ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
PHẠM THỊ HIỀN
THÈM QUN CđA HéI §åNG XÐT Xư PHóC THÈM
§èI VíI BảN áN HìNH Sự SƠ THẩM
THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh S¬n La)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2022
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
PHẠM THỊ HIỀN
THÈM QUN CđA HéI §åNG XÐT Xư PHóC THÈM
§èI VíI BảN áN HìNH Sự SƠ THẩM
THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh S¬n La)
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HẢI NINH
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật xem
xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Hiền
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI
ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM ĐỐI VỚI BẢN ÁN HÌNH SỰ SƠ
THẨM ........................................................................................................... 8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
đối với bản án hình sự sơ thẩm ................................................................... 8
Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm ....................................................... 15
1.2.1. Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội.................................................................. 15
1.2.
1.2.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý ................................................................................ 16
1.3.
Cơ sở quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối
với bản án hình sự sơ thẩm ....................................................................... 18
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4.
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự .................................................. 18
Sự phân định các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự .......................... 22
Sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................. 22
Tính chất của xét xử phúc thẩm và nhiệm vụ của Tòa án cấp phúc
thẩm trong tố tụng hình sự ........................................................................... 23
1.3.5. Quyền kháng cáo, kháng nghị ...................................................................... 24
Kết luận chƣơng 1 ................................................................................................... 25
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT
XỬ PHÚC THẨM ĐỐI VỚI BẢN ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM............... 26
2.1.
2.2.
Khơng chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ
thẩm ............................................................................................................. 26
Sửa bản án sơ thẩm .................................................................................... 28
2.2.1. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo........................................ 28
2.2.2. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo ............................ 40
2.3.
Huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại................................. 47
2.3.1. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại ............................................................... 47
2.3.2. Hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ................................................................. 52
2.4.
Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án ..................................................... 56
2.4.1. Hủy bản án sơ thẩm, tun bị cáo khơng có tội và đình chỉ vụ án .............. 57
2.4.2. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án ......................................................... 58
2.5.
Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm ................................................................. 64
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 65
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN
CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM TẠI TỈNH SƠN LA
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC THỰC HIỆN .................. 66
3.1.
Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản
án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Sơn La .......................................................... 66
3.1.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm ....................... 66
3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân ............................................... 73
Một số giải pháp bảo đảm việc thực hiện thẩm quyền của Hội
đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm......................... 82
3.2.1. Hoàn thiện quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
đối với bản án hình sự sơ thẩm .................................................................... 83
3.2.2. Các giải pháp khác ....................................................................................... 89
Kết luận chƣơng 3 ................................................................................................... 92
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 95
3.2.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:
Bộ luật dân sự
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
HĐXX:
Hội đồng xét xử
TAND:
Tòa án nhân dân
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Bảng
Bảng số liệu thống kê tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự
3.1
phúc thẩm tại TAND tỉnh Sơn La từ năm 2018 đến năm
Trang
2021
66
Bảng
3.2
Bảng thống kê số liệu kết quả giải quyết án hình sự phúc
thẩm tại TAND tỉnh Sơn La từ năm 2018 đến năm 2021
67
Bảng
3.3
Bảng thống kê số liệu các bị cáo sửa án theo thủ tục phúc
thẩm tại TAND tỉnh Sơn La từ năm 2018 đến năm 2021
68
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, việc xét xử vụ án hình sự được bảo đảm thực hiện bởi hai cấp xét
xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản
của tố tụng hình sự được quy định tại Điều 27 BLTTHS năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2021 (sau đây gọi tắt là BLTTHS năm 2015). Điều này phù hợp với quy định
của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã
gia nhập: “Bất kỳ người nào bị kết án về một tội phạm đều có quyền yêu cầu tòa án
cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp
luật”. Chế độ xét xử phúc thẩm góp phần bảo đảm cho việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót có thể xâm
phạm quyền con người, quyền cơng dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong các quy định tại Chương XXII BLTTHS năm 2015 về xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự, quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án
hình sự sơ thẩm đóng vai trò rất quan trọng, là khung pháp lý để HĐXX thực hiện
quyền hạn ở giai đoạn xét xử phúc thẩm với nhiệm vụ xét xử lại vụ án về mặt nội
dung, kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hình sự sơ thẩm.
Thơng qua việc thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm, những bản án sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng sẽ được HĐXX phúc
thẩm kiểm tra, phát hiện và sửa chữa kịp thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, đảm bảo công lý được thực thi. Thẩm quyền của HĐXX phúc
thẩm được phân định rõ ràng, khoa học, sát với thực tế sẽ bảo đảm xét xử phúc
thẩm khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội.
Thực tiễn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của TAND tỉnh Sơn La trong
thời gian qua cho thấy việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự bên cạnh những kết
quả đạt được còn tồn tại những hạn chế nhất định. Quy định của BLTTHS năm
2015 về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm vẫn còn
bộc lộ một số bất cập, vướng mắc. Bên cạnh đó, việc thực hiện quy định của
1
BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự
sơ thẩm đơi khi chưa được đảm bảo. Các bất cập này ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử của Tòa án. Bên cạnh nguyên nhân khách
quan xuất phát từ pháp luật thực định, cịn có những ngun nhân khác như số
lượng án lớn, tính chất của các vụ án ngày càng phức tạp, một số vướng mắc về
nghiệp vụ chuyên môn chưa được hướng dẫn kịp thời, lề lối làm việc hay một số
Thẩm phán chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử phúc thẩm … .
Thực tế trên cho thấy việc nghiên cứu về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm
đối với bản án hình sự sơ thẩm là vấn đề rất cần thiết. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề
tài: “Thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Sơn La)” làm
luận văn thạc sĩ luật học của mình với mong muốn làm rõ những vấn đề lý luận,
phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn
La, từ đó đưa ra giải pháp bảo đảm thực hiện, hoàn thiện quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm, nâng cao chất lượng công tác
xét xử, giúp cho thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự phát huy được tầm quan
trọng - là công cụ để bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu sót, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
những người tham gia tố tụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét xử phúc thẩm là một khâu quan trọng trong tố tụng hình sự nên có nhiều
cơng trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ hoặc các bài báo
nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài này. Trong đó, thẩm quyền của HĐXX
phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm đã có một số cơng trình nghiên cứu đề
cập đến. Cụ thể như sau:
Những vấn đề chung về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm được đề
cập đến trong một số giáo trình, tài liệu chuyên ngành như: Giáo trình Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2019; Giáo trình Luật Tố
2
tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2018; Giáo
trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội năm
2016; sách chuyên khảo Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi
mới thủ tục tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp do tác giả Lê Hữu Thể - Đỗ
Văn Đương – Nguyễn Thị Thuỷ đồng chủ biên, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật
năm 2013; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do tác giả Trần
Văn Biên – Đinh Thế Hưng chủ biên, NXB Hồng Đức năm 2016; Bình luận khoa
học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do tác giả Nguyễn Ngọc Anh – Phan Trung
Hồi đồng chủ biên, NXB Chính trị quốc gia Sự thật năm 2018; Bình luận khoa học
Bộ luật Tố tụng hình sự (hiện hành) do tác giả Nguyễn Đức Mai chủ biên, NXB
Chính trị quốc gia Sự thật năm 2019; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 do tác giả Phạm Mạnh Hùng chủ biên, NXB Lao động năm 2019 v.v...
Một số luận án, luận văn ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp đã đề
cập đến thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Trong đó, dưới góc độ luận án
có thể kể đến: Luận án tiến sĩ “Thẩm quyền của Toà án các cấp trong tố tụng hình
sự” năm 2002 của tác giả Nguyễn Văn Huyên, luận án tiến sĩ “Phúc thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam” năm 2004 của tác giả Nguyễn Đức Mai, luận án tiến sĩ
“Nguyễn tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2008 của tác giả
Vũ Gia Lâm, luận án tiến sĩ “Hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong tố tụng hình sự” năm 2015 của tác giả Mai Thanh Hiếu v.v...
Dưới góc độ luận văn thạc sĩ có một số cơng trình nghiên cứu sau: luận văn
thạc sĩ “Phạm vi xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân theo Bộ luật TTHS 2003”
năm 2007 của tác giả Ngô Thị Trang, “Phạm vi xét xử phúc thẩm và thẩm quyền
của Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2007 của
tác giả Bùi Ngọc Hòa, luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” năm 2010 của tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng,
luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân theo Luật tố tụng hình sự
Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn
tỉnh Nam Định)” năm 2014 của tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết, luận văn thạc sĩ
3
“Quyền sửa bản án sơ thẩm của Toà án phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003” năm 2015 của tác giả Hoàng Thị Giang Thanh, luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền
của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam” năm 2016 của tác giả Vũ Thị Uyên, luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền xét xử
phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” năm 2017 của tác giả Nguyễn
Xuân Quang, luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với
bản án hình sự sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội” năm 2020 của tác giả Trần Thị Hương Lan, luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại
Tòa án nhân dân cấp cao” năm 2020 của tác giả Đặng Thị Xn Thành v.v...
Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý chuyên
ngành như: “Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí
Luật học số 5/1999 của tác giả Hoàng Thị Sơn; “Phạm vi xét xử và quyền sửa bản
án sơ thẩm”, Tạp chí Luật học số 5/2010 và “Quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng
khơng có lợi cho bị cáo về phần hình sự của Tịa án cấp phúc thẩm”, Tạp chí Luật
học số 4/2011 của tác giả Vũ Gia Lâm; “Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng điều khoản
Bộ luật TTHS về tội nặng hơn – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Tịa án
nhân dân số 5/2008 của tác giả Đinh Văn Quế; “Khái niệm hiệu lực của kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học số
01/2015, “Khơng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự trong xét xử phúc
thẩm”, Tạp chí Luật học số 10/2015 và “Quyền sửa bản án sơ thẩm của Toà án cấp
phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 05/2019 của tác giả
Mai Thanh Hiếu; “Bàn về phạm vi xét xử phúc thẩm”, Tạp chí Kiểm sát số 21/2019
của tác giả Nguyễn Nông; “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số
09/2021 của tác giả Nguyễn Hải Ninh; “Về giới hạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”,
Tạp chí Kiểm sát số 04/2022 của tác giả Hồng Đình Dũng v.v...
Những cơng trình nghiên cứu trên, ở những mức độ khác nhau đã đề cập đến
4
một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối
với bản án hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, những nghiên cứu về thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm trên đây hầu hết mới chỉ dừng lại ở các cơng trình nghiên cứu về
một số vấn đề trong chế định thẩm quyền xét xử của Tòa án hoặc là được thể hiện
một phần trong nội dung các cơng trình nghiên cứu khác. Và cho đến nay, chưa có
tác giả nào nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc
thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Sơn La. Mặt khác, những vấn
đề lý luận về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm vẫn
cần được tiếp tục nghiên cứu.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Thẩm
quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Sơn La)” là đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có ý nghĩa về lý luận, vừa có ý nghĩa về thực tiễn. Luận văn này
sẽ kế thừa và phát triển những vấn đề lý luận của những cơng trình nghiên cứu
trước, phân tích những quy định của BLTTHS năm 2015 trên cơ sở so sánh với
BLTTHS năm 2003 và đánh giá thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Sơn La, từ đó đề xuất
những giải pháp hồn thiện, nâng cao chất lượng thực hiện thẩm quyền của HĐXX
phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm và
thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm tại tỉnh Sơn La.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Phạm vi về nội dung: nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 và so
sánh với BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm và thực tiễn thi
hành.
+ Phạm vi về không gian: tỉnh Sơn La.
+ Phạm vi về thời gian: giai đoạn 2018-2021.
5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích
quy định của BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản
án hình sự sơ thẩm và thực tiễn thi hành tại tỉnh Sơn La, từ đó đưa ra giải pháp bảo
đảm thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm,
nâng cao chất lượng cơng tác xét xử phúc thẩm.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ các vấn đề lý luận về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với
bản án hình sự sơ thẩm: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của việc quy định
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
+ Phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền của HĐXX
phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm và có sự so sánh với BLTTHS năm 2003.
+ Đánh giá thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm
đối với bản án hình sự sơ thẩm tại tỉnh Sơn La thời gian qua.
+ Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền
của HĐXX phúc thẩm và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền con người, về cải cách tư pháp và
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, khảo sát ý
kiến chuyên gia... Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, tác giả nghiên cứu các bản
án và hồ sơ vụ án.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống, tương đối toàn diện và
đầy đủ, góp phần làm sáng tỏ và bổ sung những vấn đề lý luận về thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm và thực tiễn thi hành quy định về
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm, từ đó rút ra
những giá trị tiến bộ và một số hạn chế của BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền của
Hội đồng xét xử phúc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc
góp phần đưa ra nhận thức đúng đắn, thống nhất về thẩm quyền của Hội đồng xét
xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả luận văn sẽ góp phần thiết thực để BLTTHS năm 2015, trong đó có
chế định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm đi
vào thực tế, tạo ra những kết quả tốt cho công tác xét xử; nâng cao hiệu quả thực
hiện các quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm ở Việt Nam nói chung và
tại tỉnh Sơn La nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu
của các học viên ở các bậc học thuộc cơ sở đào tạo luật. Đồng thời, luận văn còn là
tài liệu tham khảo đối với các cơ quan và người dân tại tỉnh Sơn La khi nghiên cứu
tìm hiểu quy định của pháp luật về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản
án hình sự sơ thẩm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương 1: Một số vấn lý luận về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
Chương 3: Thực tiễn thi hành quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử
phúc thẩm tại tỉnh Sơn La và một số giải pháp bảo đảm thực hiện.
7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG
XÉT XỬ PHÚC THẨM ĐỐI VỚI BẢN ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
đối với bản án hình sự sơ thẩm
Việc nghiên cứu và đưa ra khái niệm về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm
đối với bản án hình sự sơ thẩm có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực
hiện các quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm.
HĐXX phúc thẩm là chủ thể trực tiếp thực hiện việc xét xử tại Toà án cấp
phúc thẩm. Vì vậy, khái niệm thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm cần được xác định
dựa trên cơ sở khái niệm thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm. Trước hết, cần tìm
hiểu thẩm quyền của Tồ án là gì?
“Thẩm quyền” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp
lý. Theo Từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là “quyền xem xét để kết luận và định
đoạt một vấn đề theo pháp luật” [58, tr.922]. Theo Từ điển Luật học thì thẩm quyền
là “tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức
thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định” [53, tr.459]. Theo Giáo
trình Luật tố tụng hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thẩm quyền là
“quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và công chức giữ
chức vụ nhà nước nhất định” [50, tr.29]. Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì “phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các
cơ quan nhà nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước đó” [51, tr.57]. Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên thì “thẩm quyền là tổng hợp các
quyền mà pháp luật quy định cho một tổ chức hoặc một cán bộ, công chức nhà nước
được thực hiện công việc trong các lĩnh vực và phạm vi nhất định” [22, tr.12]. Mặc dù
có nhiều cách đưa ra khái niệm khác nhau về thẩm quyền, tuy nhiên tựu chung đều
có thể thấy khái niệm thẩm quyền phải gắn với một chủ thể nhất định và thẩm
quyền phải do pháp luật quy định. Theo ý kiến của tác giả, thẩm quyền có thể được
8
hiểu là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một chủ thể nhất định được
thực hiện công việc trong một lĩnh vực, phạm vi nhất định.
Theo Từ điển Luật học, thẩm quyền của Toà án là “quyền xem xét và quyền
giải quyết vụ án (bao gồm ra bản án và các quyết định khác) trong hoạt động xét xử
của Toà án theo quy định của pháp luật” [54, tr.701]. Tác giả Nguyễn Đức Mai cho
rằng, thẩm quyền của Toà án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan
chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm
quyền về hình thức được thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét của Toà án
(thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về nội dung thể hiện ở quyền
hạn giải quyết, quyết định của Toà án đối với những vấn đề đã được xem xét [26, tr.2].
Theo tác giả Nguyễn Văn Hun thì “thẩm quyền của Tồ án là tổng hợp các quyền
mà pháp luật quy định cho Toà án được xét xử những vụ án cụ thể và quyết định đối
với các vấn đề về nội dung vụ án hoặc đảm bảo cho việc xét xử trong giới hạn hoặc
phạm vi nhất định” [22, tr.22]. Thẩm quyền của Tồ án là một chế định lớn trong tố
tụng hình sự bao gồm những nội dung chính sau:
- Thẩm quyền về xét xử, để xác định Tồ án nào có thẩm quyền xét xử một
vụ án cụ thể, Toà án được xét xử những vụ án nào.
- Giới hạn và phạm vi xét xử, để xác định quyền của Toà án được xem xét
những vấn đề gì khi xét xử.
- Thẩm quyền quyết định, để xác định quyền hạn giải quyết những vấn đề về
nội dung vụ án đã được xem xét, những vấn đề đảm bảo cho việc xét xử hoặc các
vấn đề khác của tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động xét xử.
Thẩm quyền xét xử, giới hạn và phạm vi xét xử là cơ sở để xác định thẩm
quyền quyết định của Tồ án vì Tồ án chỉ có thể quyết định những vấn đề trong
phạm vi cho phép và đã được xem xét. Mặt khác, những vấn đề thuộc thẩm quyền
xem xét của Toà án cũng chỉ có ý nghĩa khi được giải quyết bằng những quyết định
của Hội đồng xét xử [22, tr.21].
Các cách nhìn nhận trên đều cho thấy điểm chung về thẩm quyền của Toà án
được thừa nhận là tập hợp các quyền khác nhau của Toà án bao gồm: quyền xem
9
xét giải quyết vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền về hình thức)
và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó (thẩm quyền về
nội dung). Quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải
quyết vụ việc đó là hai nội dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo
thành thẩm quyền của Tồ án. Theo đó, thẩm quyền của Tồ án có thể được hiểu là
tập hợp các quyền mà pháp luật quy định cho Toà án được xem xét và quyết định
những vấn đề về nội dung của vụ việc.
Trong tố tụng hình sự, thẩm quyền của Tồ án cấp phúc thẩm cũng bao gồm
hai mặt có mối quan hệ biện chứng với nhau: thẩm quyền về nội dung và thẩm
quyền về hình thức. Thẩm quyền về hình thức của Tồ án cấp phúc thẩm xác định các
vụ án hình sự, các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm nào thuộc thẩm quyền
xem xét của Toà án và phạm vi, mức độ xem xét của Toà án cấp phúc thẩm đối với vụ
án đó. Thẩm quyền về nội dung của Toà án cấp phúc thẩm xác định các quyền của Toà
án cấp phúc thẩm trong việc quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án khi xem xét lại bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị.
Để đưa ra được khái niệm “thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án
hình sự sơ thẩm”, cần làm rõ một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Tồ án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là Tồ án cấp trên trực
tiếp của Toà án đã xét xử sơ thẩm, cụ thể: TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử
phúc thẩm bản án của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị; TAND cấp cao
có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị; Tồ án qn sự cấp qn khu có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án của Toà án quân sự khu vực bị kháng cáo,
kháng nghị; Toà án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án của
Toà án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại khoản 1
Điều 29, khoản 2 Điều 37, khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56 Luật Tổ chức TAND
năm 2014 và Điều 344 BLTTHS năm 2015.
Tại Toà án cấp phúc thẩm, chủ thể trực tiếp tiến hành thủ tục xét xử phúc
10
thẩm tại phiên toà phúc thẩm và ra bản án để giải quyết vụ án hình sự theo sự phân
cơng của Chánh án Toà án cấp phúc thẩm là HĐXX phúc thẩm. HĐXX phúc thẩm
bao gồm ba Thẩm phán, tuy nhiên việc xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn sẽ do
một Thẩm phán tiến hành.
So với HĐXX sơ thẩm, HĐXX phúc thẩm có những điểm khác biệt như
khơng có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, số lượng Thẩm phán tham gia xét xử
nhiều hơn hay trình độ của Thẩm phán tham gia xét xử cao hơn. Điều này xuất phát
từ tính chất của xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, HĐXX phúc thẩm có nhiệm
vụ kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật, khắc phục kịp thời những thiếu sót, vi phạm của Tồ án cấp sơ
thẩm. Đồng thời, thông qua việc xét xử các vụ án, HĐXX phúc thẩm cũng hướng dẫn
cho Toà án cấp dưới và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác trong việc
nhận thức, áp dụng pháp luật đúng đắn, thống nhất. Do đó, thành phần HĐXX phúc
thẩm địi hỏi tính chun mơn cao, có nhiều kinh nghiệm so với HĐXX sơ thẩm.
Thứ hai, về cơ sở phát sinh thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm phát sinh theo nhiệm vụ giải quyết từng
vụ án cụ thể, theo sự phân cơng của Chánh án Tồ án cấp phúc thẩm khi có kháng
cáo, kháng nghị hợp lệ đối với bản án hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
bởi những chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị. Những kháng cáo, kháng nghị
hợp lệ khiến cho vụ án hình sự trở thành đối tượng cần được xem xét theo thủ tục
phúc thẩm, đó là cơ sở đầu tiên phát sinh thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Kháng
cáo, kháng nghị được coi là hợp lệ khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện về: đối tượng
của kháng cáo, kháng nghị; chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị; phạm vi kháng
cáo, kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị (bao gồm kháng cáo quá hạn
nhưng có lý do chính đáng và được Hội đồng xét kháng cáo quá hạn chấp nhận) và
hình thức kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. “Về hình thức, kháng
cáo, kháng nghị phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp cao hơn; về nội
dung, kháng cáo, kháng nghị phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của tòa án cấp xét
xử thứ hai đồng thời là cấp xét xử cuối cùng” [14, tr.24].
11
Thứ ba, về đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Cần phải khẳng định đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm không phải
là những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà chính là các vụ án hình sự
bởi HĐXX phúc thẩm khơng chỉ xem xét lại bản án mà còn xét xử lại vụ án về mặt
nội dung, xác định lại thực chất vụ án. HĐXX phúc thẩm có thẩm quyền xem xét và
quyết định đối với vụ án hình sự mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị mà khơng có kháng cáo, kháng nghị. Khi đó, vụ án hình
sự khơng phải là đối tượng có thể được xem xét theo thủ tục phúc thẩm nữa. Nếu
sau đó phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án
hoặc có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án sơ thẩm mà
Tồ án cấp sơ thẩm khơng biết được khi ra bản án đó thì bản án sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật có thể trở thành đối tượng xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ tư, về nội dung thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, HĐXX phúc thẩm sẽ tiến hành
xem xét lại bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Theo đó, thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm gồm có hai nội dung là xét xử lại vụ án về nội dung và kiểm tra
tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm, từ đó ra quyết định giải quyết vụ
án. Thứ nhất, HĐXX phúc thẩm tiến hành xét xử lại vụ án về nội dung, tức là xem
xét, đánh giá lại sự thật của vụ án trên cơ sở tất cả những chứng cứ đã được cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập ở những giai đoạn trước và chứng cứ mới
được bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Thứ hai, HĐXX phúc thẩm kiểm
tra tính hợp pháp (thể hiện ở việc bản án phù hợp với quy định của pháp luật nội
dung cũng như pháp luật hình thức) và tính có căn cứ (thể hiện ở việc kết luận trong
bản án phù hợp với những sự kiện thực tế của vụ án trên cơ sở chứng cứ được thu
thập kiểm tra, đánh giá theo quy định của pháp luật).
Trong quá trình kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm có thể phát hiện những sai lầm
trong việc áp dụng pháp luật hình sự, những vi phạm trong việc áp dụng pháp luật
12
tố tụng hình sự của Tồ án cấp sơ thẩm để sửa chữa những sai lầm, vi phạm, bảo đảm
cho pháp luật được áp dụng một cách đúng đắn và thống nhất, nâng cao trách nhiệm
và chất lượng xét xử của Tồ án cấp sơ thẩm, qua đó góp phần bảo đảm không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, về phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, HĐXX phúc thẩm được Nhà
nước trao cho quyền năng đưa ra các quyết định để giải quyết vụ án, đồng thời cũng
hạn chế quyền năng đó trong một giới hạn nhất định gọi là phạm vi xét xử phúc thẩm.
Trước hết, việc thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm bị ảnh hưởng
bởi giới hạn xét xử sơ thẩm vì bản chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án
trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị. Khi đề cập đến phạm vi thực hiện thẩm quyền
của Tòa án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm các nghiên cứu cơ bản
đều khẳng định “Không thể phúc thẩm một số vấn đề mà vấn đề đó chưa được sơ
thẩm” [13, tr.21, 23] và “Phạm vi xét xử phúc thẩm không được vượt quá phạm vi
của xét xử sơ thẩm, tức là toà án cấp phúc thẩm chỉ được xem xét những vấn đề mà
toà án sơ thẩm quyết định” [36, tr.395]. Giới hạn xét xử sơ thẩm gồm giới hạn xét xử
theo sự việc và giới hạn xét xử theo chủ thể. Vì vậy thẩm quyền của Tịa án cấp phúc
thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm theo cả sự việc và chủ thể được xác định: “Phạm vi
xét xử theo trình tự phúc thẩm chỉ có thể là những bị can và những hành vi phạm pháp
đã bị truy tố và đã xét xử trước tòa án sơ thẩm” [62, tr.21]; “Trên cơ sở giới hạn xét xử
theo chủ thể, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những bị cáo mà VKS
truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử. Trên cơ sở giới hạn xét
xử theo sự việc, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử đối với những hành vi mà VKS
truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đưa ra xét xử” [12, tr.32]. Pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam không quy định giới hạn xét xử sơ thẩm về vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự.
Tuy nhiên, HĐXX phúc thẩm không phải bao giờ cũng xem xét đầy đủ, toàn
diện những vấn đề do Toà án cấp sơ thẩm quyết định mà phạm vi xét xử phúc thẩm
13
còn được xác định dựa trên cơ sở phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị. “Kháng
cáo, kháng nghị giới hạn việc thực hiện thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm trong
giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của pháp luật” [14, tr.26].
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, HĐXX phúc thẩm xem
xét phần nội dung của bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với những phần khác
của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị, HĐXX phúc thẩm chỉ xem xét khi xét
thấy cần thiết (Điều 345 BLTTHS năm 2015). Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành khơng hướng dẫn cụ thể trường hợp nào được coi là “xét thấy cần thiết”.
Có quan điểm cho rằng cần nhận thức quy định “xét thấy cần thiết” là: (i) Khi việc
xem xét phần bản án sơ thẩm khơng có kháng cáo, kháng nghị vì nó cần thiết cho
việc xét xử phần bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị; (ii) Khi có cơ sở để có
thể xem xét, áp dụng pháp luật theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có lợi cho
bị cáo; (iii) Khi có căn cứ cho rằng phần bản án sơ thẩm tuy khơng có kháng cáo,
kháng nghị nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật [29, tr.24]. Theo tác giả, dựa trên
quy định của BLTTHS hiện hành về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản
án sơ thẩm, có thể hiểu “xét thấy cần thiết” là những trường hợp như: phần bản án
sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có liên quan đến phần bản án sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị; có căn cứ để sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho
những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị; có căn cứ huỷ
bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Đây cũng là điểm
khác biệt của xét xử phúc thẩm so với các thủ tục khác. Khi xét xử sơ thẩm, giới
hạn xét xử của Tòa án phụ thuộc vào phạm vi truy tố của VKS, còn ở thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải xem xét tồn bộ vụ án mà khơng hạn chế trong nội
dung của kháng nghị.
Trước đây, tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 08/12/1988
của TAND tối cao và VKSND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong
BLTTHS hướng dẫn: “Trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng
cáo, kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo” [48].
14
Tuy nhiên có thể thấy việc giải thích “trường hợp cần thiết” theo thông tư trên là
chưa đầy đủ, không đúng với tinh thần của BLTTHS hiện hành.
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm về chủ thể, đối tượng, thẩm quyền, nội
dung, phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm có thể đưa ra khái niệm về
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm như sau: Thẩm
quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm là tổng hợp các quyền
mà pháp luật quy định cho HĐXX phúc thẩm được xem xét và quyết định trong
phạm vi xét xử phúc thẩm đối với vụ án hình sự mà bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trên cơ sở xem xét lại tính hợp pháp và tính có
căn cứ của bản án đó.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm
Việc quy định và thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án
hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng ở nhiều phương diện.
1.2.1. Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội
Ở nước ta, nhu cầu bức thiết của nhân dân về một nền tư pháp dân chủ, cơng
minh trong q trình đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã thúc đẩy hình thành quan điểm cải cách tư pháp theo hướng khẳng
định vị trí trung tâm của Tịa án trong hệ thống tư pháp. Tòa án là nơi biểu hiện tập
trung nhất của quyền tư pháp bởi Tòa án là cơ quan duy nhất thông qua hoạt động
xét xử, nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét cuối cùng đảm bảo sự công bằng và
bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật. Bản án sơ thẩm của Tịa án có vi
phạm, sai lầm nghiêm trọng sẽ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực thi pháp luật,
không bảo vệ được công lý. Thông qua việc kiểm tra, phát hiện và sửa chữa những
sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm, HĐXX phúc thẩm góp phần bảo đảm pháp luật
được áp dụng đúng đắn, thống nhất, duy trì trật tự pháp luật, đấu tranh phịng,
chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân và suy cho cùng bảo đảm sự ổn định chung của toàn xã hội.
15
Thông qua phán quyết về việc giải quyết vụ án, Tịa án duy trì cơng lý trong
xã hội. Tịa án là nơi thể hiện công lý, thể hiện chất lượng và uy tín của hệ thống tư
pháp. Việc bản án sơ thẩm kết án người khơng có hành vi phạm tội hoặc quyết định
hình phạt q nặng, khơng tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
do hành vi phạm tội gây ra sẽ hình thành tâm lý bất mãn, chống đối, không tâm
phục, khẩu phục. Ngược lại, việc bỏ lọt tội phạm hay quyết định mức hình phạt quá
nhẹ lại tạo thái độ coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước. HĐXX phúc thẩm
vừa xét xử lại vụ án về nội dung, vừa kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ
của bản án sơ thẩm. Qua đó, quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với
bản án hình sự sơ thẩm đảm bảo vụ án hình sự được giải quyết khách quan, chính
xác, giúp cho cơng lý được thực thi, góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của mỗi
công dân và củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp,
với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó, xác định cụ thể thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản
án hình sự sơ thẩm để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự là góp phần
vào việc thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp, xác định Tịa án có
vị trị trung tâm, xét xử là trọng tâm theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp: “[...] xác định rõ hơn
vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng theo hướng đảm bảo công khai, dân chủ, văn minh [...]” [5], cũng như nhiệm
vụ trọng tâm được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm
phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng
thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội […]” [11]
và đề án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
1.2.2. Ý nghĩa về mặt pháp lý
16
Quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm
đóng vai trị rất quan trọng, là khung pháp lý để HĐXX phúc thẩm thực hiện quyền
hạn ở giai đoạn xét xử phúc thẩm với nhiệm vụ xét xử lại vụ án về mặt nội dung,
kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hình sự sơ thẩm. Thẩm
quyền của HĐXX phúc thẩm được phân định rõ ràng, khoa học, sát với thực tế sẽ
bảo đảm xét xử phúc thẩm khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội.
Thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm bảo đảm bản án
chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp sơ thẩm chính xác, cơng bằng, đúng pháp
luật. Thông qua thủ tục phúc thẩm, các bản án đúng sẽ khẳng định được tính có căn
cứ, đúng pháp luật. Ngược lại, những bản án có sai lầm, vi phạm sẽ bị sửa hoặc hủy
để giải quyết lại, đảm bảo khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, bảo vệ công lý, quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, uy tín của Nhà nước.
Bên cạnh đó, thơng qua việc thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm, HĐXX
phúc thẩm đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Trên thực tế, có
những trường hợp sai lầm của bản án sơ thẩm xuất phát từ nguyên nhân nhận thức
về pháp luật khơng đúng, khơng thống nhất. Do đó, thơng qua việc thực hiện chức
năng giám đốc việc xét xử, HĐXX phúc thẩm hướng dẫn Tòa án cấp dưới áp dụng
pháp luật đúng đắn và thống nhất, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án
hình sự, đồng thời buộc Tòa án cấp sơ thẩm phải nâng cao trách nhiệm, thận trọng
và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về tính hợp pháp và tính có căn cứ khi đưa ra
phán quyết cuối cùng.
Việc thực hiện thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ
thẩm cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp
luật. Trong q trình xét xử vụ án hình sự, HĐXX phúc thẩm sẽ phát hiện ra những
thiếu sót, bất cập tồn tại trong các văn bản pháp luật và kiến nghị các cơ quan có thẩm
quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật đó. Kiến nghị của
HĐXX phúc thẩm là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền hồn thiện quy định của
pháp luật nói chung và quy định về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm nói riêng.
17
1.3. Cơ sở quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với
bản án hình sự sơ thẩm
Cơ sở quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ
thẩm đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học luật tố tụng hình sự quan tâm nghiên
cứu. Theo đó, cơ sở quy định thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm đối với bản án
hình sự sơ thẩm được xác định dựa trên cơ sở quy định thẩm quyền của Tịa án cấp
phúc thẩm. Đó là dựa trên những cơ sở sau:
1.3.1. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
“Nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng
quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong
quá trình xây dựng, giải thích và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự” [36, tr.43-44]. Các
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở
để xây dựng hệ thống pháp luật tố tụng hình sự cùng các chế định cụ thể của nó.
Trong đó, những nguyên tắc làm cơ sở cho hoạt động xét xử của Toà án là cơ sở
xây dựng chế định thẩm quyển của Toà án, trong đó có quy định về thẩm quyền của
HĐXX phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự là
nguyên tắc chi phối đến tất cả các hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa địi hỏi mọi hoạt động tố tụng hình sự
đều phải dựa trên căn cứ của luật, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định;
thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng do BLTTHS quy
định phải được bảo đảm thực hiện trên thực tế; những hành vi, quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu chưa phản ánh đúng bản chất của vụ việc
hoặc có sai lầm đều phải được khắc phục và xử lý kịp thời. Theo đó, việc quy định
thẩm quyển của HĐXX phúc thẩm là cần thiết nhằm kịp thời khắc phục sai lầm, vi
phạm trong bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bảo đảm việc giải quyết vụ án
đúng đắn và chính xác.
Ngun tắc suy đốn vơ tội là “ngun tắc quan trọng, có tính chất nền tảng,
chi phối nhiều nguyên tắc khác của tố tụng hình sự” [2, tr.44]. Theo đó, người bị
18