Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kiểm toán số 700

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.7 KB, 48 trang )

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN SỐ 700
H×NH THµNH ý KIÕN KIÓM TO¸N Vµ
B¸O C¸O KIÓM TO¸N VÒ B¸O C¸O TµI CHÝNH
MỤC LỤC
PHẦN I. QUY ĐỊNH CHUNG
1. Các chuẩn mực kiểm toán liên quan đến VSA 700
2. Phạm vi áp dụng
3. Đối tượng áp dụng
4. Mục tiêu
5. Giải thích thuật ngữ chủ yếu
5.1. Thuật ngữ “Báo cáo tài chính cho mục đích chung”
5.2. Thuật ngữ “Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung”
5.3. Thuật ngữ “Ý kiến chấp nhận toàn phần”
5.4. Thuật ngữ “Báo cáo tài chính”
PHẦN II. CÁC YÊU CẦU VÀ HƯỚNG DẪN
1. Hình thành ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính
1.1. Tuân thủ mục tiêu tổng thể
1.2. Đánh giá của kiểm toán viên để hình thành ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính
1.3. Mô tả khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng
2. Hình thức của ý kiến kiểm toán
2.1. Các loại ý kiến kiểm toán
2.1.1. Nội dung yêu cầu
2.1.2. Hướng dẫn và so sánh
2.2. Thảo luận với Ban Giám đốc về các vấn đề ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán
2.2.1. Nội dung yêu cầu
2.2.2. Hướng dẫn áp dụng
3. Báo cáo kiểm toán
3.1. Hình thức của báo cáo kiểm toán
3.1.1. Nội dung yêu cầu
3.1.2. Hướng dẫn áp dụng


3.2. Báo cáo kiểm toán cho các cuộc kiểm toán được thực hiện theo các Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam
3.3. Ý kiến của kiểm toán viên
3.3.1. Nội dung yêu cầu
3.3.2. Hướng dẫn áp dụng
3.4. Báo cáo kiểm toán theo yêu cầu của pháp luật hoặc các quy định
3.4.1. Nội dung yêu cầu
3.4.2. Hướng dẫn áp dụng
3.5. Báo cáo kiểm toán cho các cuộc kiểm toán được tiến hành theo cả Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam và Chuẩn mực kiểm toán khác
3.5.1. Nội dung yêu cầu
3.5.2. Hướng dẫn áp dụng
4. Các thông tin bổ sung được trình bày cùng báo cáo tài chính
4.1. Nội dung yêu cầu
4.2. Hướng dẫn áp dụng
CÁC PHỤ LỤC
Phụ Lục 1 : Ví dụ minh họa về báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính
Phụ Lục 2 : Một số sai sót trong thực tế trình bày báo cáo kiểm toán
Phụ Lục 3 : Một số ví dụ phân biệt giữa ý kiến chấp nhận từng phần (ngoại trừ)
và ý kiến từ chối hoặc ý kiến trái ngược
QUY ĐỊNH CHUNG
1. Các chuẩn mực kiểm toán liên quan đến VSA 700
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 (VSA 700) có mối quan hệ với các chuẩn mực
kiểm toán (ban hành năm 2012) như sau:
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 - “Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và
doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán theo Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam”.
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 210 - “Hợp đồng kiểm toán”.
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 260 - “Trao đổi với Ban quản trị đơn vị được kiểm
toán”

 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 330 - “Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với
rủi ro đã đánh giá”.
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 450 - “Đánh giá những sai sót đã xác định trong
kiểm toán”
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 500 - “Bằng chứng kiểm toán”.
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 540 - “Kiểm toán các ước tính kế toán, bao gồm
các ước tính kế toán về giá trị hợp lý và thuyết minh liên quan”
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 705 - “Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp
nhận toàn phần”
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 706 - “Các đoạn nhấn mạnh và các vấn đề khác
trong báo cáo kiểm toán”
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 720 - “Những thông tin khác trong tài liệu có báo
cáo tài chính đã kiểm toán”
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 800 - “Báo cáo kiểm toán về những công việc
kiểm toán đặc biệt”
 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 805 - “Lưu ý đặc biệt khi kiểm toán báo cáo tài
chính đơn và các thành phần, khoản mục, số dư tài khoản cụ thể trên báo cáo tài
chính”
2. Phạm vi áp dụng
(VSA 700, 01-04)
Chuẩn mực kiểm toán này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán viên và
doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi là “kiểm toán viên”) trong việc đưa ra ý kiến kiểm
toán về báo cáo tài chính. Chuẩn mực này cũng quy định hình thức và nội dung của báo
cáo kiểm toán được phát hành như là kết quả công việc kiểm toán báo cáo tài chính.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705 và 706 quy định và hướng dẫn những ảnh hưởng
đến hình thức và nội dung của báo cáo kiểm toán khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm
toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần hoặc thêm vào một đoạn nhấn mạnh vấn
đề hoặc một đoạn trình bày các vấn đề khác trong báo cáo kiểm toán.
Chuẩn mực này được áp dụng cho cuộc kiểm toán một bộ báo cáo tài chính hoàn chỉnh
cho mục đích chung. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 800 quy định và hướng dẫn

những lưu ý đặc biệt khi kiểm toán báo cáo tài chính cho mục đích đặc biệt. Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 805 quy định và hướng dẫn những lưu ý đặc biệt khi kiểm toán
một báo cáo tài chính đơn lẻ hoặc kiểm toán các yếu tố, tài khoản hoặc khoản mục cụ thể
trong báo cáo tài chính.
Chuẩn mực này tăng cường sự nhất quán trong báo cáo kiểm toán. Khi cuộc kiểm toán
được tiến hành theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, sự nhất quán trong báo cáo
kiểm toán sẽ nâng cao độ tin cậy trong thị trường vốn Việt Nam thông qua việc đảm bảo
các cuộc kiểm toán dễ dàng được xã hội thừa nhận là đã được tiến hành theo các chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam. Điều này cũng giúp tăng cường sự hiểu biết của người sử dụng
báo cáo tài chính và xác định các tình huống bất thường xảy ra.
Phạm vi áp dụng VSA 700 và các vấn đề liên quan đến báo cáo kiểm toán được tổng hợp
trong bảng sau:
Loại ý kiến
Bộ báo cáo tài chính đầy đủ Báo cáo tài chính đơn
BCTC cho mục
đích chung
BCTC cho mục
đích đặc biệt
BCTC cho mục
đích chung
BCTC cho mục
đích đặc biệt
Chấp nhận toàn
phần
VSA 700
VSA 700,
VSA 800
VSA 700,
VSA 805
VSA 700, VSA

800, VSA 805
Không phải là ý
kiến chấp nhận
toàn phần
VSA 705
VSA 705,
VSA 800
VSA 705,
VSA 805
VSA 705, VSA
800, VSA 805
Bao gồm Đoạn
nhấn mạnh
VSA 706
VSA 706,
VSA 800
VSA 706,
VSA 805
VSA 706, VSA
800, VSA 805
3. Đối tượng áp dụng
(VSA 700, 05)
Kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán phải tuân thủ những quy định của Chuẩn mực
này trong quá trình kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán để công bố kết quả kiểm toán báo
cáo tài chính.
Ví dụ: Khác với các nước là cá nhân được hành nghề kiểm toán nên chuẩn mực kiểm toán chỉ
quy định cho kiểm toán viên, theo Luật kiểm toán độc lập tại Việt Nam, kiểm toán viên chỉ
được hành nghề trong doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm
toán, do đó từng kiểm toán viên và cả doanh nghiệp kiểm toán đều phải tuân thủ các quy
định và hướng dẫn tại chuẩn mực kiểm toán VSA 700. Tuy nhiên, trong Chuẩn mực kiểm

toán Việt Nam, khi nói “kiểm toán viên” thì đã bao hàm “doanh nghiệp kiểm toán” trong
đó.
Đơn vị được kiểm toán (khách hàng) và các bên sử dụng kết quả kiểm toán cần phải có
những hiểu biết cần thiết về nguyên tắc và thủ tục lập báo cáo kiểm toán quy định trong
Chuẩn mực này để sử dụng đúng đắn kết quả kiểm toán.
Chất lượng của cuộc kiểm toán không chỉ phụ thuộc vào kiểm toán viên và doanh nghiệp
kiểm toán mà còn phụ thuộc vào việc cung cấp tài liệu, giải trình và cùng xử lý các sai sót
do kiểm toán viên phát hiện của đơn vị được kiểm toán. Do đó, đơn vị được kiểm toán
cần phải có những hiểu biết nhất định về chuẩn mực kiểm toán để phối hợp thực hiện
kiểm toán.
Các bên sử dụng kết quả kiểm toán (như cơ quan quản lý nhà nước; cơ quan thanh tra,
kiểm tra; tổ chức tín dụng; các quĩ đầu tư; nhà đầu tư; đơn vị, tổ chức có giao dịch kinh tế;
người lao động trong doanh nghiệp ) cũng phải có những hiểu biết nhất định khi sử dụng
báo cáo tài chính đã được kiểm toán cũng như sử dụng báo cáo kiểm toán và khi làm việc
với kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán.
4. Mục tiêu
(VSA 700, 06)
Mục tiêu của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán là:
a Đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính trên cơ sở đánh giá các kết luận rút ra từ bằng
chứng kiểm toán thu thập được;
b Trình bày ý kiến kiểm toán một cách rõ ràng bằng văn bản, trong đó nêu rõ cơ sở của ý kiến đó.
5. Giải thích thuật ngữ chủ yếu
(VSA 700, 07)
1 Thuật ngữ “Báo cáo tài chính cho mục đích chung”
Báo cáo tài chính cho mục đích chung: Là báo cáo tài chính được lập và trình bày theo
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung.
Báo cáo tài chính cho mục đích chung đáp ứng nhu cầu của số đông người sử dụng báo
cáo tài chính.
Ví dụ
 Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp niêm yết công bố phục vụ cho số đông người sử dụng là

một báo cáo tài chính cho mục đích chung.
 Báo cáo tài chính hàng năm của các doanh nghiệp, đơn vị nộp cho cơ quan thống kê phục vụ cho việc
tổng hợp thông tin kinh tế tài chính là báo cáo tài chính cho mục đích chung.
2 Thuật ngữ “Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung”
Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung: Là khuôn khổ
về lập và trình bày báo cáo tài chính được xây dựng nhằm thỏa mãn nhu cầu chung về
thông tin tài chính của số đông người sử dụng.
Ví dụ:
 Chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam
 Chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế
 Chuẩn mực kế toán công quốc tế
Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung có thể là khuôn khổ
về trình bày hợp lý hoặc khuôn khổ về tuân thủ.
Thuật ngữ “khuôn khổ về trình bày hợp lý” được sử dụng để chỉ khuôn khổ về lập và trình
bày báo cáo tài chính mà trước hết yêu cầu phải tuân thủ các quy định của khuôn khổ đó,
và:
i Thừa nhận rõ ràng hoặc ngầm ẩn rằng, để đạt được sự trình bày hợp lý của báo cáo tài
chính, Ban Giám đốc có thể phải thuyết minh nhiều hơn so với các quy định cụ
thể của khuôn khổ đó, hoặc;
ii Thừa nhận rõ ràng rằng Ban Giám đốc có thể thực hiện khác với một yêu cầu
của khuôn khổ để đạt được mục đích trình bày báo cáo tài chính một cách hợp
lý. Những trường hợp như vậy được coi là cần thiết chỉ trong một số tình huống
rất hãn hữu.
Thuật ngữ “khuôn khổ về tuân thủ” được sử dụng để chỉ khuôn khổ về lập và trình bày
báo cáo tài chính mà trước hết yêu cầu phải tuân thủ các quy định của khuôn khổ đó
nhưng không bao gồm việc thừa nhận các điểm (i) hoặc (ii) trên đây (xem đoạn 13(a)
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200).
Ví dụ:
 Ban Giám đốc đơn vị áp dụng hệ thống chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam trong việc lập báo cáo tài
chính. Ban Giám đốc thực hiện tuân thủ về cơ bản toàn bộ các quy định trong khuôn khổ lập và trình bày

báo cáo tài chính này nhưng có thể bổ sung thêm các thuyết minh hoặc thực hiện khác một yêu cầu nào
đó của khuôn khổ này nhằm đạt được sự trình bày hợp lý. Như vậy, Ban Giám đốc đã áp dụng “khuôn
khổ về trình bày hợp lý”.
 Ban quản lý dự án của Ngân hàng thế giới (WB) áp dụng các quy định kế toán của WB trong việc lập và
trình bày báo cáo tài chính, đã tuân thủ toàn bộ các quy định, không bổ sung bất kỳ sự thay đổi nào. Như
vậy Ban quản lý dự án đã áp dụng “khuôn khổ về tuân thủ”.
3 Thuật ngữ “Ý kiến chấp nhận toàn phần”
Ý kiến chấp nhận toàn phần: Là ý kiến được đưa ra khi kiểm toán viên kết luận rằng báo
cáo tài chính đã được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và
trình bày báo cáo tài chính được áp dụng.
Đoạn 35-36 đề cập đến các mẫu câu được sử dụng để trình bày ý kiến kiểm toán trong
trường hợp đơn vị được kiểm toán áp dụng khuôn khổ về trình bày hợp lý và khuôn khổ
về tuân thủ.
4 Thuật ngữ “Báo cáo tài chính”
Thuật ngữ “Báo cáo tài chính” được sử dụng trong chuẩn mực này có nghĩa là “một bộ
báo cáo tài chính hoàn chỉnh cho mục đích chung, bao gồm các thuyết minh có liên
quan.” Các thuyết minh có liên quan thường bao gồm phần tóm tắt các chính sách kế
toán quan trọng và các thuyết minh khác. Các yêu cầu trong khuôn khổ về lập và trình bày
báo cáo tài chính được áp dụng quyết định hình thức và nội dung của các báo cáo tài
chính, và các bộ phận cấu thành một bộ báo cáo tài chính hoàn chỉnh.
Thuật ngữ “Báo cáo tài chính” có nghĩa là một bộ báo cáo tài chính gồm:
 Bảng cân đối kế toán,
 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, và
 Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Trên thực tế, báo cáo tài chính còn có thể bao gồm “Báo cáo của Ban Giám đốc”, trong đó
Ban Giám đốc doanh nghiệp khẳng định BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình
tài chính và kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán của đơn vị. Đối với các ngành và lĩnh vực
đặc thù, như ngân hàng, tổ chức tài chính, các quỹ đầu tư…báo cáo tài chính còn có thể
có “Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu”, phản ánh tình hình và kết quả tăng, giảm các

nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ báo cáo và số dư vốn chủ sở hữu cuối kỳ báo cáo.
Báo cáo tài chính là một sự miêu tả thông tin tài chính quá khứ được sắp xếp một cách
khoa học. Báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về các nguồn lực kinh
tế hoặc các nghĩa vụ tại một thời điểm hoặc sự thay đổi của các nguồn lực kinh tế và các
nghĩa vụ này trong một giai đoạn nhất định.
5 Thuật ngữ “Chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế”
Thuật ngữ “Chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế” trong chuẩn mực này
được hiểu là Chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) do Ủy ban
chuẩn mực kiểm toán quốc tế ban hành, và “Chuẩn mực kế toán công quốc tế” là chuẩn
mực kế toán công quốc tế (IPSAS) do Ủy ban Chuẩn mực Kế toán Công Quốc tế ban
hành.
CÁC YÊU CẦU VÀ HƯỚNG DẪN
Kết cấu của Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 (“VSA 700”) - “Hình thành ý kiến kiểm toán
và báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính” bao gồm phần Nội dung yêu cầu và phần Hướng
dẫn áp dụng. Tài liệu hướng dẫn này trình bày chung hai phần nội dung và hướng dẫn áp dụng
theo từng mục phù hợp.
Khi nghiên cứu và thực hiện chuẩn mực kiểm toán này cần tham khảo các quy định và hướng
dẫn của Chuẩn mực kiểm toán số 200 và các chuẩn mực kiểm toán liên quan nêu tại Mục 1
Phần I.
1 Hình thành ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính
(VSA 700, 10-15)
1 Tuân thủ mục tiêu tổng thể
Đoạn 10, VSA 700 quy định
Kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến kiểm toán về việc liệu báo cáo tài chính có được lập
phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, trên các khía
cạnh trọng yếu hay không.
Đoạn 11 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 quy định về mục tiêu tổng thể của kiểm
toán viên và doanh nghiệp kiểm toán:
(a) Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện
tổng thể, có còn chứa đựng những sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn

hay không, từ đó giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài
chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với quy định về lập
và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không;
(b) Lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính và công bố thông tin theo quy định
của chuẩn mực kiểm toán, phù hợp với các phát hiện của kiểm toán viên.
Đoạn 35-36 đề cập đến các mẫu câu được sử dụng để trình bày ý kiến kiểm toán trong
trường hợp đơn vị được kiểm toán áp dụng khuôn khổ về trình bày hợp lý và khuôn khổ
về tuân thủ). (VSA 700, 10).
2 Đánh giá của kiểm toán viên để hình thành ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính
(VSA 700, 11-14, A1-A4)
1 Nội dung yêu cầu
Đoạn 11, VSA 700 quy định
Để đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải kết luận liệu kiểm
toán viên đã đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc báo cáo tài chính, xét trên phương
diện tổng thể, có còn chứa đựng những sai sót trọng yếu, do gian lận hoặc nhầm lẫn
hay không. Kết luận đó cần tính đến:
a Kết luận của kiểm toán viên về việc liệu đã thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích
hợp hay chưa (theo quy định tại đoạn 26 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330);
b Kết luận của kiểm toán viên về việc liệu những sai sót chưa được điều chỉnh, khi xét riêng lẻ
hoặc tổng thể, có trọng yếu hay không (theo quy định tại đoạn 11 Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 450);
c Những đánh giá được nêu trong các đoạn 12-15.
Đoạn 12-13, VSA 700 quy định
Kiểm toán viên phải đánh giá liệu báo cáo tài chính có được lập phù hợp với khuôn khổ
về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay
không. Khi đánh giá, kiểm toán viên đồng thời phải xem xét các khía cạnh định tính của
các công việc kế toán của đơn vị được kiểm toán, kể cả các dấu hiệu về sự thiên lệch
trong các xét đoán của Ban Giám đốc (xem hướng dẫn tại đoạn A1-A3 Chuẩn mực
này).
Đặc biệt, khi xem xét các yêu cầu của khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính

được áp dụng, kiểm toán viên phải đánh giá:
a Báo cáo tài chính có thuyết minh đầy đủ các chính sách kế toán quan trọng được lựa chọn và
áp dụng hay không;
b Các chính sách kế toán được lựa chọn và áp dụng có nhất quán với khuôn khổ về lập và trình
bày báo cáo tài chính được áp dụng và có thích hợp hay không;
c Các ước tính kế toán do Ban Giám đốc đưa ra có hợp lý hay không;
d Các thông tin được trình bày trong báo cáo tài chính có phù hợp, đáng tin cậy, dễ hiểu và có
thể so sánh được hay không;
e Các báo cáo tài chính có cung cấp đầy đủ các thuyết minh giúp người sử dụng báo cáo tài
chính hiểu được ảnh hưởng của các giao dịch và sự kiện trọng yếu đối với các thông tin được
trình bày trong báo cáo tài chính hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A4 Chuẩn mực này);
f Các thuật ngữ được sử dụng trong báo cáo tài chính (kể cả tiêu đề của từng báo cáo tài chính)
có thích hợp hay không.
Đoạn 14, VSA 700 quy định
Khi báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý, việc đánh giá theo
yêu cầu trong các đoạn 12-13 còn phải bao gồm đánh giá liệu báo cáo tài chính có
được trình bày hợp lý hay không. Kiểm toán viên phải đánh giá việc này bằng cách xem
xét:
a Cách trình bày, cấu trúc và nội dung tổng thể của báo cáo tài chính;
b Liệu các báo cáo tài chính, bao gồm các thuyết minh liên quan, có phản ánh các giao dịch và
sự kiện chủ yếu để đạt được mục tiêu trình bày hợp lý hay không.
2 Hướng dẫn áp dụng
Đoạn A1-A3, VSA 700 hướng dẫn
Ban Giám đốc đưa ra một số xét đoán về các số liệu và thuyết minh trong báo cáo tài
chính.
Phụ lục 02 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 260 có đề cập đến các khía cạnh định
tính trong công việc kế toán của đơn vị được kiểm toán. Khi xem xét các khía cạnh định
tính trong công việc kế toán của đơn vị được kiểm toán, kiểm toán viên có thể nhận biết
được sự thiên lệch trong các xét đoán của Ban Giám đốc. Kiểm toán viên có thể kết
luận rằng tác động cộng hưởng của sự thiên lệch cùng với ảnh hưởng của các sai sót

chưa được điều chỉnh làm cho báo cáo tài chính xét trên phương diện tổng thể có sai
sót trọng yếu.
Các khía cạnh định tính trong kế toán theo Phụ lục 02, VSA 260 bao gồm:
- Các chính sách kế toán: Ban Giám đốc có thể lựa chọn các chính sách kế toán không
nhất quán hoặc không phù hợp nhằm tác động đến lợi nhuận, ví dụ chính sách khấu hao
nhanh làm giảm lợi nhuận; trích lập dự phòng để giảm lợi nhuận trong các năm có tình
hình kinh doanh tốt để phòng ngừa cho những năm khó khăn sắp tới.
- Các ước tính kế toán: Ban Giám đốc có thể giảm tỷ lệ khấu hao nhằm tăng lợi nhuận.
- Công bố thông tin trên báo cáo tài chính: Ban Giám đốc có thể cố tình tác động đến
các thông tin nhạy cảm như các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán, các giao
dịch và số dư với bên liên quan.
- Các vấn đề liên quan khác: ví dụ các giao dịch bất thường, các giao dịch bán tài sản
nhằm thu hẹp sản xuất.
Các dấu hiệu cho thấy sự thiên lệch có thể ảnh hưởng đến đánh giá của kiểm toán viên
về việc liệu báo cáo tài chính xét trên phương diện tổng thể có sai sót trọng yếu hay
không, bao gồm:
1 Việc điều chỉnh có chọn lọc các sai sót đã trao đổi với Ban Giám đốc trong quá trình kiểm toán
Ví dụ: Chỉ điều chỉnh các sai sót làm tăng lợi nhuận báo cáo mà không điều chỉnh các
sai sót làm giảm lợi nhuận báo cáo.
2 Sự thiên lệch của Ban Giám đốc khi đưa ra các ước tính kế toán.
Ví dụ: Nếu Ban Giám đốc có mong muốn tăng lợi nhuận, Ban Giám đốc có thể đưa ra
các ước tính làm giảm chi phí khấu hao, giảm trích lập dự phòng so với thực tế.
Đoạn 21 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 540 đề cập đến sự thiên lệch của Ban
Giám đốc khi đưa ra các ước tính kế toán. Các dấu hiệu cho thấy có thể có sự thiên
lệch của Ban Giám đốc không tạo thành sai sót khi xem xét tính hợp lý của các ước tính
kế toán riêng lẻ. Tuy nhiên, các dấu hiệu đó có thể ảnh hưởng đến đánh giá của kiểm
toán viên về việc liệu báo cáo tài chính xét trên phương diện tổng thể có còn sai sót
trọng yếu hay không.
Ví dụ: Nếu Ban Giám đốc có mong muốn tăng lợi nhuận, Ban Giám đốc có thể đưa ra các
ước tính làm giảm chi phí khấu hao, giảm trích lập dự phòng so với thực tế. Các ước

tính này có thể không khiến cho kiểm toán viên đưa ra bút toán điều chỉnh trực tiếp. tuy
nhiên, nó có thể được tập hợp trong đánh giá tổng thể của kiểm toán viên về báo cáo
tài chính.
Đoạn A4, VSA 700 hướng dẫn
Thuyết minh về ảnh hưởng của các giao dịch và sự kiện trọng yếu đối với các
thông tin được trình bày trong báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính được lập và trình bày theo khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính cho mục đích chung thường trình bày về tình hình tài chính, kết quả hoạt động
kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ của đơn vị. Trong trường hợp đó, kiểm toán
viên đánh giá liệu báo cáo tài chính có cung cấp đầy đủ các thuyết minh giúp người sử
dụng báo cáo tài chính hiểu được ảnh hưởng của các giao dịch và sự kiện trọng yếu đối
với tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ của
đơn vị hay không.
Ví dụ: Một số thông tin trọng yếu cần thuyết minh:
 Giao dịch và số dư với các bên liên quan
 Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán không cần điều chỉnh
 Các thông tin về báo cáo bộ phận như theo dòng sản phẩm dịch vụ, theo vùng địa lý
 Thuyết minh về các khoản phải thu khó đòi, không có khả năng thu hồi.
3 Mô tả khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng
1 Nội dung yêu cầu
Đoạn 15, VSA 700 quy định
Kiểm toán viên phải đánh giá xem liệu báo cáo tài chính có tham chiếu đến hay mô tả
đầy đủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không.
2 Hướng dẫn áp dụng
Đoạn A5-A7, VSA 700 hướng dẫn
Như đã giải thích trong đoạn A2-A3 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200, khi lập và
trình bày báo cáo tài chính, Ban Giám đốc và Ban quản trị (trong phạm vi phù hợp) cần
đưa vào báo cáo tài chính một đoạn mô tả đầy đủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo
tài chính được áp dụng. Đoạn mô tả này rất quan trọng vì nó giúp người sử dụng báo
cáo tài chính hiểu được khuôn khổ về lập báo cáo tài chính đã được áp dụng. (VSA

700, A5)
Trong thuyết minh báo cáo tài chính, Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán đưa ra tuyên
bố tuân thủ khuôn khổ về lập báo cáo tài chính đã được áp dụng.
Ví dụ:
 Khi áp dụng chế độ kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, Ban Giám
đốc đơn vị có thể tuyên bố trong thuyết minh về chế độ kế toán áp dụng là “Chế độ
kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14 tháng
09 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính”.
 Hoặc, Ban Giám đốc của đơn vị được kiểm toán tuyên bố trong thuyết minh báo cáo
tài chính về việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành.
Đoạn mô tả rằng báo cáo tài chính được lập theo một khuôn khổ nhất định về lập và
trình bày báo cáo tài chính được áp dụng chỉ thích hợp khi báo cáo tài chính tuân thủ tất
cả các yêu cầu đang có hiệu lực của quy định đó trong kỳ kế toán mà báo cáo tài chính
phản ánh. (VSA 700, A6)
Nếu đoạn mô tả khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng có chứa
từ ngữ không cụ thể hoặc có hạn chế (ví dụ, “báo cáo tài chính tuân thủ phần lớn các
Chuẩn mực kế toán Việt Nam”) thì đoạn mô tả đó không được coi là mô tả đầy đủ về
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính vì có thể làm cho người sử dụng báo
cáo tài chính hiểu sai. (VSA 700, A7)
Trong trường hợp không tuân thủ hoặc chỉ tuân thủ một phần khuôn khổ lập báo cáo tài
chính nào đó, thì Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán không được tuyên bố tuân thủ
khuôn khổ lập báo cáo tài chính đó. Trách nhiệm của kiểm toán viên là phải xác định rõ
khuôn khổ lập báo cáo tài chính mà Ban Giám đốc áp dụng từ thủ tục xác định tiền đề
của cuộc kiểm toán theo yêu cầu của VSA 210 - “Hợp đồng kiểm toán” và liệu Ban Giám
đốc của đơn vị được kiểm toán có tuyên bố áp dụng khuôn khổ này một cách phù hợp
hay không.
Tham chiếu đến nhiều hơn một khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính
Đoạn A8-A10, VSA 700 hướng dẫn
Trong một số trường hợp, báo cáo tài chính có thể được lập theo hai khuôn khổ về lập
và trình bày báo cáo tài chính (ví dụ, Chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam và Chuẩn

mực báo cáo tài chính quốc tế). Điều này có thể do Ban Giám đốc bắt buộc phải hoặc
lựa chọn lập báo cáo tài chính theo cả hai quy định mà cả hai quy định đó đều là khuôn
khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng. Đoạn mô tả đó chỉ phù hợp khi
báo cáo tài chính tuân thủ riêng lẻ từng quy định. Để được coi là tuân thủ cả hai quy
định, báo cáo tài chính cần phải đồng thời tuân thủ cả hai quy định mà không cần đối
chiếu các báo cáo lập theo hai quy định khác nhau đó. Trên thực tế, việc tuân thủ đồng
thời cả hai quy định là điều khó có thể thực hiện, trừ khi Việt Nam đã áp dụng khuôn khổ
về lập và trình bày báo cáo tài chính thứ hai (ví dụ như Chuẩn mực báo cáo tài chính
quốc tế) như là quy định quốc gia về lập và trình bày báo cáo tài chính hoặc đã loại bỏ
tất cả các rào cản nhằm tuân thủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính đó.
(VSA 700, A8)
Ví dụ:
 Báo cáo tài chính được lập phù hợp với hai khuôn khổ là chuẩn mực và chế độ kế
toán Việt Nam và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế.
 Báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù
hợp với các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam và các quy
định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính tại Việt Nam và
phù hợp với các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế”.
Khi báo cáo tài chính của một đơn vị được lập theo một khuôn khổ về lập và trình bày
báo cáo tài chính (ví dụ chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam - VAS) có thuyết minh
hoặc thông tin bổ sung để đối chiếu các thông tin trong báo cáo tài chính này với các
thông tin của cùng đơn vị đó nhưng được lập theo một khuôn khổ về lập và trình bày
báo cáo tài chính khác (ví dụ chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế -
IFRS), thì báo cáo tài chính này (VASs) không được coi là lập theo khuôn khổ khác đó
(IFRS). Lý do là báo cáo tài chính này (VASs) không chứa đựng tất cả các thông tin mà
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính khác đó (IFRS) yêu cầu. (VSA 700, A9)
Tuy nhiên, báo cáo tài chính có thể được lập theo một khuôn khổ về lập và trình bày báo
cáo tài chính được áp dụng và trong thuyết minh báo cáo tài chính có thêm mô tả về
mức độ tuân thủ của báo cáo đối với một khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính khác (ví dụ, báo cáo tài chính được lập theo Chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam

có mô tả mức độ tuân thủ Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế). Đoạn mô tả đó là
thông tin tài chính bổ sung và như đã nêu trong đoạn 47, được xem là một phần không
thể tách rời của báo cáo tài chính và cũng thuộc phạm vi của ý kiến kiểm toán. (VSA
700, A10)
Ví dụ: Tiếp theo ví dụ về Báo cáo tài chính được lập phù hợp với hai khuôn khổ là chuẩn mực
và chế độ kế toán Việt Nam và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế.
 Báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù
hợp với các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam và các quy
định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính tại Việt Nam.
 Tuy nhiên, báo cáo tài chính này chưa áp dụng phương pháp kế toán giá trị hợp lý
khi đánh giá và trình bài tài sản tài chính của công ty cho năm tài chính kết thúc ngày
31/12/2010.
6. Hình thức của ý kiến kiểm toán
(VSA 700, 16-19, A11-A12)
1 Các loại ý kiến kiểm toán
1 Nội dung yêu cầu
Đoạn 16-17, VSA 700 quy định
Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra khi kiểm toán viên kết luận rằng báo cáo tài
chính được lập, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp
dụng, trên các khía cạnh trọng yếu. (VSA 700, 16)
Kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong
báo cáo kiểm toán theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705 trong các trường hợp:
(VSA 700, 17)
a Dựa trên bằng chứng kiểm toán thu thập được, kiểm toán viên kết luận rằng báo
cáo tài chính xét trên phương diện tổng thể còn chứa đựng sai sót trọng yếu; hoặc
b Kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để đưa
ra kết luận rằng báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể không còn chứa
đựng sai sót trọng yếu.
2 Hướng dẫn và so sánh
a Ý kiến chấp nhận toàn phần và các loại ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn

phần
VSA 700 - “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính” ban hành năm 1999 quy định 04
loại ý kiến kiểm toán: (Đoạn 34, VSA 700 ban hành năm 1999)
- Ý kiến chấp nhận toàn phần
- Ý kiến chấp nhận từng phần (hoặc ý kiến ngoại trừ)
- Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến)
- Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược)
VSA 700 mới phần loại ý kiến kiểm toán thành 02 loại:
- Ý kiến chấp nhận toàn phần
- Ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (Ý kiến sửa đổi)
Và, VSA 700 mới chỉ quy định và hướng dẫn “Ý kiến chấp nhận toàn phần”. Các ý kiến
không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần được quy định và hướng dẫn trong một
chuẩn mực kiểm toán khác, VSA 705 - “Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp
nhận toàn phần”.
Đoạn A1, VSA 705 hướng dẫn các loại ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn
phần, đánh giá của kiểm toán viên về bản chất của vấn đề dẫn tới việc kiểm toán viên
phải đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần, ảnh hưởng lan rộng hoặc
ảnh hưởng nếu có của vấn đề lên báo cáo tài chính cũng như tác động của vấn đề đến
loại ý kiến kiểm toán được đưa ra.
Tính chất của vấn đề dẫn tới ý
kiến sửa đổi (không phải là ý kiến
chấp nhận toàn phần)
Đánh giá của kiểm toán viên về ảnh hưởng lan
rộng hoặc ảnh hưởng nếu có lên báo cáo tài
chính
Trọng yếu nhưng không
có ảnh hưởng lan rộng
Trọng yếu và có ảnh
hưởng lan rộng
Báo cáo tài chính có sai sót trọng yếu Ý kiến chấp nhận

từng phần
Ý kiến trái ngược
Không có khả năng thu thập được đầy
đủ các bằng chứng kiểm toán thích
hợp
Ý kiến chấp nhận
từng phần
Ý kiến từ chối
b Ảnh hưởng lan rộng
Đoạn 5a, VSA 705 định nghĩa:
Ảnh hưởng lan rộng - một thuật ngữ được sử dụng, trong điều kiện có sai sót, mô tả
ảnh hưởng của sai sót đến báo cáo tài chính hoặc những ảnh hưởng có thể có của sai
sót (nếu có) đến báo cáo tài chính do sai sót chưa/không được phát hiện bởi kiểm toán
viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Ảnh hưởng lan
rộng đến báo cáo tài chính là những ảnh hưởng, mà theo đánh giá của kiểm toán viên:
i không chỉ giới hạn đến một số yếu tố, một số tài khoản hoặc khoản mục cụ thể của báo cáo tài
chính;
ii nếu có giới hạn, các ảnh hưởng này đại diện hoặc có thể đại diện một phần quan trọng của báo
cáo tài chính; hoặc
iii liên quan đến các công bố, các ảnh hưởng này là cơ sở cho việc hiểu báo cáo tài chính của
người sử dụng báo cáo.
Thuật ngữ “Ảnh hưởng lan rộng” giúp kiểm toán viên phân biệt giữa “Ý kiến chấp nhận
từng phần” với “Ý kiến từ chối” và “Ý kiến trái ngược”.
Trong quá trình lấy ý kiến soạn thảo chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 700 (ISA 700),
Ủy ban chuẩn mực Kiểm toán và Đảm bảo Quốc tế (IAASB) đã nhận được 26 ý kiến
đóng góp, rất nhiều trong số các ý kiến đóng góp đó đã e ngại về định nghĩa “ảnh
hưởng lan rộng”. Các ý kiến này cho rằng định nghĩa này tương đối phức tạp và có thể
gây ra tranh cãi nội bộ khi quyết định đưa ra ý kiến kiểm toán. Họ cũng cho rằng “Ảnh
hưởng lan rộng” cần thiết phải xác định và giới hạn rõ cho các yếu tố, tài khoản hoặc
khoản mục cụ thể trên báo cáo tài chính.

Trong thực tế tại Việt Nam, việc phân định danh giới giữa “Ý kiến chấp nhận từng
phần” với “Ý kiến từ chối” và “Ý kiến trái ngược” cũng không dễ dàng. Có nhiều trường
hợp kiểm toán viên bị giới hạn phạm vi đối với gần như toàn bộ các khoản mục tài sản
trên bảng cân đối kế toán nhưng vẫn đưa ra “ý kiến chấp nhận từng phần” thay vì “Ý
kiến từ chối”.
Đồng thời, Điều 48, Luật Kiểm toán độc lập (Luật KTĐL) quy định “Bộ Tài chính quy
định nội dung không được ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán phù hợp với chuẩn mực
kiểm toán.” Điều này cũng sẽ tác động đến việc lựa chọn và đưa ra ý kiến của kiểm
toán viên trong báo cáo kiểm toán.
Ví dụ trong Báo cáo kiểm tra chất lượng năm 2010 của VACPA đã đưa ra trường hợp ý
kiến kiểm toán ngoại trừ (ý kiến chấp nhận từng phần) số dư hàng tồn kho của một
doanh nghiệp đóng tàu, trong đó giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên báo cáo tài chính (bao
gồm tài sản cố định, vật tư, hàng hóa, sản phẩm dở dang ) chiếm đến 70% tổng giá trị
tài sản có của doanh nghiệp). Trường hợp này ý kiến ngoại trừ là không phù hợp mà
chắc chắn phải là ý kiến từ chối hoặc ý kiến không chấp nhận.
Xem thêm một số ví dụ minh họa trong Phụ lục 5 tài liệu hướng dẫn này.
c “Ý kiến từ chối”
Trong quá trình lấy ý kiến soạn thảo ISA 700 và trong quá trình lấy ý kiến thảo luận về
dự thảo VSA 700, ban soạn thảo nhận được một số ý kiến cho rằng “Từ chối đưa ra ý
kiến” không phải là một loại ý kiến kiểm toán bởi vì kiểm toán viên không thể đưa ra ý
kiến của mình về báo cáo tài chính do phạm vi kiểm toán bị hạn chế.
Các ý kiến này nhấn mạnh rằng phạm vi kiểm toán bị hạn chế đến mức kiểm toán viên
không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, không thể hiện đầy
đủ các ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Có nghĩa là kiểm toán viên không thể đưa ra
ý kiến của mình về liệu báo cáo tài chính có chứa đựng sai sót trọng yếu.
Một báo cáo kiểm toán từ chối đưa ra ý kiến cũng có nghĩa rằng báo cáo tài chính mà
báo cáo kiểm toán từ chối đưa ra ý kiến đó đã được kiểm toán, nhưng cũng có nghĩa là
chưa được kiểm toán, vì nếu được kiểm toán lại và không bị giới hạn thì KTV cũng có
thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến ngoại trừ hoặc ý kiến không chấp nhận
(ý kiến trái ngược).

d Phân biệt giữa “Ý kiến từ chối” và “Ý kiến trái ngược”
Phân biệt giữa “Ý kiến từ chối” và “Ý kiến trái ngược” dựa trên tính chất của vấn đề dẫn
tới các ý kiến này.
Khi báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu ảnh hưởng rộng tới toàn bộ báo cáo
tài chính, kiểm toán viên phải đưa “Ý kiến trái ngược”.
Ví dụ: Đối với khuôn khổ trình bày hợp lý
 “Báo cáo tài chính kèm theo đã phản ánh không trung thực và hợp lý, xét trên các
khía cạnh trọng yếu, ”
Khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn đến mức kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ
bằng chứng thích hợp, kiểm toán viên cần “từ chối đưa ra ý kiến”.
Ví dụ: Đối với khuôn khổ trình bày hợp lý
 “Với những giới hạn nêu trên có thể ảnh hưởng trọng yếu và sâu rộng đối với báo
cáo tài chính cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2010, chúng tôi không đủ cơ sở
để đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính của công ty ”
Một số trường hợp báo cáo kiểm toán phát hành cho các doanh nghiệp niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam, kiểm toán viên đã từ chối đưa ra ý kiến trong khi
đưa ra các sai sót trọng yếu mà doanh nghiệp không thực hiện điều chỉnh trên báo cáo
tài chính.
Ví dụ: Đối với khuôn khổ trình bày hợp lý
 Trong báo cáo kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết P, kiểm toán viên đã nêu ra vấn
đề ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên là doanh nghiệp P đã không thực hiện
trích lập dự phòng các khoản đầu tư cổ phiếu và dự phòng phải thu với các bằng
chứng rõ ràng về sự sụt giảm giá cổ phiếu và khách hàng với nợ khó đòi đang vướng
vào rắc rối pháp lý và không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên, kiểm toán viên đã từ chối
đưa ra ý kiến thay vì đưa ra ý kiến trái ngược.
e “Đoạn nhấn mạnh” trong báo cáo kiểm toán
“Ý kiến chấp nhận toàn phần” trong VSA 700 (ban hành năm 1999, đoạn 37) có thể bao
gồm một đoạn nhận xét (hoặc nhấn mạnh) để làm rõ một số yếu tố đã được trình bày
trên báo cáo tài chính. VSA 700 (ban hành năm 1999) không nêu rõ đoạn nhấn mạnh
có bao gồm trong các ý kiến không chấp nhận toàn phần.

Tuy nhiên, VSA 700 mới không quy định và hướng dẫn về “Đoạn nhấn mạnh” trong báo
cáo kiểm toán. “Đoạn nhấn mạnh” được quy định và hướng dẫn trong một chuẩn mực
kiểm toán mới, VSA 706 - “Đoạn nhấn mạnh hoặc đoạn khác trong báo cáo kiểm toán”.
VSA 706 quy định và hướng dẫn rằng “đoạn nhấn mạnh” có thể bao gồm trong báo cáo
kiểm toán cho dù ý kiến kiểm toán là “Ý kiến chấp nhận toàn phần” hoặc “Ý kiến không
chấp nhận toàn phần”. Và “đoạn nhấn mạnh” không ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán
trong báo cáo kiểm toán.
Ví dụ: Ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh
“Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên
các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng
như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc
tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và
các quy định pháp lý có liên quan.
Ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn
lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến điểm X trong phần thuyết minh báo cáo tài
chính: Công ty ABC đã đưa vào sử dụng công trình xây dựng có giá trị XX VNĐ, 3
tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính, nhưng chưa ghi tăng tài sản cố định,
chưa tính khấu hao và cũng chưa lập dự phòng. Điều này cần được thuyết minh rõ
ràng trong báo cáo tài chính ”.
2 Thảo luận với Ban Giám đốc về các vấn đề ảnh hưởng tới ý kiến kiểm toán
1 Nội dung yêu cầu
Đoạn 18-19, VSA 700 quy định
Nếu báo cáo tài chính được lập theo các yêu cầu của khuôn khổ về trình bày hợp lý
không đạt được mục tiêu trình bày hợp lý, kiểm toán viên phải thảo luận vấn đề này với
Ban Giám đốc và, dựa vào các yêu cầu của khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính được áp dụng và cách thức vấn đề được giải quyết, kiểm toán viên phải quyết
định xem liệu có cần đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo
cáo kiểm toán theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705 hay không. (VSA 700, 18)
Khi báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về tuân thủ, kiểm toán viên không cần
phải đánh giá liệu báo cáo tài chính có được trình bày hợp lý hay không. Tuy nhiên,

nếu trong những trường hợp hãn hữu, kiểm toán viên kết luận rằng các báo cáo tài
chính đó gây hiểu sai, kiểm toán viên phải thảo luận vấn đề đó với Ban Giám đốc và,
dựa vào cách thức vấn đề được giải quyết, kiểm toán viên phải quyết định liệu có cần
phải đề cập đến vấn đề này trong báo cáo kiểm toán hay không, và nếu có thì sẽ đề
cập như thế nào. (VSA 700, 19)
2 Hướng dẫn áp dụng
Đoạn A11, VSA 700 hướng dẫn
Có những trường hợp báo cáo tài chính dù đã được lập theo các yêu cầu của khuôn
khổ về trình bày hợp lý nhưng vẫn không đạt được mục tiêu trình bày hợp lý. Trong
trường hợp đó, Ban Giám đốc có thể thuyết minh thêm trong báo cáo tài chính những
nội dung mà khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính không yêu cầu, hoặc trong
một số trường hợp rất hãn hữu, Ban Giám đốc có thể không tuân thủ một yêu cầu của
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính nhằm đạt được mục tiêu trình bày hợp
lý báo cáo tài chính.
Điểm (i) trong định nghĩa về “khuôn khổ trình bày hợp lý” quy định Ban Giám đốc có thể
thuyết minh thêm nhằm đạt được sự trình bày hợp lý trong báo cáo tài chính. Trong
trường hợp này, Ban Giám đốc được trao sự linh hoạt (management discretion) trong
việc quyết định trình bày các thông tin trong thuyết minh báo cáo tài chính. Kiểm toán
viên nên trao đổi với Ban Giám đốc về các thông tin cụ thể cần trình bày trong báo cáo
tài chính nhằm đạt được sự trình bày hợp lý.
Ví dụ: Một doanh nghiệp áp dụng hệ thống chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam trong việc
lập và trình bày báo cáo tài chính. Bên cạnh các thông tin về doanh thu và giá vốn
trình bày theo vùng địa lý và dòng sản phẩm, Ban Giám đốc có thể cung cấp thêm các
thông tin liên quan đến doanh thu và chi phí phân bổ theo hoạt động (Activity-based).
Kiểm toán viên nên trao đổi nguyên nhân tại sao cần trình bày các thông tin này, cơ sở
đảm bảo tính chính xác của các thông tin này trong hệ thống kế toán quản trị của
doanh nghiệp. Thông tin trình bày về báo cáo bộ phận lấy từ hệ thống kế toán quản trị
không được quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện hành, nhưng được
hướng dẫn trong Chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế IFRS 8.
Đoạn A12, VSA 700 hướng dẫn

Rất ít khi kiểm toán viên coi báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về tuân thủ là
gây hiểu sai nếu, theo đoạn 06 (a) Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 210, kiểm toán
viên đã xác định rằng khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính đó là có thể áp
dụng được.
7. Báo cáo kiểm toán
1 Hình thức của báo cáo kiểm toán
(VSA 700, 20, A13-A14)
Nội dung yêu cầu
Báo cáo kiểm toán phải được lập bằng văn bản. (VSA 700, 20)
Hướng dẫn áp dụng
Đoạn A13-A14, VSA 700 hướng dẫn
Báo cáo kiểm toán lập bằng văn bản bao gồm cả các báo cáo phát hành dưới dạng in ra
giấy và bằng các phương tiện điện tử (nếu có).
Phụ lục của Chuẩn mực này bao gồm các ví dụ minh họa về các báo cáo kiểm toán về
báo cáo tài chính
2 Báo cáo kiểm toán cho các cuộc kiểm toán được thực hiện theo các Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam
Nội dung chính của báo cáo kiểm toán cho các cuộc kiểm toán được thực hiện theo các
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam được tổng hợp và hướng dẫn trong bảng sau:
Tham
chiếu
Nội dung Yêu cầu và hướng dẫn
21,
A15
Tiêu đề báo cáo kiểm
toán
Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề chỉ rõ đó là Báo cáo kiểm toán độc lập.
Tiêu đề chỉ rõ báo cáo là báo cáo của kiểm toán độc lập, ví dụ “Báo cáo
kiểm toán độc lập”, xác nhận và khẳng định rằng kiểm toán viên đáp ứng
các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp có liên quan về tính độc lập và do đó

phân biệt rõ giữa báo cáo kiểm toán độc lập với các báo cáo do các đối
tượng khác phát hành, ví dụ: kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ,
22,
A16
Người nhận báo cáo
kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải chỉ rõ người nhận báo cáo kiểm toán tùy theo
từng cuộc kiểm toán.
Pháp luật và các quy định của Việt Nam quy định rõ người nhận báo cáo
kiểm toán. Người nhận báo cáo kiểm toán là những người mà báo cáo
được lập cho họ sử dụng, thường là Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị
hoặc Ban quản trị của đơn vị có báo cáo tài chính được kiểm toán, và
các cổ đông.
23,
A17-
A19
Mở đầu của báo cáo
kiểm toán
Mở đầu của báo cáo kiểm toán phải:
a Nêu rõ tên đơn vị có báo cáo tài chính đã được kiểm toán;
b Nêu rõ rằng báo cáo tài chính đã được kiểm toán;
c Nêu rõ tiêu đề của từng báo cáo cấu thành bộ báo cáo tài chính;
d Tham chiếu đến phần tóm tắt các chính sách kế toán quan trọng và
các thuyết minh khác;
e Nêu rõ ngày kết thúc kỳ kế toán hoặc kỳ kế toán của từng báo cáo
cấu thành bộ báo cáo tài chính;
f Nêu rõ số trang của báo cáo tài chính đã được kiểm toán.
Mở đầu của báo cáo kiểm toán nói rõ rằng kiểm toán viên đã kiểm toán
các báo cáo tài chính kèm theo của đơn vị, bao gồm (nêu đầy đủ tên của
từng báo cáo tài chính cấu thành bộ báo cáo tài chính hoàn chỉnh theo

khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, nêu rõ
ngày kết thúc kỳ kế toán hoặc kỳ kế toán của từng báo cáo tài chính) và
phần tóm tắt các chính sách kế toán quan trọng và các thuyết minh khác.
Trong trường hợp báo cáo tài chính đã được kiểm toán sẽ được đưa vào
một hồ sơ, tài liệu trong đó chứa các thông tin khác, chẳng hạn như báo
cáo thường niên, kiểm toán viên cần xác định rõ số của các trang mà các
báo cáo tài chính đã kiểm toán được trình bày. Điều này sẽ giúp người
sử dụng báo cáo xác định rõ các báo cáo tài chính mà báo cáo kiểm toán
tham chiếu đến.
Báo cáo kiểm toán trình bày ý kiến kiểm toán về một bộ báo cáo tài chính
hoàn chỉnh theo như định nghĩa trong khuôn khổ về lập và trình bày báo
cáo tài chính được áp dụng. Ví dụ, phần lớn các khuôn khổ về lập và
Tham
chiếu
Nội dung Yêu cầu và hướng dẫn
trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung quy định một bộ báo cáo
tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
phần tóm tắt các chính sách kế toán quan trọng và các thuyết minh khác.
Tại một số nước cũng như tại Việt Nam, các thông tin bổ sung cũng có
thể được coi là một phần không thể tách rời của báo cáo tài chính.
24-27,
A20-
A23
Trách nhiệm của Ban
Giám đốc đối với báo
cáo tài chính
Báo cáo kiểm toán phải bao gồm một mục có tiêu đề là “Trách nhiệm của
Ban Giám đốc (hay một thuật ngữ thích hợp khác) đối với Báo cáo tài
chính.”

Trong các ngữ cảnh khác nhau, cụm “Ban Giám đốc” có thể thay thế cho
phù hợp. Ví dụ: tại một số nước sử dụng thuật ngữ “Ban Quản trị” khi
Ban Quản trị có trách nhiệm lập báo cáo tài chính. Hoặc khi kiểm toán
báo cáo tài chính của dự án, thuật ngữ được sử dụng là “Ban Quản lý dự
án”, hoặc “Ban Giám hiệu” sử dụng cho báo cáo tài chính của trường Đại
học.
Vì giúp giải thích cho người sử dụng báo cáo về cơ sở tiến hành kiểm
toán, báo cáo kiểm toán phải mô tả trách nhiệm của Ban Giám đốc trong
việc:
 Lập và trình bày báo cáo tài chính, trong đó giải thích thêm rằng Ban
Giám đốc chịu trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính theo
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng.
Trong trường hợp các báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về
trình bày hợp lý, phần này phải đề cập đến “trách nhiệm lập và trình
bày trung thực và hợp lý các báo cáo tài chính của Công ty”.
 Chịu trách nhiệm về kiểm soát nội bộ mà Ban Giám đốc xác định là
cần thiết để đảm bảo cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính
không còn chứa đựng sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn.
Trách nhiệm của Ban Giám đốc có thể được bổ sung thêm (trong trường
hợp cần thiết) để phản ánh thêm các trách nhiệm của Ban Giám đốc liên
quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính theo quy định của một
ngành cụ thể hoặc do bản chất của đơn vị được kiểm toán. Ví dụ: trách
nhiệm của Ban quản lý Dự án trong việc tuân thủ các điều khoản của
Hiệp định vay trong quá trình lập báo cáo tài chính.
Trách nhiệm của Ban Giám đốc mô tả trong Báo cáo kiểm toán cần nhất
quán với phần trách nhiệm này được mô tả trong hợp đồng kiểm toán
theo quy định của VSA 210.
Chi tiết trách nhiệm của Ban Giám đốc bao gồm:
 Chịu trách nhiệm về kiểm soát nội bộ mà Ban Giám đốc xác định là
cần thiết để đảm bảo cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính

không còn chứa đựng sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn.
 Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp.
 Đảm bảo thông tin trong BCTC là phù hợp, đáng tin cậy, có thể so
sánh được và dễ hiểu.
 Cung cấp các thuyết minh nhằm đảm bảo các giao dịch trọng yếu có
Tham
chiếu
Nội dung Yêu cầu và hướng dẫn
thể dễ hiểu đối với người sử dụng báo cáo tài chính.
 Đưa ra các ước tính kế toán phù hợp trong từng trường hợp cụ thể.
Tại Việt Nam, pháp luật và các quy định có liên quan đến trách nhiệm của
Ban Giám đốc có thể đề cập cụ thể đến trách nhiệm đối với sự đầy đủ
của chứng từ kế toán, sổ kế toán, và hệ thống kế toán. Do các chứng từ
kế toán, sổ kế toán, và hệ thống kế toán là một phần không thể tách rời
của kiểm soát nội bộ nên đoạn mô tả về trách nhiệm của Ban Giám đốc
trong hợp đồng kiểm toán và báo cáo kiểm toán không đề cập đến các
trách nhiệm này của Ban Giám đốc.
28-33
A24-
A26
Trách nhiệm của
kiểm toán viên
Báo cáo kiểm toán phải bao gồm một mục có tiêu đề là “Trách nhiệm của
Kiểm toán viên”.
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ trách nhiệm của kiểm toán viên là đưa ra
ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên kết quả cuộc kiểm toán. Bao gồm:
 Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ rằng công việc kiểm toán đã được
tiến hành theo các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Báo cáo kiểm
toán cũng phải giải thích rằng các chuẩn mực đó yêu cầu kiểm toán
viên phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, và phải lập kế

hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán để đạt được sự đảm bảo hợp lý
về việc báo cáo tài chính có còn sai sót trọng yếu hay không.
 Mô tả cuộc kiểm toán bằng cách nêu rõ:
- Một cuộc kiểm toán bao gồm thực hiện các thủ tục để thu thập
các bằng chứng kiểm toán về các số liệu và thuyết minh trên báo
cáo tài chính;
- Các thủ tục kiểm toán được lựa chọn dựa trên xét đoán của kiểm
toán viên, bao gồm đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong báo
cáo tài chính, do gian lận hoặc nhầm lẫn. Khi thực hiện đánh giá
rủi ro, kiểm toán viên xem xét kiểm soát nội bộ của đơn vị liên
quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực, hợp
lý nhằm thiết kế các thủ tục kiểm toán phù hợp với tình hình thực
tế, tuy nhiên không nhằm mục đích đưa ra ý kiến về tính hữu
hiệu của kiểm soát nội bộ của đơn vị. Trong trường hợp kiểm
toán viên cũng có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính hữu hiệu của
kiểm soát nội bộ cùng với việc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán viên sẽ bỏ đi đoạn nói rằng việc kiểm toán viên xem xét
kiểm soát nội bộ không nhằm mục đích đưa ra ý kiến về tính hữu
hiệu của kiểm soát nội bộ của đơn vị;
- Một cuộc kiểm toán cũng bao gồm việc đánh giá tính thích hợp
của các chính sách kế toán được áp dụng và tính hợp lý của các
ước tính kế toán của Ban Giám đốc cũng như đánh giá việc trình
bày tổng thể báo cáo tài chính.
Trong trường hợp báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình
bày hợp lý, phần mô tả về cuộc kiểm toán trong báo cáo kiểm toán phải
đề cập đến “trách nhiệm lập và trình bày trung thực và hợp lý các báo
cáo tài chính của đơn vị”.
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ liệu kiểm toán viên có tin tưởng rằng các
bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên đã thu thập được là đầy đủ và
Tham

chiếu
Nội dung Yêu cầu và hướng dẫn
thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán.
34-37
A27-
A33
Ý kiến của kiểm toán
viên
Báo cáo kiểm toán phải bao gồm một mục có tiêu đề là “Ý kiến của kiểm
toán viên”.
(Phần “Ý kiến của kiểm toán viên” được trình bày cụ thể trong mục 3.3
của tài liệu này)
38-39
A34-
A36
Các trách nhiệm báo
cáo khác
Nếu kiểm toán viên nêu thêm các trách nhiệm báo cáo khác trong báo
cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ngoài trách nhiệm của kiểm toán viên
là báo cáo về báo cáo tài chính theo các Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam,
các trách nhiệm báo cáo khác này phải được nêu trong một phần riêng
trong báo cáo kiểm toán có tiêu đề là “Báo cáo về các yêu cầu khác của
pháp luật và các quy định” hoặc được đặt phụ đề khác phù hợp với nội
dung của mục đó.
Ví dụ:
Trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của các dự án ODA do các tổ
chức quốc tế tài trợ, kiểm toán viên còn phải có trách nhiệm đưa ra ý kiến
về các vấn đề sau:
 Tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ của dự án
trong việc phát hiện và ngăn ngừa rủi ro do gian lận hoặc

nhầm lẫn.
 Tính tuân thủ của dự án đối với Hiệp định tài trợ và các văn
bản pháp lý có liên quan khác.
 Tính hợp lý và hợp lệ của các khoản chi từ tài khoản đặc
biệt được đệ trình trong các đơn xin rút vốn.
Các trách nhiệm báo cáo này cần phải được trình bày trong một mục
riêng của báo cáo kiểm toán để phân biệt rõ các trách nhiệm này với
trách nhiệm đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính theo các chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam.
40
A37
Chữ ký của kiểm
toán viên
Báo cáo kiểm toán phải có 2 chữ ký, gồm chữ ký của kiểm toán viên hành nghề được giao phụ trách cuộc kiểm toán và chữ ký
của thành viên Ban Giám đốc phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán, và phải đóng dấu của doanh nghiệp kiểm toán (hoặc chi
nhánh doanh nghiệp kiểm toán) phát hành báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải có 2 chữ ký của 2 kiểm toán viên hành nghề,
dưới mỗi chữ ký phải ghi rõ họ và tên, số chứng chỉ kiểm toán viên. Chữ
ký thứ nhất trên báo cáo kiểm toán là của kiểm toán viên hành nghề
được giao phụ trách cuộc kiểm toán và chữ ký thứ hai là của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán hoặc người được uỷ
quyền bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Người đại diện
theo pháp luật hoặc người được ủy quyền bằng văn bản của người đại
diện theo pháp luật được ký báo cáo kiểm toán phải là thành viên Ban
Giám đốc phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán.
Trên chữ ký của của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
kiểm toán hoặc người được uỷ quyền phải đóng dấu của doanh nghiệp
kiểm toán (hoặc chi nhánh) chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm
toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính đã
được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai bằng dấu của doanh nghiệp kiểm

Tham
chiếu
Nội dung Yêu cầu và hướng dẫn
toán.
Phù hợp với thông lệ quốc tế, báo cáo kiểm toán có thể có thêm chữ ký
thứ ba, được ký bằng tên của doanh nghiệp kiểm toán.
41
A38-
A41
Ngày ký báo cáo
kiểm toán
Ngày ký báo cáo kiểm toán không được trước ngày mà kiểm toán viên
thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở cho ý kiến
kiểm toán về BCTC, bao gồm các bằng chứng chứng minh rằng:
a Tất cả các báo cáo cấu thành bộ báo cáo tài chính, bao gồm các
thuyết minh liên quan, đã được lập;
b Những người có thẩm quyền đã xác nhận trách nhiệm của họ đối
với các báo cáo tài chính này.
Ngày ký báo cáo kiểm toán cũng không được trước ngày ký báo cáo tài
chính.
Một số vấn đề kiểm toán viên cần xem xét:
 Ảnh hưởng của các sự kiện và giao dịch phát sinh mà kiểm toán
viên biết được cho tới ngày ký báo cáo kiểm toán theo yêu cầu của
VSA 560.
 Đảm bảo thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để đưa
ra ý kiến về bộ BCTC đầy đủ.
 Đảm bảo thu thập bằng chứng về BCTC đã được những người có
thẩm quyền phê duyệt trước khi đề ngày ký báo cáo kiểm toán, hoặc
xem xét thủ tục phê duyệt BCTC cùng với cơ cấu tổ chức quản lý và
quản trị của đơn vị.

Trong trường hợp pháp luật hoặc doanh nghiệp được kiểm toán có quy
định BCTC phải được các cổ đông phê duyệt lần cuối trước khi phát
hành rộng rãi cho công chúng, thì sự phê duyệt cuối cùng của các cổ
đông không phải là một thủ tục cần thiết để kiểm toán viên đưa ra kết
luận đã thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
42 Tên và địa chỉ doanh
nghiệp kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ tên và địa chỉ doanh nghiệp kiểm toán.
Ngoài tên đầy đủ, có thể có tên viết tắt hoặc biểu tượng (lôgô).
Ngoài địa chỉ gửi thư còn có thể có số fax, email, địa chỉ website hoặc số
hiệu liên lạc khác của doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán
phát hành báo cáo kiểm toán.
3 Ý kiến của kiểm toán viên
(VSA 700, 34-37, A27-A33)
Nội dung yêu cầu
Đoạn 07b, VSA 700 trình bày định nghĩa về hai loại khuôn khổ lập và trình bày báo cáo
tài chính, khuôn khổ về trình bày hợp lý và khuôn khổ về tuân thủ. Tương ứng với hai
loại khuôn khổ này, kiểm toán viên sẽ đưa ra hai loại ý kiến kiểm toán phù hợp.
Trừ khi pháp luật có quy định khác, mẫu ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần đối với
từng loại khuôn khổ lập và trình bày báo cáo tài chính:
 Khuôn khổ về trình bày hợp lý: “Báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp
lý, trên các khía cạnh trọng yếu, … phù hợp với (khuôn khổ về lập và trình bày báo
cáo tài chính được áp dụng)”. (VSA 700, 35)
 Khuôn khổ về tuân thủ: “Báo cáo tài chính được lập, trên các khía cạnh trọng
yếu, phù hợp với (khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng).
(VSA 700, 36)
Hướng dẫn áp dụng
f Ngôn từ trong ý kiến kiểm toán
Tương ứng với từng khuôn khổ lập và trình bày báo cáo tài chính, kiểm toán viên sẽ sử
dụng ngôn từ phù hợp.

Đối với khuôn khổ về trình bày hợp lý, kiểm toán viên phải bao gồm cụm từ “phản ánh
trung thực và hợp lý” trong ý kiến kiểm toán.
Trong khi, đối với khuôn khổ về tuân thủ, kiểm toán viên không được sử dụng cụm từ
“phản ánh trung thực và hợp lý”, mà cần phải khẳng định “Báo cáo tài chính được lập,
trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với”.
Đoạn A27, VSA 700 hướng dẫn
Trong một số trường hợp, pháp luật hoặc các quy định khác có thể có những yêu cầu về
ngôn từ trong báo cáo kiểm toán (đặc biệt là ý kiến kiểm toán) khác một cách đáng kể
so với quy định của các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Trong trường hợp này, VSA
210 yêu cầu kiểm toán viên phải đánh giá:
a Liệu người sử dụng báo cáo tài chính có hiểu sai về mức độ đảm bảo đạt được
trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính hay không và, nếu như vậy,
b Liệu các thuyết minh bổ sung trong báo cáo kiểm toán có thể giúp người đọc báo
cáo kiểm toán hiểu đúng hay không.
Nếu kiểm toán viên xét thấy các thuyết minh bổ sung trong báo cáo kiểm toán không thể
giúp người đọc báo cáo kiểm toán hiểu đúng, VSA 210 yêu cầu kiểm toán viên không
được chấp nhận hợp đồng kiểm toán, trừ khi pháp luật và các quy định yêu cầu kiểm
toán viên phải chấp nhận.
g Phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu
Đối với khuôn khổ về trình bày hợp lý:
Trong hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISAs), kiểm toán viên được phép sử
dụng một trong hai cụm từ sau để đưa ý kiến đối với báo cáo tài chính được lập theo
khuôn khổ về trình bày hợp lý:
 “trình bày hợp lý, xét trên các khía cạnh trọng yếu”
 “phản ánh trung thực và hợp lý”
Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác nhau, luật pháp và các quy định liên
quan quy định hoặc cho phép sử dụng các cụm từ khác nhau để đánh giá sự hợp lý của
báo cáo tài chính lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý:
Đoạn A27, VSA 700 hướng dẫn
Pháp luật và các quy định liên quan đến việc kiểm toán báo cáo tài chính ở Việt Nam

quy định việc sử dụng cụm từ “phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh
trọng yếu”. Nếu pháp luật và các quy định yêu cầu sử dụng các thuật ngữ khác nhau
thì cũng không ảnh hưởng đến yêu cầu đối với kiểm toán viên trong việc đánh giá sự
hợp lý của báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý.
Điều 7, Luật KTĐL cũng quy định “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính đánh giá tính
trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế
toán do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành.”
Tại một số quốc gia khác, việc sử dụng các cụm từ này cũng rất khác biệt, một số ý kiến
của kiểm toán viên hành nghề tại một số quốc gia:
 Tại Úc, theo Luật doanh nghiệp năm 2001, đối với báo cáo tài chính của các công
ty hoạt động theo Luật doanh nghiệp năm 2001, kiểm toán viên phải sử dụng cụm
từ “phản ánh trung thực và hợp lý” thay vì “trình bày hợp lý, xét trên các khía cạnh
trọng yếu”. Đối với các báo cáo tài chính của đơn vị không hoạt động theo Luật
doanh nghiệp năm 2001, kiểm toán viên có thể sử dụng một trong hai cụm từ trên.
 Tại Mỹ, việc sử dụng cụm từ “phản ánh trung thực và hợp lý” là bắt buộc đối với
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết.
 Tại Achentina, kiểm toán viên không sử dụng từ “trung thực” mà chỉ sử dụng cụm
từ “trình bày hợp lý, xét trên các khía cạnh trọng yếu”.
 Tại Canada, đối với báo cáo tài chính của các công ty hoạt động theo luật doanh
nghiệp liên bang, kiểm toán viên chỉ sử dụng cụm từ “trình bày hợp lý, xét trên các
khía cạnh trọng yếu”. Trong khi, đối với báo cáo tài chính của các công ty hoạt
động theo luật doanh nghiệp của bang Quebec, kiểm toán viên phải sử dụng cụm
từ “trung thực và chính xác” để đánh giá về sự hợp lý của báo cáo tài chính.
Theo ý kiến đánh giá của chuyên gia chuẩn mực kiểm toán quốc tế trong hội thảo làm rõ
chuẩn mực kiểm toán quốc tế được phối hợp tổ chức bởi Ngân hàng Thế giới và
VACPA tại Hà Nội, tháng 6 năm 2011, sự khác biệt về ý nghĩa giữa hai cụm từ “phản
ánh trung thực và hợp lý” và “trình bày hợp lý, xét trên các khía cạnh trọng yếu” là
không lớn. Tuy nhiên, một số ý kiến của kiểm toán viên hành nghề tại một số quốc gia
khác nhau cho biết họ tránh sử dụng từ “trung thực” trong ý kiến kiểm toán viên khi có
thể nhằm tránh sự hiểu nhầm từ công chúng rằng báo cáo tài chính với ý kiến chấp

nhận toàn phần là đạt được sự đảm bảo tuyệt đối.
h Mô tả về thông tin trình bày trong báo cáo tài chính
Trong trường hợp báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý, kiểm
toán viên cần nêu rõ trong ý kiến kiểm toán rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực
và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, các thông tin mà báo cáo tài chính phải trình
bày.
Ví dụ: Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục đích chung yêu cầu báo cáo
tài chính phải trình bày về tình hình tài chính của đơn vị tại ngày kết thúc kỳ kế toán,
kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho kỳ kế toán kết thúc
cùng ngày.
i Mô tả khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng và ảnh hưởng của
quy định này đến ý kiến kiểm toán
Đoạn A30-A31, VSA 700 hướng dẫn
Ý kiến kiểm toán cần chỉ rõ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp
dụng. Ý kiến kiểm toán phải chỉ rõ nước ban hành ra khuôn khổ về lập và trình bày báo
cáo tài chính đó, nếu không phải là Việt Nam hoặc chuẩn mực quốc tế (VSA 700, 37).
Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính áp dụng được thể hiện bằng các cụm từ
như: “… theo Chuẩn mực kế toán, Chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam và các quy
định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính tại Việt Nam” hoặc
“… theo các nguyên tắc kế toán được áp dụng rộng rãi tại nước …”
Nếu có sự mâu thuẫn giữa các quy định pháp lý có liên quan với chuẩn mực kế toán,
kiểm toán viên áp dụng VSA 210 để giải quyết mâu thuẫn này.
Đoạn 21, VSA 210 quy định
Trường hợp pháp luật và các quy định có liên quan có quy định về hình thức và nội
dung báo cáo kiểm toán khác với quy định và hướng dẫn của các chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam, kiểm toán viên phải đánh giá:
a Liệu người sử dụng báo cáo kiểm toán có thể hiểu sai mức độ đảm bảo của ý
kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính và, nếu như vậy,
b Liệu các giải thích bổ sung trong báo cáo kiểm toán đã có thể làm cho người sử
dụng báo cáo kiểm toán hiểu đúng hay chưa.

Nếu thấy rằng việc giải thích bổ sung trong báo cáo kiểm toán cũng không thể giúp
người sử dụng báo cáo kiểm toán hiểu đúng, kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán
không được chấp nhận cuộc kiểm toán đó, trừ khi pháp luật và các quy định liên quan
yêu cầu vẫn phải thực hiện kiểm toán. Một cuộc kiểm toán được thực hiện theo các quy
định của pháp luật và quy định như vậy sẽ không tuân thủ theo các chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam. Vì vậy, kiểm toán viên sẽ không được đề cập trong báo cáo kiểm toán
rằng cuộc kiểm toán đã được thực hiện theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Đoạn A32, VSA 700 hướng dẫn
Khi báo cáo tài chính được lập và trình bày theo hai khuôn khổ khác nhau, (ví dụ: chuẩn
mực và chế độ kế toán Việt Nam và Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế), ý kiến kiểm
toán viên tham chiếu đến cả hai khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính như
sau:
a Nếu báo cáo tài chính tuân thủ từng khuôn khổ riêng lẻ thì hai ý kiến kiểm toán được đưa ra:
(1) ý kiến kiểm toán về việc báo cáo tài chính được lập phù hợp với một trong hai khuôn khổ về
lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng (ví dụ Chuẩn mực, chế độ kế toán Việt Nam)
và (2) ý kiến kiểm toán về việc báo cáo tài chính được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và
trình bày báo cáo tài chính còn lại (ví dụ Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế). Những ý kiến
này có thể được trình bày riêng lẻ hoặc trong cùng một câu.
Ví dụ: Báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu,
phù hợp với các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam
và các quy định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài
chính tại Việt Nam và phù hợp với các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế.
b Nếu báo cáo tài chính chỉ tuân thủ một trong hai khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính, ý kiến chấp nhận toàn phần có thể được đưa ra là báo cáo tài chính được lập và trình
bày phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được tuân thủ đó (ví dụ Chuẩn
mực, chế độ kế toán Việt Nam) nhưng ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn
phần được đưa ra cho khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính còn lại (ví dụ chuẩn mực
báo cáo tài chính quốc tế) theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705.

×