1. Khái niệm
+ Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghiã
vụ và quyền lợi nếu người xin bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng với bên yêu cầu bảo lãnh”
+ Bảo lãnh ngân hàng: là cam kết bằng văn bản của Tổ chức Tín dụng (TCTD)
với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc TCTD thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên được TCTD trả thay
2. Đặc điểm của bảo lãnh
Bảo lãnh là một hoạt động ngoại bảng của ngân hàng: Bảo lãnh là hình thức tài trợ
của ngân hàng thông qua uy tín của mình để cam kết thanh toán và chỉ khi khách
hàng không thực hiện đứng cam kết với bên thứ ba thì ngân hàng mới phải thanh
toán. Tuy nhiên, nếu rủi ro xảy ra NH phải thanh toán thay cho bảo lãnh thì ngay
lập tức sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới bảng cân đối kế toán. Khoản trả sau này được sắp
xếp vào tài sản "xấu" trong nội bảng, cấu thành nên nợ quá hạn.
+ Bảo lãnh NH tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và sen sẻ rủi ro.NH có
khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện đúng cam kết
+ Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất
xảy ra.
Giới hạn bảo lãnh (điều 7-Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày
26/06/2006)
+ Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% (mười lăm phần trăm) vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách
hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
+ Số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho một khách hàng quy định tại khoản
1 điều này bao gồm tổng số dư bảo lãnh và các cam kết phát hành theo hình
thức tín dụng chứng từ, ngoại trừ hình thức mở thư tín dụng trả ngay được
khách hàng ký quỹ đủ hoặc được cho vay 100% giá trị thanh toán.
Điều kiện bảo lãnh (điều 8- Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày
26/06/2006)
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định bảo lãnh khi khách hàng có đủ các điều
kiện sau:
1. Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật;
2. Mục đích đề nghị tổ chức tín dụng bảo lãnh là hợp pháp;
3. Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo lãnh
trong thời hạn cam kết;
4. Trường hợp khách hàng là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì ngoài các
điều kiện nêu trên phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt
Nam.
Một trong những hình thức bảo lãnh tài chính phổ biến nhất trong hệ thống ngân
hàng là thư bảo lãnh tín dụng .
+ Khái niệm: Thư bảo lãnh tín dụng là một quy định về trách nhiệm của người
phát hành thư. Ngân hàng sẽ nhận được một khoản phí cho việc bảo lãnh tín
dụng đối với khách hoặc bảo lãnh việc thực hiện đầy đủ hợp đồng của khách
hàng với bên thứ ba.
+ Những lợi ích cơ bản mà ngân hàng phát hành thư bảo lãnh tín dụng là:
− Ngân hàng sẽ nhận được 1 khoản phí do việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh
tín dụng (thường khoảng từ 0.5% đến 1% tổng lượng tín dụng thực hiện)
− Ngân hàng có thể giúp đỡ khách hàng vay vốn với chi phí thấp hơn nhờ
có sự bảo lãnh tín dụng
− Thư bảo lãnh tín dụng được phát hành với chi phí tương đối thấp do ngân
hàng phát hành có thể biết rõ về tình hình tài chính của khách hàng)
− Trên thực tế rất ít khi người phát hành thư bảo lãnh bị yêu cầu phải thanh
toán cho hợp đồng bảo lãnh.
+ Thư bảo lãnh tín dụng được phát triển mạnh trong thời gian gần đây vì:
− Ngân hàng và khách hàng nhận thức rõ hơn về những rủi ro biến động
kinh tế ( suy thoái lạm phát ) làm gia tang nhu cầu về hạn chể rủi ro
− Tạo điều kiện ngân hàng các khoản thu nhập bổ sung dựa trên khả năng
đánh giá tín dụng đối với khách hàng mà không cần cam kết trực tiếp sử
dụng vốn
− Chi phí phát hành thư bảo lãnh tín dụng tương đối thấp.Không giống như
các khoản tiền gửi,thư tín dụng không có yêu cẩu dự trữ bắt buộc và
không cần bảo hiểm
3. Phân loại
− Phân theo mục đích của bảo lãnh:
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng
không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ 3.
Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp 1 phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc
đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
Đây là loại bảo lãnh được dùng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một loại
bảo lãnh nào khác ngoài nó trong quá trình mua bán hàng hoá hoặc dự thầu xây dựng.
+ Bảo lãnh dự thầu
Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư ( hay chủ thầu ) về việc trả tiền phạt thay
cho bên dự thầu , nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu.
Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu
vi phạm các điều khoản tham gia hợp đồng như : trúng thầu song không thực hiện hợp
đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư…chủ đầu tư thường yêu cầu bên
dự thầu phải ký quỹ ( đặt cọc ) dự thầu. Nếu vi phạm bên dự thầu sẽ mất tiền ký quỹ.
Do ký quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả 2 bên, đặc biệt làm đọng vốn của
bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền ký quỹ bằng bảo lãnh của
ngân hàng.
Các loại bảo lãnh dự thầu:
Bảo lãnh dự thầu xây lắp
Bảo lãnh dự thầu cung ứng máy móc thiết bị hàng hóa
Số tiền và thời hạn bảo lãnh được ghi trong hợp đồng khớp đúng với đề nghị của bên
được bảo lãnh có trách nhiệm về việc đề nghị số tiền và thời hạn bảo lãnh.
Giá trị bảo lãnh dự thầu từ 1% đến 3% giá dự thầu. Bên mời thầu có thể quy định
mức bảo lãnh thống nhất để đảm bảo bí mật về mức giá dự thầu cho các nhà thầu. Bảo
lãnh dự thầu sẽ được trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu trong thời hạn không
qua 30 ngày, kể từ ngày công bố kết quả đầu thầu.
+ Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán được sử dụng trong các hợp đồng mua bán thiết bị hàng hoá trả
chậm. Quan hệ giữa người bán và người mua thực chất là quan hệ tín dụng thương
mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hoá theo kỳ hạn nợ cụ thể. Trong
trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đủ số tiền theo hợp
đồng thì ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả thay cho người mua như đã cam kết.
+ Bảo lãnh bảo đảm chất lợng sản phẩm theo hợp đồng ( bảo lãnh bảo hành )
Loại bảo lãnh được sử dụng như trong lĩnh vực xây lắp để bảo hành cho các công
trình hoặc các hợp đồng nhận thiết bị toàn bộ để bảo hành chất lượng máy móc thiết bị.
Ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các
khoản thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận
bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do không thực hiện đúng các thoả
thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận
bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ
chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
+ Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trớc
Bảo lãnh hoàn lại thanh toán là do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh
vê việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký
với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên
nhận bảo lãnh và phải hoàn trả số tiền cung ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ
chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
+ Bảo lãnh hoàn trả vốn vay ( bảo lãnh vay vốn )
Là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân…) về
việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng (người đi vay) không trả được.
Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hóa,
chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh của người thứ ba…Nhà nước, doanh nghiệp,
tổ chức tín dụng có nhu cầu phát hành trái phiếu, song nếu uy tín của người vay chưa
cao, việc phát hành sẽ gặp khó khăn. Điều đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh vay vốn.
Ngoài ra còn 1 số loại bảo lãnh khác như : bảo lãnh đóng thuế doanh nghiệp, bảo lãnh
đóng thuế xuất nhập khẩu, bảo lãnh để tạm nhập hàng hóa, bảo lãnh thương phiếu (bảo
đảm )…
− Phân theo phương thức phát hành bảo lãnh
+ Bảo lãnh trực tiếp
Đây là loại hình bảo lãnh đơn giản nhất, được thực hiện dựa trên mối quan hệ giữa 3
bên trong quan hệ bảo lãnh, trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết thanh toán trực tiếp
với người hưởng thụ không cần phải qua một ngân hàng trung gian nào cả. Sau khi
ngân hàng đã bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh, ngân hàng có thể trực tiếp
truy đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.
Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp
• Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người thụ huởng bảo lãnh .
• Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh
• Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng (sau
khi xét duyệt và chấp nhận)
+ Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân
hàng thứ nhất (gọi là ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ 2 (ngân hàng phát hành)
đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, người
được bảo lãnh không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính
ngân hàng chỉ thị sẽ chịu trách nhiệm bồi hoàn cho ngân hàng phát hành, thông qua
một cam kết gọi là đối ứng do chính ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng cũng có
nội dung và điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính. Sau khi đã bồi hoàn cho
ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình ngân hàng chỉ thị lại có thể truy
đòi từ người được bảo lãnh.
Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 thành phần tham gia là: Ngân hàng phát
hành bảo lãnh, ngân hàng chỉ thị, người được bảo lãnh và người hưởng thụ bảo lãnh.
Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưỏng là người
nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng. Do vậy,
quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ chắc hơn.
Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
• Hợp đồng chính được kí kết giừa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo
lãnh.
• Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng chính phát
hành bảo lãnh.
• Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh, đồng thời cam
kết bồi hoàn bảo lãnh đối ứng.
• Ngân hàng thứ 2 phát hành bảo lãnh: có thể chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng
− Phân loại theo đối tượng bảo lãnh.
+ Bảo lãnh trong nớc
Là loại bảo lãnh mà người yêu cầu bảo lãnh, người được bảo lãnh và ngân hàng bảo
lãnh ở trong phạm vi 1 quốc gia. Các hình thức áp dụng cho loại bảo lãnh này là: bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước… được thực hiện
thông qua ngân hàng phát hành thư bảo lãnh.
+ Bảo lãnh ngoài nớc
Là loại hình bảo lãnh mà trong đó chỉ có một bên ở trong nước, còn bên kia ở nước
ngoài. Loại hình này thường sử dụng 1 trong các hình thức bảo lãnh sau:
Mở thư tín dụng mua hàng trả chậm
Ký bảo lãnh trên hối phiếu nhận nợ với nước ngoài
Phát hành thư bảo lãnh
Lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ
− Phân loại theo hình thức sử dụng
+ Bảo lãnh vô điều kiện (Bảo lãnh theo yêu cầu)
Bảo lãnh vô điều kiện là loại bảo lãnh mà trong đó việc thanh toán sẽ được thực hiện
ngày sau khi ngân hàng nhận được yêu cầu đầu tiên của người thụ hưởng mà không
cần bất cứ môt chứng từ hay một tờ giấy nào kèm theo.Ngân hàng xem đó như một
lệnh thanh toán không thể từ chối. Điều đó thể hiện loại bảo lãnh này có tính độc lập
rất cao. Nó được sử dụng khá phổ biến vì nó có lợi cho người thụ hưởng bảo lãnh. Tuy
nhiên, lại có nhược điểm là mang tính chủ quan trong việc đòi bồi thường, do đó có thể
xảy ra lừa đảo, gian lận nếu người thụ hưởng không trung thực. Vì vậy, khi sử dụng
loại bảo lãnh này cac bên đối tác phải có độ tin cậy cao.
+ Bảo lãnh có điều kiện
Bảo lãnh có điều kiện là loại bảo lãnh mà khi người thụ hưởng muốn được trả tiền
phải xuất trình chứng từ hoặc giâý tờ chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng
đối tác. Loại bảo lãnh này có nhược điểm là người thụ hưởng sẽ phải chịu sự chậm trễ
trong thanh toán bồi thường, và nó còn có thể gây ra tranh chấp giữa các đối tác. Với
các điều kiện về chứng từ như thế thì đấy là một loại bảo lãnh kém linh hoạt nên ít
được sử dụng trong các dịch vụ của ngân hàng thương mại.
4. Quy trình pháp lý
Tùy từng loại bảo lãnh mà sẽ có các bước khác nhau, tuy vậy, nhìn chung có 5 bước
sau:
Bước 1: Khách hàng lập hồ sơ và gửi hồ sơ đến đề nghị bảo lãnh
Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý, giấy đề nghị bảo lãnh, báo cáo tài chính về tình
hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác, tài sản đảm bảo nghĩa vụ bảo lãnh
theo quy định
Bước 2: Ngân hàng thẩm định hồ sơ và quyết định bảo lãnh
Bước 3: Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng và phát hành thư
bảo lãnh. Khách hàng nhận một bản cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát
hành
Bước 4: Xử lý sau khi phát hành bảo lãnh
Sau khi phát hành bảo lãnh, ngân hàng theo dõi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, hạch toán số dư bảo lãnh, theo dõi thực hiện hợp đồng
bảo lãnh, khách hàng thanh toán các khoản phí bảo lãnh và các khoản phí khác
Bước 5: Tất toán bảo lãnh sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hoặc khi có
thông báo hoặc xác nhận của bên nhận bảo lãnh, NH tất toán bảo lãnh.
5. Những vấn đề nóng ở Việt Nam
5.1. Rủi ro bảo lãnh
a. Rủi ro đối với ngân hàng bảo lãnh
Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng chỉ xảyđến đối với
ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thay bên được bảo lãnh, vì lúc
đó ngân hàng mới phải dùng tiền để trả thay cho khách hàng.Tuy nhiên, khi đề
cập đến rủi ro tức là khả năng xảy ra những điều kiện bất lợi không mong
muốn, thì ngay từ khi ký kết hợp đồng bảo lãnh, rủi ro đã xuất hiện đối
với ngân hàng phát hành bảo lãnh:
− Rủi ro tín dụng: khi ngân hàng chấp nhận phát hành bảo lãnh cũng đồng nghĩa
với việc ngan hàng cam kết trả tiền thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh)
nếu họ không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ như đã thỏa thuận với bên
nhận bảo lãnh. Rủi ro tín dụng có thể xay ra khi ngân hàng tiến hành truy đòi bồi
hoàn từ người được bảo lãnh nhưng bên được bảo lãnh không hoàn trả số tiền
bảo lãnh cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra khi người thụ hưởng xuất
trình chứng từ giả yêu cầu thanh toán. Do tính chất độc lập của bảo lãnh nên NH
sẽ phải thanh toán ngay lập tức theo các chứng từ xuất trình. Nếu NH không
phát hiện được những chứng từ đó là giả và thực hiện thanh toán thì NH sẽ chịu
rủi ro do không đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh.
− Rủi ro thanh khoản: khi có yêu cầu thanh toán theo thư bảo lãnh đã phát hành thì
NH phải lập tức thanh toán, sau đó mới truy đòi được từ người yêu cầu bảo lãnh.
Như vậy, NH sẽ thành lập dự phòng rủi ro hoặc phải sử dụng vốn từ các nguồn
khác để thực hiện việc thanh toán. Nếu số tiền bảo lãnh có giá trị lớn thì bản
thân nhân hàng cũng chứa đựng nhiều rủi ro.
+ Rủi ro về trình độ yếu kém của đội ngũ cán bộ tín dụng.
+ Rủi ro về đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng. Chứng thư bảo lãnh lại là
một trong những nghiệp vụ chứa đựng nhiều “cám dỗ” đối với cán bộ ngân hàng
vì: khác với các nghiệp vụ khác, các quy trình bắt buộc phải nhập liệu, phải
thông qua hệ thống nên được quản lý qua hệ thống, thì bảo lãnh ngân hàng là
nghiệp vụ duy nhất có thể “qua mặt” hệ thống.
b. Rủi ro đối với bên đợc bảo lãnh
− Bên được bảo lãnh là người đầu tiên có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ với
người thụ hưởng trong hợp đồng kinh tế giữa hai bên. Do đó, bên được bảo
lãnh luôn chịu sức ép về mặt tài chính trong suốt thời gian có hiệu lực của
bảo lãnh. Chính vì vậy mà người thụ hưởng bảo lãnh có thể lợi dụng cơ hội
này để lập chứng tư giả để nhận được bồi hoàn trong khi bên được bảo lãnh
vẫn thực hiện nghiêm túc hợp đồng.
− Bên được bảo lãnh cũng có thể gặp rủi ro từ chính bản thân mình như:
+ Ký hợp đồng hàng hóa bị cấm nhập khẩu
+ Người đại diện ký hợp đồng không đủ tư cách, thiếu kinh nghiệm trong
hoạt động kinh doanh
+ Cập nhật những thay đổi cơ chế thiếu chính xác, kịp thời.
+ Khả năng thích ứng với mô trường cạnh tranh khốc liệt còn nhiều hạn
chế.
− Rủi ro do những thay đổi về điều kiện tự nhiên (thiên tai), chiến tranh, địck
họa, dịch bệnh Đây là những rủi ro khó lường đòi hỏi sự đánh giá, kiểm soát
thường xuyên của bên được bảo lãnh và những kế hoạch dự phòng cần thiết.
− Khủng hoảng tài chính tiền tệ, suy thoái kinh tế dẫn đến bên được bảo lãnh
không thực hiện được nghĩa vụ cam kết. Khi suy thoái kinh tế diễn ra làm
gia tăng các chi phí thực hiện hợp đồng gây khó khăn trong việc thực hiện
hợp đông đúng hạn. Hơn nữa suy thoái kinh tế cũng khiến cho bên được bảo
lãnh khó khăn trong cả việc trả nợ ngân hàng bảo lãnh sau khi nhận nợ bắt
buộc từ ngân hàng.
c. Rủi ro đối với bên thụ hởng bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng thực sự là một hình thức đảm bảo cho người
thụ hưởng trong các giao dịch kinh tế, thương mại. Tuy nhiên trên thực
tế, không phải người thụ hưởng không hề gặp rủi ro trong quá trình thực hiện.
Trước hết là rủi ro từ phía đối tác khi người được bảo lãnh không thực hiện
đúng nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng gốc. Khi đó, có những tổn thất
mà số tiền bồi thương từ bảo lãnh không bù đắp được thiệt hại, mất đi cơ hội
kinh doanh và uy tín với các đối tác khác khi mà hoàn thành nghĩa vụ chậm
trễ. Ngoài ra, nếu NH bảo lãnh là NH không đáp ứng được các tiêu chuẩn của
người thụ hưởng như: khả năng tài chính, mạng lưới chi nhánh, uy tín…sẽ
gây ra những khó khăn cho người thụ hưởng trong quá trình đòi tiền bồi
thường.
5.2. Trực trạng bảo lãnh ở Việt Nam
Các ngân hàng lớn ở Việt nam thường có uy tín trong nghiệp vụ bảo lãnh như:
Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Công thương Incombank, ngân
hàng Đầu tư và Phát triển BIDV, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Agribank, Techcombank… Chẳng hạn: Agribank bảo lãnh cho nhà máy sản xuất
đường Quảng Nam, Đà Nẵng với số tiền 2triệu USD vay của Ôxtrâylia; tái bảo
lãnh cho nhà máy sản xuất đường Kiên Giang, Biên Hoà với số tiền 2triệu USD của
Ôxtrâylia… Phần lớn các khoản vay của doanh nghiệp là các ngành sản xuất vật
chất, xây dựng cơ bản… giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất, nhập được kỹ thuật
công nghệ hiện đại, giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá… thúc đẩy
tăng truởng kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh các ưu điểm cũng tồn tại nhiều nhược điểm
như: các nhà máy đường xi măng hoạt động sản xuất còn kém hiệu quả, không cạnh
tranh được trên thị truờng; nhiều máy móc thiết bị không sử dụng hết công suất,
không đủ nguyên liệu để sản xuất…
Techcombank, Incombank, Vietcombank… cung cấp cho khách hàng các loại hình
bảo lãnh đáp ứng được các đòi hỏi của bên thứ ba, qua đó thực hiện tốt nhất khả
năng kinh doanh cũng như trong các công việc khác, bao gồm các loại bảo lãnh sau:
(1) Cho cá nhân như cam kết thu xếp tài chính: Dùng trong sản phẩm cho vay du
học nước ngoài, trong đó các ngân hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho khách hàng một
khoản tài chính để thanh toán chi phí phải trả cho con em đi du học nước ngoài.
(2) Cho hộ kinh doanh cá thể: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn tạm ứng. Lợi ích của khách hàng khi đựợc bảo lãnh
từ các ngân hàng này là: ngân hàng sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng,
linh hoạt trong việc thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu
cầu của khách hàng, khách hàng có thể ra hạn, sửa đổi nội dung hoặc huỷ thư bảo
lãnh khi có nhu cầu; thư bảo lãnh của các ngân hàng này được nhiều ngân hàng và
doanh nghiệp trong và ngoài nước chấp nhận; bảo lãnh từ các ngân hàng này giúp
tăng độ tin cậy của khách hàng với đối tác của mình giúp cho các giao dịch có triển
vọng hơn. Ngoài ra trong từng loại bảo lãnh, khách hàng có những lợi ích riêng.
Chẳng hạn trong bảo lãnh vay vốn, khách hàng có thể vay vốn với quy mô lớn ,
thời gian vay dài; giúp cho khách hàng vay vốn trong các giao dịch mà việc bảo
lãnh vay vốn là bắt buộc. Trong bảo lãnh thanh toán, khách hàng có thể mua bán trả
chậm, chậm nộp thuế cho nhà nước trong thời hạn cho phép, các hợp đồng thuê tài
sản, đại lý tiêu thụ, cung cấp dịch vụ trả tiền sau…; ngân hàng sẽ thanh toán cho
người bán trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh toán không
đầy đủ đúng hạn. Trong bảo lãnh dự thầu, giúp cho khách hàng có đủ điều kiện để
tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà bắt buộc phải có bảo lãnh của ngân hàng;
trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc
nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ cam
kết; chuyên viên khách hàng sẵn sàng hướng dẫn khách hàng lựa chọn DVBL cũng
như hoàn tất thủ tục với ngân hàng. Trong bảo lãnh chất luợng sản phẩm, ngân hàng
cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm của khách hàng đối với các cam kết về chất lượng
sản phẩm nêu trong hợp đồng mua bán, nếu người bán bị phạt do không thực hiện
đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với người mua mà
không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được cam kết…
Các NHTM cổ phần ở Việt Nam cũng ngày càng có uy tín hơn trong nghiệp vụ
bảo lãnh, chẳng hạn như NHTMCP Á Châu ACB có mức phí bảo lãnh như sau:
STT Giao dịch Mức phí Mức phí
tối
thiểu
Mức
phí
tối
đa
1. Phát hành thư bảo lãnh (phí tính trọn
tháng)
- Ký quỹ 100% 0,035% /
tháng
150.000
đ
- Bảo đảm bằng sổ tiết kiệm ACB 0,08% /
tháng
200.000
đ
- Bảo đảm bằng tài sản khác 0,12% /
tháng
300.000
đ
2. Tu chỉnh thư bảo lãnh
- Tu chỉnh tăng số tiền bảo lãnh Như phát hành thư bảo lãnh
- Tu chỉnh thời hạn bảo lãnh Như phát hành thư bảo lãnh
- Tu chỉnh khác 100.000đ/ lần
3. Phát hành thư bảo lãnh bằng 2 ngôn
ngữ (Việt + Anh)
Như phát hành thư bảo lãnh +
100.000đ
4. Phát hành thư bảo lãnh theo mẫu của
khách hàng (được ACB chấp thuận)
Như phát hành thư bảo lãnh +
100.000đ
Trong các lĩnh vực mà ngân hàng bảo lãnh thì lĩnh vực xây dựng cơ bản còn
nhiều bất cập. Đánh giá thực trạng bảo lãnh ngân hàng hiện nay trong lĩnh vực xây
dựng cơ bản, ta thấy cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Đối với bảo lãnh dự thầu: Sau khi công trình được cấp có thẩm quyền phê
duyệt hồ sơ mời thầu đối với công trình đấu thầu, chủ đầu tư lập thư mời thầu gửi
các nhà thầu liên quan. Đến thời gian quy định, nhà thầu phải gửi hồ sơ dự thầu để
tham gia đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng.
Trong thư bảo lãnh, ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu, tên công trình, số tiền bảo
lãnh, thời gian hiệu lực, nội dung bảo lãnh và lãnh đạo ngân hàng ký tên đóng dấu
vào thư bảo lãnh, với số tiền bảo lãnh thường là 1%. Mục đích bảo lãnh là cam kết
của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu như phá thầu trong quá trình đấu thầu,
không thực hiện hợp đồng khi trúng thầu gây thiệt hại cho chủ đầu tư, không nộp
bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo quy định… Nếu những vi phạm trên xảy ra, ngân
hàng sẽ chịu trách nhiệm trả cho chủ đầu tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt
hại do nhà thầu gây ra, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia đấu thầu
xây dựng công trình là rất cần thiết, nhằm ràng buộc nhà thầu về mặt kinh tế, phải
tham gia đấu thầu thực sự. Nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy chế đấu thầu, sẽ
phải mất khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi trúng thầu (được cấp
thẩm quyền phê duyệt trúng thầu) thì ngân hàng lại tiếp tục lập thư bảo lãnh hợp
đồng. Lúc đó, thư bảo lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực. Do việc quy định mức bảo lãnh
dự thầu và việc thực hiện mức bảo lãnh dự thầu hiện nay thường là 1% (tương đối
thấp) nên một số nhà thầu chấp nhận ứng ra số tiền trên để thực hiện tham gia đấu
thầu không lành mạnh. Cụ thể là:
+ Tham gia đấu thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, nhằm kiếm lợi nhuận
thông qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu.
+ Sẵn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu
thấp.
- Đối với bảo lãnh hợp đồng: Khi công trình được phê duyệt kết quả trúng thầu
cho nhà thầu nào đó đạt điểm kỹ thuật cao nhất và giá bỏ thầu thấp nhất thì ngân
hàng sẽ làm thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng gửi chủ đầu tư, để làm thủ tục ký hợp
đồng thi công.
Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng phải ghi rõ quyết định phê duyệt tên đơn vị
trúng thầu, công trình trúng thầu, số tiền bảo lãnh, thời gian bảo lãnh. Số tiền bảo
lãnh thường là 5% giá trị trúng thầu. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng
về các sai phạm của nhà thầu, nếu nhà thầu vi phạm, ngân hàng sẽ trả cho chủ đầu
tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra trong quá trình
thực hiện hợp đồng, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của nhà
thầu về mặt kinh tế, phải thực hiện theo đúng hợp đồng thi công xây dựng đã ký với
chủ đầu tư. Nếu không thực hiện đúng hợp đồng, ngoại trừ những lý do khách quan,
thì nhà thầu sẽ mất số tiền ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy chế đấu thầu,
khi hợp đồng thi công được ký kết, chủ đầu tư sẽ chuyển cho nhà thầu ứng trước
một số tiền thưởng thường là 20% giá trị trúng thầu.
Vấn đề phát sinh từ chỗ này: Xét về mặt tài chính, khi trúng thầu, nhà thầu chỉ
cần ngân hàng bảo lãnh 5% nhưng được ứng 20% giá trị trúng thầu. Nếu nhà thầu
không quyết tâm thực hiện công trình, sau khi được ứng 20% rồi không thực hiện
hợp đồng, thì chủ đầu tư sẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được số tiền này thì
cũng mất nhiều thời gian, có khi bị thiệt hại mà công trình buộc phải dừng lại chờ
xử lý.
- Đối với bảo lãnh chất lượng công trình: Khi công trình thi công hoàn
thành, phải qua giai đoạn bảo hành, nghĩa là trong thời gian nhất định, nếu công
trình xảy ra sự cố, hư hỏng, xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ ra chi phí để sửa chữa,
hoàn thiện. Thời gian bảo hành, tùy theo qui mô công trình mà dài ngắn khác nhau,
nhưng thường là 1 năm. Như vậy, để đảm bảo cho nhà thầu bỏ chi phí ra sửa chữa
trong thời gian bảo hành, chủ đầu tư phải ràng buộc nhà thầu bằng 1 trong 2 cách:
+ Thanh toán cho nhà thầu 90-95% giá trị công trình.
+ Thanh toán cho nhà thầu 100% giá trị công trình nhưng với điều kiện phải có
bảo lãnh của ngân hàng về chất lượng công trình khoảng 5-10% giá trị công trình.
Trong thời gian bảo hành nếu chất lượng công trình không đảm bảo, nhà thầu
không sửa chữa thì chủ đầu tư sẽ dùng số tiền 5-10% đó để bù đắp chi phí sửa
chữa.
Như vậy, việc bảo lãnh bảo hành là nhằm buộc nhà thầu phải thi công đảm bảo
chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đơn vị giám sát nhưng nếu nhà
thầu không tự giác, không vì uy tín cá nhân mà chạy theo lợi nhuận, sẽ không tránh
khỏi ăn bớt vật tư, làm dối, làm không đúng qui trình kết cấu, sử dụng vật tư không
đồng bộ… dẫn tới chất lượng công trình giảm, dễ bị hư hỏng…
Tuy nhiên, thời gian bảo hành một năm là chưa phù hợp, vì tuổi thọ một số
công trình rất lớn, nên trong vòng một năm chưa thể phát hiện, đánh giá được chất
lượng công trình. Ngoài ra, với mức bảo lãnh từ 5 - 10% thì chỉ đủ để sửa chữa
những hư hỏng nhỏ. Nếu hư hỏng lớn, chi phí vượt quá tỷ lệ nói trên, thì chủ đầu tư
cũng rất khó buộc nhà thầu bỏ ra thêm chi phí để sửa chữa như đã cam kết.
Trên cơ sở thực trạng và các hạn chế của các loại hình bảo lãnh của ngân hàng
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhiều người đưa ra một số kiến nghị như sau:
+ Nâng mức bảo lãnh dự thầu khoảng 1% lên 10% nhằm chọn lọc những nhà
thầu thực sự muốn tham gia đấu thầu, hạn chế những nhà thầu “giả”.
+ Đối với bảo lãnh hợp đồng, tỷ lệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng của ngân hàng
phải tương đương với tỷ lệ vốn ứng trước của nhà đầu tư, sau khi ký hợp đồng. Quá
trình thực hiện hợp đồng, chủ đầu tư sẽ thanh toán cho nhà thầu khoảng 90% khối
lượng hoàn thành.
+ Đánh giá nhóm công trình cụ thể căn cứ vào quy mô, kết cấu, tuổi thọ công
trình. Từ đó, xây dựng từng nhóm công trình có thời gian bảo hành phù hợp: chẳng
hạn đối với nhóm A thời gian bảo hành từ 5-7 năm, nhóm B từ 3-5 năm, nhóm C từ
1-3 năm. Đồng thời nhà thầu cũng phải có bảo lãnh của ngân hàng.
+ Xây dựng cụ thể đồng bộ các luật, nghị định, thông tư, qui chế trong lĩnh
vực xây dựng cơ bản, ngân hàng và các lĩnh vực tổng hợp khác nhằm khắc phục
những khe hở, những hạn chế trong quá trình thực hiện.
5.3. Tranh luận
a. Những vấn đề còn tồn tại (hạn chế)
Ch ưa đáp ứng được tối đa nhu cầu về bảo l ãnh của khách hàng
Nhu cầu về bảo lãnh của khách hàng đang ngày càng tăng cao. Bảo lãnh NH
được xem như tấm giấy thông hành cho DN trong các hoạt động mua bán trả
chậm, vừa tạo thuận lợi cho công việc kinh doanh vừa nâng cao sự tin tưởng của
các đối tác đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên các NH chưa thể đáp ứng được nhu
cầu này cả về số lượng và chất lượng.
* Các doanh nghiệp siêu nhỏ không được bảo lãnh vay vốn
• Nhiều DN vừa và nhỏ khó thỏa mãn được các điều kiện của các ngân hàng
lớn, trong khi uy tín của các ngân hàng nhỏ thì chưa làm hài lòng cả bên
được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Vì thế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
mất đi nhiều lợi ích khi không sử dụng các dịch vụ bảo lãnh.
* Chỉ những ngân hàng thỏa mãn điều kiện của Bộ tài chính và được cấp phép
mới có quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu, trong khi nhu
cầu phát hành trái phiếu để huy động vốn của doanh nghiệp ngày càng cao.
* Quy mô bảo lãnh chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường, nơi mà giá trị và
độ phức tạp của các giao dịch ngày càng cao. Trong khi đó công tác tiếp thị,
tìm kiếm khách hàng chưa thực sự được chú trọng
* Doanh nghiệp luôn có nhu cầu về những loại hình bảo lãnh mới. Tuy nhiên,
những quy định khá ngặt nghèo của ngân hàng về tài sản bảo đảm và phương
án kinh doanh khiến ngân hàng không thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho các
trường hợp đó.
VD: Hồ sơ bảo lãnh khách hàng cần để sử dụng dịch vụ bảo lãnh của ViettinBank
là:
− Giấy đề nghị bảo lãnh
− Tài liệu về năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng,
thẩm quyền của người đại diện khách hàng.
− Các tài liệu liên quan đến nghĩa vụ đề nghị được bảo lãnh, bản giải trình
về tính khả thi, năng lực thực hiện các nghĩa vụ đề nghị được bảo lãnh.
Đối với bảo lãnh vay vốn nước ngoài hoặc bảo đảm thanh toán có kỳ hạn
trên 360 ngày, cần có thêm các văn bản chấp thuận theo quy định của
pháp luật về quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Ngân hàng Nhà nước.
Trong trường hợp cần thiết, VietinBank có thể yêu cầu thêm các tài liệu
thông tin về bên nhận bảo lãnh.
− Tài liệu báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của
khách hàng và của người bảo lãnh (nếu có).
− Hồ sơ tài sản bảo đảm nghĩa vụ được bảo lãnh kèm theo các tài liệu chứng
minh tính hợp pháp và giá trị hiện thời của các tài sản bảo đảm đó.
− Lệnh chi (trường hợp ký quỹ)
Ch ưa cân đối về cơ cấu bảo l ãnh giữa các loại bảo lãnh, giữa các doanh ngiệp quốc
doanh và ngoài quốc doanh, giữa lĩnh vực kinh doanh và lĩnh vực xây dựng xây lắp
Trong các loại bảo lãnh, bảo lãnh thực hiện hợp đồng vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn.
Trong khi đó nhiều loại hình dịch vụ bảo lãnh tiềm năng như bảo lãnh vay vốn chưa
thật sự phát triển. Việc chiếm ưu thế của bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất phát từ
thực tế trong quá trình phát triển kinh tế làm phát sinh cá hợp đồng ngày càng có
giá trị lớn, đòi hỏi phải có bảo lãnh ngân hàng để đẩy mạnh lưu thông hàng hóa,
thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sự mất cân đối trong cơ cấu các loại hình
bảo lãnh có thể khiến hoạt động bảo lãnh nói chung phát triển không bền vững, và
đang thể hiện rằng các ngân hàng chưa khai thác hết được tiềm năng ở những loại
hình bảo lãnh còn lại.
Cơ cấu bảo lãnh theo loại hình của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Đống Đa
Cơ cấu khách hàng chưa thực sự đa dạng, chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp quốc
doanh. Điều này một phần là do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thường là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu một số điều kiện để được ngân hàng bảo
lãnh, như tư cách pháp nhân, khả năng tài chính, tài sản đảm bảo… không đáp ứng
được yêu cầu của ngân hàng
Và cũng là do tâm lý các doanh nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm hơn
trong vấn đề bảo đảm thanh toán.
Cơ cấu bảo lãnh theo đối tợng khách hàng của chi nhánh NH NN&PTNT Đống
Đa
Tỷ trọng thu bảo lãnh trên tổng thu nhập còn nhỏ
Năm 2010, thu nhập từ hoạt động tín dụng của BIDV đạt xấp xỉ 29.614.234trđ, nhưng
thu nhập từ hoạt động bảo lãnh nói riêng chỉ đạt 632.246 trd, và thu nhập từ các hoạt
động dịch vụ nói chung chiếm 2.411.228 trd, chỉ bằng 8,14% thu nhập từ hoạt động tín
dụng
Còn sai sót trong quá trình theo dõi và thực hiện bảo lãnh
Đầu năm 2012, TNG và công ty CP Tư vấn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ Viễn
Đông rao bán chứng thư bảo lãnh thanh toán, không hủy ngang và không cần phải
chứng minh của Western Bank như là một tài sản đảm bảo cho khoản nợ.
Tháng 2/2012, việc công ty TNHH Cao Trường Sơn kiện Agribank chi nhánh Hồng Hà
không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là tiếng chuông lớn báo động tình trạng các ngân
hàng chưa có đủ khả năng thanh khoản để thực hiện hợp đồng bảo lãnh với giá trị lớn.
Rủi ro cho ngân hàng trong hoạt động bảo lãnh cũng đang ngày càng gia tăng
Tháng 3/2011, cơ quan an ninh đã điều tra ra vụ làm giả chứng thư bảo lãnh trị giá 18
tỷ đồng của ngân hàng TMCP Gia Định chi nhánh Bạch Đằng của Tổng GĐ công ty
Lộc Bình Phú. Vì thế, các ngân hàng ngày càng trở nên thận trọng hơn
Chi tiết các khoản công nợ tiềm ẩn của một số NHTM lớn:
Viettin Bank
Vietcombank
Quy trình bảo lãnh đôi khi còn phức tạp, gây phiền hà cho khách hàng
Dù tuân thủ chặt chẽ quy trình bảo lãnh, nhiều thủ tục và quy định có phần cứng nhắc,
không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
VD: Năm 2009, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDP) được nhà nước giao cho bảo
lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn. Tuy nhiên một số doanh nghiệp đã phải
vất vả đáp ứng mọi thủ tục của ngân hàng, song vẫn phải nhận cái lắc đầu từ phía VDP
do những bất đồng quan điểm giữa VDB và NHTM, hoặc do những lí do khác không
phải lỗi từ phía DN
b. Nguyên nhân
+ Nguyên nhân khách quan
− Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ
Hiện nay chưa có luật riêng điều chỉnh các hoạt động dịch vụ bảo lãnh. Bảo lãnh đang
được điều chỉnh bởi bộ luật Dân sự, Luật các tổ chức tín dụng, các văn bản dưới luật…
Tuy nhiên các văn bản này còn chưa đồng bộ và đầy đủ, do đó khi áp dụng vào thực
tiễn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là khi bảo lãnh vay vốn ra nước ngoài, phía ngân
hàng sẽ phải tham khảo thêm nhiều các thông lệ chung trên thị trường quốc tế để đưa
ra các điều khoản trong hợp đồng và thường gặp khó khăn trong việc giải quyết các
tranh chấp
− Môi trường kinh doanh ngày càng khó khăn và tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng đến việc
mở rộng hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng
Do các hành vi lừa đảo ngày càng tinh vi, các nghiệp vụ kinh doanh ngày càng phức
tạp, khối lượng thông tin ngày càng lớn và lượng thông tin sai lệch cũng lớn theo,
khiến cán bộ ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin về
khách hàng
− Trình độ và năng lực quản lý của các DN còn thấp
Do trình độ quản lý còn yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các
quy định về bảo lãnh, yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, về tài sản đảm bảo khiến ngân
hàng mất nhiều thời gian hơn để hướng dẫn, kiểm tra hồ sơ tài liệu của khách hàng
+ Nguyên nhân chủ quan
− Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin của ngân hàng còn chưa hợp lý. Đặc biệt các
ngân hàng nhỏ do quy mô vốn nhỏ, không được trang bị những máy móc thiết bị
hiện đại cần thiết, khiến cho quá trình kiểm tra tình hình công nợ của khách hàng,
hay quá trình thu thập thông tin của cấn bộ tín dụng gặp nhiều khó khăn. Việc đối
chiếu giữa các khâu không nhanh gọn, còn mất nhiều thời gian. Đồng thời, việc
không trang bị cơ sở hạ tầng tốt có thể làm giảm sự tin tưởng của khách hàng về uy
tín của ngân hàng và khách hàng dễ nghi ngờ về khả năng bảo lãnh của ngân hàng.
− Trình độ cán bộ nghiệp vụ còn chưa hoàn thiện.
− Có những cán bộ ngân hàng chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc nên dễ gặp
phải những sai sót nhất định, hoạt động chưa nhanh chóng, hiệu quả, có thể khiến
một số khách hàng không hài lòng. Quá trình đào tạo, nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ bảo lãnh cho các cán bộ ngân hàng chưa thực sự được chú trọng.
− Có một số nhân viên có thái độ không thực sự niềm nở thoải mái với khách hàng,
vô tình khiến khách hàng có ác cảm với ngân hàng và làm giảm uy tín của ngân
hàng.
c. Một số kiến nghị và đề xuất
+ Cần phải thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu:
* Đa dạng hóa sản phẩm bảo lãnh: NH vừa thực hiện duy trì những sản phẩm bảo
lãnh truyền thống vừa triển khai những loại hình bảo lãnh mới nhằm phục vụ tối
đa như cầu của khách hàng cũng như đáp ứng xu thế của nền kinh tế thị trường
năng động.
* Nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh đặc biệt là chất lượng ở khâu thẩm
định: công tác thẩm định giúp NH giảm thiểu được các rủi ro phát sinh như
thông tin bất cân xứng,rủi ro về các khoản nợ quá hạn
* Hoàn thiện quy trình bảo lãnh: đơn giản hóa quy trình cũng như thời gian các
bước thực hiện trong quy trình được rút ngắn nhưng vẫn đạt hiệu quả cao.
* Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vì yếu tố con người luôn luôn chi phối sự
thành công hay thất bại của không chỉ dịch vụ bảo lãnh noí riêng mà toàn bộ
hoạt động của NH nói chung.
+ Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh trong từng giai đoạn
Trong nền kinh tế thị trường theo xu hướng xã hội chủ nghĩa ở VN không chỉ ngành
ngân hàng mà tất cả mọi thành phần kinh tế ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền
kinh tế đều có những đặc điểm và những thay đổi khác nhau, chúng ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động bảo lãnh của NH. Vì vậy, trên cơ sở chính sách và đường
lối, chủ chương của Đảng và NN trong mỗi thời kỳ mà hoạt động bảo lãnh NH phải
xây dựng 1 kế hoạch phù hợp. Các kế hoạch cần chỉ rõ được vị trí cũng như cơ cấu
của các loại hình trong giai đoạn đó ví dụ như loại bảo lãnh nào nên thu hẹp, nên
duy trì và nên tập trung phát triên làm sao cho vừa đảm bảo mục tiêu hoạt động
kinh doanh của NH vừa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và xã hội. Để có 1
kế hoạch cụ thể NH cần đưa ra các bước tiến hành thực hiện kế hoạch trong điều
kiện cân đối về nguồn lực và phát huy được thế mạnh của NH trong hoạt động bảo
lãnh.
+ Mở rộng hoạt động bảo lãnh
* Đa dạng hóa các sản phẩm bảo lãnh
Hiện nay khi các mối quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp thì nhu cầu
của các doanh nghiệp về dịch vụ bảo lãnh sẽ càng tăng nhanh về số lượng và hình
thức, các NH cần nắm bắt được đặc điểm này của thị trường để có thể thiết kế ra
các gói sản phẩm phù hợp. Bên cạnh những loại hình bảo lãnh đang được cung cấp
các NH cần nghiên cứu và phát triển các loại hình mới.
Ví dụ: tại Vietinbank một số loại hình bảo lãnh mặc dù đã đưa vào thực hiện nhưng
doanh số thu được chưa cao như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh phát hành chứng khoán
và 1 số loại dịch vụ kèm theo. Doanh số của các hoạt động này chưa cao không
phải là do khách hàng không có nhu cầu mà là do NH chưa có biện pháp kích thích
KH hoặc chưa có đủ khả năng để đáp ứng nhu cầu đó. Cụ thể,NH Công Thương chi
nhánh Thanh Xuân chỉ thực hiện việc bảo lãnh vay vốn dưới hình thức tín dụng
thương mại L/C trả chậm mặc dù các DN có nhu cầu vay vốn rất lớn và để vay vốn
thì các biện pháp đảm bảo là thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh bằng uy tín của cơ quan
có thẩm quyền. Việc tiếp cận được dịch vụ là không đơn giản và loại hình thì quá
hẹp nên hoạt động này chưa thực sự đạt hiệu quả. Lý do ở đây là NH sợ rủi ro trong
bảo lãnh vay vốn.
Bên cạnh các loại bảo lãnh đã được biết đến NH cũng cần phát triển các dòng mới
có tính hỗn hợp để tạo sự thuận lợi cho KH bởi vì trên thực tế 1 quan hệ kinh tế có
thể phát sinh nhiều quan hệ bảo lãnh cùng 1 lúc.
* Mở rộng thị trường cho hoạt động bảo lãnh
Thực tế hiện nay cho thấy các KH của dịch vụ bảo lãnh chủ yếu là DN vừa và nhỏ
với những món bảo lãnh nhỏ lẻ. Chính vì vậy, các NH cần tăng cường đối tượng
KH là DN lớn vì họ là những ngừoi có nhu cầu bảo lãnh với giá trị lơn. Các NH
cũng cần mở rộng phạm vi hoạt động của dịch vụ bảo lãnh hơn nữa,lan sang cả các
lĩnh vực công nghiệp,nông nghiệp đầy triển vọng thay vì chỉ quá chú trọng vào lĩnh
vực thương mại như hiện nay.
Việc NH thực hiện đa dạng hóa thị trường là mở rộng phạm vi hoạt động và cung
cấp của dịch vụ bảo lãnh chứ không có nghĩa là bỏ quên thị trường truyền thống.
NH cần chú ý để tránh đầu tư lãng phí lan man, nên có những ưu đãi cụ thể khác
nhau cho mỗi phân khúc thị trường khác nhau.
* Thực hiện tốt công tác marketing, tăng cường thông tin đến các khách hàng và mở
rộng hoạt động bảo lãnh.
Thực tế đã chỉ ra rằng mọi loại hình kinh doanh nếu không thực hiện tốt công tác
marketing thì không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh như hiện
nay. Thực hiện công tác marketing thực chất là việc NH cần quan tâm đến nghiên
cứu thị trường bao gồm các vấn đề: đặc điểm,thị hiếu của khách hàng, nhu cầu về
dịch vụ bảo lãnh, các NH cạnh tranh… NH cần tiến hành phân đoạn thị trường để
có thể xác định đoạn thị tường mục tiêu cũng như chính sách phù hợp với mỗi đoạn
thì trường.
Ví dụ: với khách hàng truyền thống nên áp dụng chính sách ưu đãi và nên linh hoạt
trong việc xử lý vì các KH này đã có quan hệ lâu dài. Hay với các DN lớn,có uy tín
làm ăn lâu dài và đang tham gia đấu thầu các công trình trọng điểm của Nhà Nước
cũng nên ưu tiên xem xét trước…việc linh hoạt giả quyết tình huống là rất cần
thiết,tránh cứng nhắc để tăng cường lợi ích cho cả KH và NH
NH cần nâng cao hình ảnh của mình hơn nữa đặc biệt là thông qua cán bộ nghiệp
vụ-người trực tiếp giao dịch với KH. Các cán bộ nghiệp vụ cần tỏ thái đội niềm nở
và tư vấn tận tình khi KH có khúc mắc. Để thu thập thêm thông tin về KH cũng như
tạo mối quan hệ tốt đẹp NH có thể tổ chức các buổi tọa đàm chia sẽ với KH để hiểu
KH đang cần gì và từ đó hoàn thiện sản phẩm hơn nữa.
* Nâng cao uy tín của NH với các NH khác để đấy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh
Với các khoản bảo lãnh vượt quá khả năng thực hiện của 1 ngân hàng thì việc đồng
bảo lãnh là điều cần thiết. Vị trí của NH trong ngành NH sẽ quyết định đến khả
năng hợp tác để tham gia đồng kiểm soát cũng như những lợi ích thu được từ hoạt
động đồng kiểm soát. Nếu NH không có uy tín và vị thế thì việc mời các NH lớn
tham gia đồng kiểm soát là khó khăn và bị động,quan trọng hơn NH sẽ hầu như
không có cơ hội tham gia đồng kiểm soát nếu như họ không chủ động nắm bắt được
các dự án lớn.
+ Nâng cao chất lượng các hoạt động bảo lãnh
* Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng
Nghiệp vụ bảo lãnh thực chất là một hình thức của nghiệp vụ tín dụng nhưng quan
hệ vay mượn ở đây chỉ thực sự phát sinh khi NH phải thực hiện nghĩa vụ đã cam
kết trong hợp đồng bảo lãnh. Việc bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa
vụ với bên nhận bảo lãnh sẽ buộc NH có trách nhiệm bồi thường và khoản bồi
thường đó sẽ được thu hồi từ bên được bảo lãnh. Xác suất mà bên đưuọc bảo lãnh
không thanh toán là lớn nên rủi ro của bảo lãnh cao. Chính vì vậy công tác thẩm
định trước khi chấp nhận bảo lãnh là cơ sở đê NH giảm thiểu rủi ro. Cán bộ thẩm
đinh nên sử dụng thong tin đa chiều để không gặp rủi ro thong tin bất cân xứng.
* Bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ.
Chất lượng của đội ngũ cán bố sẽ tạo sự thuận tiện và niềm tin của KH khi sử dụng
dịch vụ của NH.việc đào tạo chuyên môn nên tập trung vào:
+) Đào tạo bài bản và có hệ thống các vấn đề cơ bản cho tất cả nhân viên. Đối với cán
bộ nghiệp vụ cần đào tạo chuyên sâu và tập trung.;
+) Phương thức đào tạo có thể là mở lớp tại ngay NH hoặc cử người đi học bên ngoài;
+) Tổ chức sắp xếp công việc phù hợp với trình độ và năng lực;
+) Yêu cầu cơ bản về trính độ ngoại ngữ và tin học.
* Hoàn thiện quy trình để đảm bảo nghiệp vụ được thực hiện nhanh gọn, đơn giản
nhưng đúng đắn.
* Đưa công nghệ vào phục vụ bảo lãnh để tạo sự thuận tiện cho khách hàng khi sử
dụng dịch vụ và yêu thích sự phục vụ của ngân hàng.
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh chưa phát huy hết
tác dụng của nó. Điều này đòi hỏi các nhà làm chính sách cần phải xem xét điều
chỉnh kịp thời và ban hành 1 số chính sách đồng bộ, chặt chẽ và phù hợp với nhu
cầu phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Việc nghiên cứu cho ra
đời các bộ luật quy định cụ thể về bảo lãnh như: nội dung, phạm vi điều chỉnh, các
hình thức xử phạt, thủ tục kiện tụng. sẽ tạo điều kiện cho nước ngoài tham gia đầu
tư tại VN, các đơn vị trong nước hiểu rõ hơn, hạn chế việc nhiễm luật điều chỉnh
của nước ngoài.
Ví dụ: Đối với bảo lãnh chất lượng công trình xây dựng: Khi công trình hoàn thành,
phải qua giai đoạn bảo hành, nghĩa là trong thời gian nhất đinh, nếu công trình có
sảy ra sự cố, hư hỏng, xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ chi phí ra để sửa chữa, hoàn
thiện. Thời gian bảo hành thường là 1 năm tùy theo quy mô công trình lớn nhỏ. Để
đảm bảo ràng buộc chủ thầu sẽ bỏ chi phí để sửa chữa trong thời gian bảo hành thì
chủ đầu tư ràng buộc 1 trong 2 cách:
Cách 1: Thanh toán cho nhà thầu 90%-95% giá trị công trình
Cách 2: Thanh toán 100% giá trị công trình với điều kiện phải có bảo lãnh ngân
hàng về chất lượng công trình với giá trị bảo lãnh khoảng 5%-10% giá trị công
trình. Trong thời gian bảo hành nếu công trình có trục trặc mà nhà thầu không bỏ
chi phí thì nhà đầu tư sẽ lấy khoản bảo lãnh làm chi phí sử chữa.vấn đề ở đây là với
1 công trình có tuổi thọ rất cao thì 1 năm bảo hành là quá ngắn vì trong 1 năm đó
chưa thể phát hiện và đánh giá được chất lượng công trình. Ngoài ra với mức bảo
lãnh 5%-10% thì chỉ đủ chi phí sửa chữa những hư hỏng nhỏ và tất nhiên với những
hư hỏng lớn thì nhà đầu tư hoàn toàn không thể yêu cầu thêm chi phí => việc bảo
lãnh gần như là không cần thiết và không thực hiện được vai trò của nó.
Để khắc phục tình trạng trên thì một số người đã cho rằng nên đánh giá nhóm công
trình cụ thể căn cứ vào quy mô, kết cấu, tuổi thọ công trình và từ đó xây dựng thời
gian bảo hành hợp lý cho từng nhóm công trình chẳng hạn như với nhóm A thời
gian bảo hành từ 5-7 năm, nhóm B là từ 3-5 năm, nhóm C là từ 1-3 năm. Đồng thời
nhà thầu phải có sự bảo lãnh của NH.