 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2002. Nhập khẩu năm 2003 tăng
so với năm 2002 là 4,3 tỷ USD.
Thu Ngân sách Nhà nớc tăng, vợt dự toán đầu năm, hoạt động tiền tệ đã
cơ bản đáp ứng đợc yêu cầu của phát triển kinh tế. Thu ngân sách nhà nớc
năm 2003 ớc đạt 132,5 nghìn tỷ đồng, vợt 7,1% dự toán năm, bằng 21,7%
GDP và tăng 11,3% so với thực hiện năm 2002, là năm thứ 6 liên tiếp thu ngân
sách Nhà nớc vợt dự toán đề ra
(4)
. Tổng chi Ngân sách nhà nớc cả năm 2003 -
ớc đạt 167,7 nghìn tỷ đồng, vợt 6,1% so với dự toán năm và tăng 14,1% so với
thực hiện năm 2002.
Hoạt động tiền tệ trong năm 2003 đã cơ bản đáp ứng đợc nhu cầu của
nền kinh tế. Uớc cả năm 2003, tổng phơng tiện thanh toán tăng 20,4% so với
năm 2002; nguồn vốn huy động tăng 22,7%.
Nguồn lực huy động cho đầu t phát triển đạt khá, cơ cấu đầu t đã hớng
vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hạ tầng kinh tế và xã hội đợc cải
thiện rõ rệt. Ước thực hiện cả năm vốn đầu t toàn xã hội đạt khoảng 217 nghìn
tỷ đồng, bằng 35,6% GDP
(5)
.
Tốc độ tăng trởng kinh tế (GDP) năm 2003 tuy đạt đợc kế hoạch đề ra
nhng vẫn cha đạt đợc mục tiêu tăng trởng trung bình của kế hoạch 5 năm
2001-2005 là 7,5%/năm. Tuy xu hớng phát triển là tích cực, song chất lợng
phát triển cha cao, cha bền vững, mức tăng trởng cha tơng xứng với mức tăng
đầu t. Phát triển chủ yếu dựa trên chiều rộng, cha đi vào chiều sâu, còn phụ
thuộc nhiều vào đầu t và bảo hộ của nhà nớc, vào thị trờng thế giới; chất lợng
đầu t còn thấp; mức tăng trởng cha tơng xứng với tốc độ tăng đầu t; số lao
động thiếu việc làm còn lớn; kết cấu hạ tầng thấp kém so với yêu cầu phát
triển. Tăng trởng vẫn tập trung vào một số ngành, sản phẩm truyền thống nhng
công nghệ cha cao nh dệt may, thuỷ sản, và nông sản cha chế biến. Đóng góp
vào tăng trởng của các ngành sử dụng công nghệ cao nh điện tử, cơ khí chính
xác rất thấp.
Quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, cơ cấu kinh tế, tổ chức quản lý cha phù
hợp làm cho nền kinh tế phát triển thiếu vững chắc, hàng hoá cạnh tranh thấp,
GDP bình quân đầu ngời năm 2003 chỉ đạt trên 480 USD, chỉ bằng 1/5 của Thái
(
4)
Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nớc năm 2000 vợt 21,9 % dự toán và đạt 20,5% GDP, năm 2001 vợt
20,4 % dự toán và đạt 21,4% GDP, năm 2002 vợt 13% dự toán và đạt 22% GDP. Tốc độ tăng thu ngân sách
nhà nớc hàng năm đã cao hơn tốc độ tăng trởng kinh tế và tốc độ tăng giá cộng lại: năm 2000 tăng 15,6%;
năm 2001 tăng 14,5%, năm 2002 tăng 14,6%.
(
5)
Tỷ lệ huy động vốn đầu t trong GDP năm 2001 đạt 34%, năm 2002 đạt 34,3%
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
15
Lan, 1/9 của Malaixia. Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP đạt khoảng 29,5%, thấp so với
một số nớc trong khu vực
(7)
.
Môi trờng đầu t, sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều vớng mắc, cạnh
tranh ngày càng gay gắt, nhất là thị trờng hàng hóa xuất khẩu. Môi trờng đầu
t, sản xuất kinh doanh thủ tục còn nhiều rờm rà, phức tạp, vừa cha thông
thoáng, vừa quá dễ dãi; chi phí cho đầu t, sản xuất kinh doanh còn cao; sự
phối hợp giữa các cơ quan cha tốt; chính sách hay thay đổi và khó dự báo trớc;
môi trờng đầu t thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Môi trờng kinh tế vĩ mô còn nhiều bất cập, cha tạo dựng đợc khung
pháp lý đồng bộ cho các yếu tố của thị trờng và các loại thị trờng phát triển;
thị trờng vốn kém phát triển, các cơ chế huy động vốn và cho vay vốn thiếu
đồng bộ, tín dụng cho vay nền kinh tế cha hiệu quả; việc điều hành lãi suất
còn lúng túng; còn tồn tại nhiều mức lãi suất u đãi đầu t cho các ngành trong
nền kinh tế (chỉ riêng các khoản vay của Quỹ Hỗ trợ phát triển đã có tới hàng
chục mức lãi suất) làm giảm khả năng giám sát và đánh giá hiệu quả đầu t.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu t toàn xã hội cha cao, công tác quản lý đầu t
và quản lý xây dựng còn nhiều yếu kém và chậm khắc phục.
Nguồn thu ngân sách nhà nớc cha thật vững chắc, chính sách tín dụng cha
thực sự lành mạnh, vẫn phụ thuộc vào bên ngoài. Gần 1/2 tổng thu ngân sách
hàng năm là thu từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu (là những khoản thu
phụ thuộc khá nhiều vào biến động cung cầu và giá cả trên thị trờng thế giới),
trong đó thu từ dầu thô chiếm khoảng 1/4 tổng thu ngân sách, thu từ thuế xuất
nhập khẩu chiếm 1/4.
Thực trạng trên đòi hỏi nhà nớc phải tiếp tục đổi mới quản lý, tăng cờng
vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Đó là một tất yếu khách quan.
Ch ơng II: Các mục tiêu và chức năng quản lí vĩ mô của Nhà n-
ớc đối với nền kinh tế - Nội dung và thực trạng vai trò kinh tế của
Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay.
I. Các mục tiêu quản lí kinh tế vĩ mô:
1. Tất cả các Nhà nớc trên thế giới đều có một mục tiêu là đảm bảo đ-
ợc sự lành mạnh của nền kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
- Mục tiêu sản lợng: Đạt đợc mức sản lợng thực tế cao, tơng ứng với
mức sản lợng tiềm năng, giữ vững tốc độ tăng trởng sản lợng cao và vững
chắc.
- Mục tiêu việc làm: Tạo đợc việc làm tốt, hạ thấp tỉ thấp nghiệp (duy
trì ở mức tự nhiên).
(
7)
Tỷ lệ tiết kiệm so với GDP năm 2002 của Trung Quốc đạt 37,8%, Singapore 44,5%, Malaixia 41,8%.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
16
- Mục tiêu ổn định giá cả: hạ thấp và kiểm soát đợc lạm phát trong điều
kiện tự do đặc biệt là trong hoàn cảnh hệ thống tài chính tiền tệ trên thế giới
liên tục xảy ra khủng hoảng và bất ổn định.
- Mục tiêu đối ngoại: ổn định tỷ giá hối đoái, cân bằng cán cân thanh
toán. Mở rộng hợp tác trên phạm vi thế giới theo xu hớng quốc tế hoá sản
xuất. Đây là mục tiêu mà các chính phủ hết sức quan tâm nhng đồng thời rất
thận trọng, một mặt mở rộng quan hệ thơng mại quốc tế mặt khác vẫn giữ
vững ổn định chính trị, chủ quyền và độc lập, tránh phụ thuộc về kinh tế dẫn
tới phụ thuộc về chính trị, đồng thời tạo vị thế quốc gia trên thị trờng quốc tế.
- Phân phối công bằng: Đây đợc coi là mục tiêu quan trọng nhất trong
các mục tiêu kinh tế bởi có giải quyết đợc nó mới có thể ổn định đợc xã hội.
Phân phối công bằng sẽ tránh đợc sự phân biệt giàu nghèo, sự chênh lệch quá
lớn trong xã hội đồng thời cũng tạo vị trí vững chắc cho giai cấp cầm quyền.
Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tởng của nền kinh tế trong đó các
mục tiêu có tác động tơng hỗ, bổ sung cho nhau vì mục tiêu chung của quốc
gia.
2. Cụ thể đối với Việt Nam, Nhà nớc ta có các mục tiêu cơ bản sau:
- Đạt đợc trạng thái kinh tế tăng trởng cao và lâu dài, cụ thể là trên dới
10%, nâng cao thu nhập bình quân đầu ngời lên gấp đôi (500 USD) vào năm
2005.
- Giải quyết công ăn việc làm ở mức tốt nhất, không ngừng mở rộng các
loại hình sản xuất, có nhiều biện pháp thu hút đầu t, các chính sách giáo dục
đào tạo để có đợc đội ngũ lao động có chuyên môn và tay nghề cao.
- Tiếp tục đẩy lùi kiểm soát lạm phát, giữ vững tỷ lệ lạm phát ở mức
một con số (dới 10%). Bắt đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế.
- ổn định và từng bớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Bảo đảm mức tiền lơng tối thiểu đáp ứng nhu cầu thiết yếu của ngời lao
động, ngăn chặn thu nhập, chi phí bất công. Đảm bảo phân phối thu nhập cân
bằng (đặc biệt giữa các ngành nghề và loại hình lao động khác nhau)
- Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, giảm chênh lệch cán cân thanh toán
quốc tế, đảm bảo giá cả phản ánh đúng tín hiệu thị trờng.
- Khuyến khích tạo điều kiện cho đầu t nớc ngoài ở Việt Nam.
II. Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà n ớc.
Vai trò của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng. Vai trò đó đợc thể hiện
qua các chức năng kinh tế của nó. Cụ thể nh sau:
1. Định hớng sự phát triển của xã hội theo các đặc trng và các yêu cầu
đã định cho các chặng đờng phát triển. ở nớc ta đó là việc nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lợc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc đẩy mạnh công nghiệp
hoá-hiện đại hoá đất nớc với một cơ cấu phát triển kinh tế hợp lý, quan hệ sản
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
17
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đới sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh, xã
hội công bằng văn minh.
Nhà nớc đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật
để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.
2. Sửa chữa những thất bại của thị trờng để thị trờng hoạt động có hiệu
quả, hạn chế tới mức thấp nhất các mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng và bộ
máy quản lý kinh tế xã hội các cấp, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có
hiệu quả.
Những thất bại thị trờng gặp phải làm cho hoạt động của nó là sự xuất hiện
của độc quyền. Lợi dụng u thế của mình, các tổ chức độc quyền không ngừng
tăng giá để thu lợi nhuận và nh vậy phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo. Trong khi
một nền kinh tế đợc thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nh-
ng cạnh tranh làm giảm lợi nhuận nên các doanh nghiệp có xu hớng hạn chế
cạnh tranh. Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ để hạn chế độc
quyền. Đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trờng. Khi có cạnh tranh
hoàn hảo, nó sẽ đảm bảo đợc sự ganh đua của những ngời sản xuất, đảm bảo
tính hiệu quả của nền kinh tế.
Các tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt
động thị trờng và đòi hỏi Nhà nớc phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra
khi doanh nghiệp hoặc con ngời tạo ra chi phí-lợi ích cho doanh nghiệp khác,
hoặc ngời khác mà doanh nghiệp hoặc con ngời đó không đợc nhận đúng
những lợi ích mà họ cần đợc nhận hoặc không phải trả đúng số chi phí mà họ
phải trả. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài
nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trờng sống, thiếu an toàn trong sản xuất mà
xã hội phải gánh chịu. Những tác động bên ngoài nh vậy làm cho hoạt kinh tế
không hiệu quả. Vì vậy, Nhà nớc nớc phải sử dụng đến luật lệ để điều hành
kinh tế nh một phơng pháp ngăn chặn những tác động bên ngoài, nâng cao
hiệu quả nh buộc phải bồi thờng do ô nhiễm, phá huỷ môi trờng, buộc ngừng
sản xuất, khai thác
Đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nớc phải đảm bảo nhận
việc sản xuất hàng hoá công cộng. ích lợi của hàng hoá công cộng đối với xã
hội và t nhân là khác nhau và ích lợi giới hạn mà t nhân thu đựoc từ hàng hoá
công cộng là rất nhỏ. Vì vậy t nhân thờng không muốn sản xuất hàng hoá
công cộng, trong khi có nhiều loại hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng
nh Quốc phòng, luật pháp, trật tự nên không thể giao cho t nhân đợc. Việc
Nhà nớc phải tham gia sản xuất hàng hoá công cộng là tất yếu.
Nguồn thu chủ yếu của Nhà nớc là từ thuế và phần chi phí của Nhà nớc
phải đợc trả bằng thuế thu đợc. Việc đề ra luật thuế qui định nghĩa vụ của mọi
cá nhân và tổ chức cũng nh đảm bảo công bằng trong xã hội là cần thiết. Tất
cả mọi ngời đều phải tuân theo luật thuế.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
18
Nh vậy, Nhà nớc phải can thiệp vào thị trờng để nâng cao hiệu quả của
thị trờng thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách đối với nền kinh tế
và xã hội. Từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra trôi chảy,
ngăn cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp khi họ độc quyền chiếm thị trờng,
kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
3. Nhà nớc điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trờng phát
triển ổn định. Nền kinh tế thị trờng khó tránh khỏi bị chấn động bởi các khủng
hoảng kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh tức là các dao động
của tổng thu nhập quốc dân kèm theo các dao động lên xuống của mức độ thất
nghiệp và lạm phát.
Nhà nớc cần cố gắng làm dịu những dao động lên xuống của chu kỳ
kinh doanh thông qua chơng trình hoá kinh tế, các chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ. Qua đó, Nhà nớc ổn định nền kinh tế, duy trì nó càng sát
càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.
Nhà nớc có thể đầu t vào một số lĩnh vực cần thiết, để hỗ tợ, dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác. Kết hợp phân phối và phân phối thu nhập Quốc dân
đặc biệt là việc thực hiện tốt luật ngân sách Nhà nớc. Sự hoạt động của cơ chế
kinh tế thị trờng có thể đạt hiệu quả cao, nhng cơ chế thị trờng lại hoạt động
phi nhân tính, nó không tính đến khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang
lại những kết quả mà xã hội cố gắng vơn tới. Việc phân phối và sử dụng tối u
các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tối u. Sự can
thiệp của Nhà nớc nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành viên
của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các
nhóm dân c có thu nhập thấp. Diều đó đợc thực hiện thông qua các chính sách
phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Hiển nhiên Nhà nớc không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn
hảo. Bất cứ điều gì đều có mặt trái của nó. Do đó việc vẫn còn tồn tại tình
trạng lạm phát, suy thoái là không thể tránh khỏi. Nhà nớc chỉ có thể góp phần
giảm bớt hậu quả của nó hoặc giảm tần số xuất hiện của khủng hoảng kinh tế.
4. Nhà nớc còn có chức năng quản lý kinh tế vĩ mô.
+ Tạo môi trờng và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế nh đảm
bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết lập khuôn khổ pháp luật thống nhất
có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trờng ổn định và thuận lợi cho
giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
+ Định hớng cho sự phát triển, trực tiếp đầu t vào một số lĩnh vực để
dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi tr-
ờng kinh tế vĩ mô nh chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những
đột biến xấu trong nền kinh tế.
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát
triển kinh tế. Nhà nớc lựa chọn chính sách và các liên kết đối ngoại có lợi cho
sự phát triển đất nớc, phát huy ảnh hởng ngoại giao trong khu vực và trên thế
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
19
giới, đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao của nền kinh tế
Quốc dân.
+ Quản lý tài sản công, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội đặc
biệt là quản lý đất đai, quản lý môi trờng. Thực hiện đúng chức năng quản lý
Nhà nớc về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nớc. Các bộ
và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và
quyền tự chủ của doanh nghiệp.
+ Khắc phục hạn chế các mặt tiêu cựu của cơ chế thị trờng, phân phối
thu nhập Quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trởng kinh tế gắn với
cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
III. Các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà n ớc và thực trạng của nó ở
Việt Nam:
1. Các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nớc:
1.1. Hệ thống pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trờng công cụ chủ yếu Nhà nớc sử dụng để quản
lý nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Phải thừa nhận rằng luật kinh tế ở nớc ta
cha làm đợc nhiều, nền kinh tế đã chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhng
những luật rất cơ bản nh luật đất đai, luật thuê mớn nhân công, luật phá sản,
luật doanh nghiệp nhà nớc, luật cạnh tranh và chống độc quyền vẫn ch a
hoàn thiện. Vì vậy trong giải quyết công việc hàng ngày các cơ quan có trách
nhiệm của Nhà nớc còn rất lúng túng trong quản lý cả tầm vĩ mô và vi mô.
Cũng do cha có luật nên một số cơ quan nhà nớc có trách nhiệm lại buông
lỏng quản lý để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp gây thiệt
hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Nh vậy, trong nền kinh tế thị trờng vai trò của pháp luật thể hiện trên
hai phơng diện :
Thứ nhất, pháp luật là công cụ cỡng chế hành vi của các doanh nghiệp
nếu nh hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích
của toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo nên môi trờng tự do kinh doanh, tự
do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà
doanh nghiệp biết đợc cái gì đợc làm, cái gì không đợc làm và đơng nhiên cái
gì đợc làm là cái đợc pháp luật bảo hộ quyền tự do. Chính vì vậy, có sự rất
khác nhau giữa pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá và pháp luật của nền
kinh tế thị trờng có sự quản lý. Trong pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá
doanh nghiệp nhận thấy cái gì đợc làm thì trong pháp luật của kinh tế thị trờng
có sự quản lý doanh nghiệp sẽ nhận thấy cái gì không đợc làm, không đợc
phép, ngoài những cái đó ra họ có quyền làm tất cả những gì họ có khả năng.
Phơng hớng trong những năm tới là tiếp tục hoàn chỉnh, kiện toàn hệ
thống pháp luật, làm cho pháp luật đợc thực hiện đầy đủ và nghiêm minh, bảo
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
20
đảm quyền bình đẳng nh nhau trớc pháp luật của các chủ thể kinh tế. Xây
dựng và thông qua thêm nhiều luật mới trong kinh tế để đảm bảo tạo điều
kiện thuận lợi và an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng nh bảo đảm
sự tăng trởng kinh tế bền vững và ổn định xã hội.
1.2. Công cụ kế hoạch hoá.
Nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần nên kế hoạch hoá là một công cụ quan trọng để nhà nớc tổ
chức và quản lý nền kinh tế phát triển theo đúng định hớng.
Đặc điểm kinh tế quyết định đặc điểm của kế hoạch hoá trong thời kì
quá độ ở nớc ta. Đó là kế hoạch hoá định hớng gắn liền với hoạch định các
chính sách kinh tế và hệ thống đòn bẩy kinh tế nh giá cả, thuế tín dụng, luật
kinh doanh Kế hoạch hoá trực tiếp chỉ diễn ra trong một phạm vi nhất định
còn chủ yếu là kế hoạch hoá gián tiếp.
Mỗi thời kì nhất định có nội dung kế hoạch hoá thích hợp để thực hiện
chiến lợc kinh tế - xã hội. Trong chặng đờng đầu tiên của thời kì quá độ ở nớc
ta, nội dung của kế hoạch là xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản
lý của nhà nớc nhằm đạt đợc một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ
hiện đại gắn với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Trong điều kiện nớc ta, cần tăng cờng kế hoạch hoá vĩ mô trên cơ sở
đổi mới kế hoạch hoá, chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang kế
hoạch hoá định hớng, bảo đảm các cân đối tổng thể cơ bản của nền kinh
tế(cân đối cung - cầu, tiền - hàng, thu - chi, xuất - nhập khẩu, tích lũy - tiêu
dùng ). Kế hoạch Nhà n ớc có chơng trình, dự án đầu t của chính phủ bảo
đảm điều kiện thự hiện các mục tiêu lớn, đi đôi với việc thực hiện các chính
sách đòn bẩy kinh tế là chính để hớng dẫn và hỗ trợ các ngành, các địa phơng
và cơ sở phát triển theo định hớng kế hoạch.
Để thực hiện đợc nội dung quan trọng trên phải nâng cao chất lợng kế
hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, lấy thị trờng làm đối tợng và là căn cứ quan
trọng nhất nâng cao dần trình độ dự báo kinh tế - xã hội trong công tác kế
hoạch hoá.
Nh vậy, đổi mới công tác kế hoạch hoá là một tất yếu khách quan theo
phơng hớng:
Một là, lấy thị trờng làm căn cứ và đối tợng chủ yếu của kế hoạch hoá.
Hai là, thay hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt bằng hệ thống chỉ tiêu
cân đối mang tính định hớng .
Ba là, thực hiện kế hoạch hoá hai cấp: cấp nhà nớc gắn với kế hoạch
hoá vĩ mô và cấp cơ sở gắn với kế hoạch hoá vi mô.
Bốn là, nâng cao trình độ dự báo kinh tế-xã hội trong công tác kế hoạch
hoá.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
21
Năm là, cải tiến hệ thống bộ máy làm kế hoạch và nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ làm kế hoạch.
1.3. Chính sách tài chính - tín dụng.
Một trong các điều kiện để hình thành nền kinh tế thị trờng là cần có hệ
thống tài chính tín dụng tơng đối phát triển. Hệ thống tài chính-tín dụng giản
đơn không thể đáp ứng đợc những nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh,
cũng nh hoạt động lu thông hàng hoá, tiền tệ trên thị trờng.
Hệ thống tài chính-tiền tệ nớc ta trong thời gian qua đã có những tác
động tích cự đối với việc thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lu
thông thu hút các nguồn vốn đầu t từ nớc ngoài. Các công cụ và hình thức tổ
chức tài chính, tiền tệ phi ngan hàng ngày càng đợc đa dạng hoá và từng bớc
hoàn thiện.
Trong điều kiện thực tế và tình hình cụ thể hệ thống tài chính-tiền tệ
vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế thì việc kiện toàn hệ thống này trong tơng lai
là một yêu cầu khách quan, mang tính tất yếu. Cách thức tiến hành đó là:
Tích cực đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính-tiền tệ
quốc gia, động viên hợp lý và phân phối có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm thực
hiện chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trờng tài chính lành
mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và
tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân c; bồi dỡng và mở
rộng nguồn thu ngân sách, thu hút các nguồn vốn bên ngoài. Kết hợp chạt chẽ
kế họch hoá với các chính sách kinh tế, tài chính để định hớng và khuyến
khích nhân dân, doanh nghiệp tiết kiệm đầu t kinh doanh.
Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trờng tài chính-tiền tệ
trong toàn bộ nền kinh tế. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình
hình đấtv nớc và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hoá các sắc
thuế, từng bớc áp dụng hệ thống thống nhất không phân biệt doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp
có vốn đầu t nớc ngoài. Hiện đại hoá công tác thu thuế và tăng cờng quản lý
của nhà nớc
1.4. Chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trờng là chính sách không điều chỉnh
khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng
nền kinh tế mua ngoại tệ, tạm ứng cho ngân sách điều chỉnh khối tiền tệ sẵn
có trong lu thông phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm, phù hợp giữa tổng
cung và tổng cầu tiền tệ và hàng không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu
cầu lu thông. Chính sách tiền tệ đợc hớng vào khống chế nguồn gốc làm tăng
lợng tiền cung ứng.
1.5. Chính sách thu nhập.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
22
Đối với chính sách thu nhập ta phải quan tâm đến tiền lơng. Nếu chế độ
tiền lơng không đợc đổi mới một cách cơ bản thì mọi cái đặt ra đều không có
ý nghĩa. Thông qua chính sách này, Nhà nớc có thể thực hiện đợc chế độ hởng
thụ công bằng, thực hiện chống tham nhũng có hiệu quả, siết chặt kỷ luật kỷ
cơng bằng Cách mạng chế độ lơng bổng trả lơng đúng theo tài năng và trách
nhiệm của ngời lao động.
2. Tình hình các công cụ ở nớc ta.
Đảng và Nhà nớc đề ra kế hoạch, chiến lợc phát triển kinh tế xã hội cho
từng giai đoạn và từng năm cụ thể, thờng là kế hoạch 5 năm, 10 năm:
2.1. Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005.
Bớc vào kế hoạch 5 năm đầu tiên của thế kỷ mới, tình hình trong nớc và
bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn đan xen với nhiều khó khăn,
thách thức lớn. Thế và lực của nớc ta mạnh hơn nhiều so với trớc. Chính trị -
xã hội tiếp tục ổn định; quan hệ sản xuất đợc đổi mới phù hợp hơn; thể chế
kinh tế thị trờng đã bớc đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Hệ thống luật
pháp, cơ chế chính sách phù hợp đang phát huy trong phát triển kinh tế và đời
sống xã hội.
Năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tạo ra tiền đề
cần thiết cho bớc phát triển mới. Cơ cấu kinh tế có bớc chuyển dịch tích cực.
Quan hệ kinh tế, ngoại giao của nớc ta đã đợc mở rộng trên trờng quốc tế.
Năm 2000, nền kinh tế đã bắt đầu lấy lại đợc nhịp độ tăng trởng tơng
đối khá, tạo đà phát triển trong những năm tiếp theo.
Tuy vậy, trình độ phát triển kinh tế của nớc ta còn thấp; chất lợng, hiệu
quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mô sản xuất nhỏ bé, các cân đối nguồn
lực còn hạn hẹp; mức thu nhập và tiêu dùng của dân c thấp, cha đủ tạo sức bật
mới đối với sản xuất và phát triển thị trờng. Lĩnh vực xã hội tồn tại nhiều vấn
đề bức xúc. Cải cách hành chính tiến hành còn chậm.
Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, đặc biệt là công
nghệ thông tin và công nghệ sinh học; xu thế toàn cầu hóa; khả năng ổn định
và phục hồi của nền kinh tế khu vực và thế giới trong thập kỷ tới có những tác
động tích cực, tạo điều kiện cho nớc ta mở ra khả năng hợp tác kinh tế, khai
thác lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực,
tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nớc. Đồng thời cũng có những yếu
tố không thuận, tăng sức ép cạnh tranh đối với nền kinh tế nớc ta.
Vấn đề đặt ra là phải phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, đặc
biệt là trí tuệ và kỹ năng lao động của ngời Việt Nam, nguồn lực của mọi
thành phần kinh tế, khắc phục những khó khăn, yếu kém, tận dụng mọi thuận
lợi và thời cơ để phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững theo định hớng
xã hội chủ nghĩa.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
23
2.1.1. Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ chủ yếu.
Đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nớc ta cơ
bản trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại. Nguồn lực con ngời,
năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh đợc tăng cờng; thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa đợc hình thành về cơ bản; vị thế của nớc ta trên trờng quốc tế đợc nâng
cao. Theo đó, mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là:
Tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo
chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con ngời. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy
lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng c-
ờng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bớc quan trọng thể chế
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
và an ninh quốc gia.
Mục tiêu tổng quát nêu trên đợc cụ thể hóa thành định hớng phát triển
và các nhiệm vụ chủ yếu nh sau:
- Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn
5 năm trớc và có bớc chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nớc có vai
trò chủ đạo; củng cố kinh tế tập thể; hình thành một bớc quan trọng thể chế
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hớng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tăng nhanh hàm
lợng công nghệ trong sản phẩm.
- Tăng nhanh vốn đầu t phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng cơ cấu kinh
tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bớc cơ bản hệ
thống kết cấu hạ tầng. Đầu t thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm; hỗ
trợ đầu t nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trờng đã
có và mở rộng thêm thị trờng mới. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh
xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phơng và đa phơng.
- Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính - tiền tệ, tăng
tiềm lực và khả năng tài chính quốc gia, thực hành triệt để tiết kiệm; tăng tỷ lệ
chi ngân sách dành cho đầu t phát triển; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô;
phát triển thị trờng vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
24
- Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, đổi mới và nâng cao hiệu
lực của bộ máy Nhà nớc. Đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng. Thực hiện
tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở xã, phờng và các đơn vị cơ sở.
2.1.2. Các chỉ tiêu định hớng phát triển kinh tế chủ yếu.
- Tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Tốc độ tăng trởng
GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005 là 7,5%, trong đó nông,
lâm, ng nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng
6,2%.
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ng nghiệp tăng 4,8%/năm.
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13%/năm.
- Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến:
+ Tỷ trọng nông, lâm, ng nghiệp 20 - 21%.
+ Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 - 39%.
+ Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%.
2.2. Mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế năm 2004.
Năm 2004 là năm thứ 4 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ IX và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đây là năm có ý nghĩa rất quan trọng
giữ vai trò quyết định trong việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm.
Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2001-2005, trên cơ sở kết quả thực hiện 3 năm qua, năm 2004 phải
đạt đợc những bớc chuyển biến căn bản của nền kinh tế-xã hội nớc ta, tập
trung thực hiện các trọng tâm sau đây:
Tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền
vững, trên cơ sở phát triển kinh tế nhiều thành phần, thu hút mạnh mẽ đầu t n-
ớc ngoài; rà soát lại các qui hoạch phát triển sản phẩm, chuyển dịch nhanh cơ
cấu kinh tế trong từng ngành, từng sản phẩm, từng vùng, lãnh thổ theo hớng
vừa tích cực phát huy lợi thế so sánh vừa nâng cao khả năng độc lập tự chủ.
Tạo bớc chuyển biến mạnh mẽ về hiệu quả đầu t, chất lợng phát triển và
sức cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế theo
cam kết đối với khu vực ASEAN và các cam kết song phơng, gồm cả quan hệ th-
ơng mại với Hoa Kỳ, xem đây là một bớc quan trọng để tiến tới hội nhập kinh tế
toàn cầu trong khuôn khổ WTO.
Đẩy nhanh việc qui hoạch, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội; xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa; đặc
biệt đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc, khắc phục tình
Đề án kinh tế chính trị - Phí Thị Hà Lan - Kinh tế đầu t 44A
25