142
CHƯƠNG VIII
VITAMIN TRONG THỨC ĂN
THỦY SẢN
Từ vitamin được Funk dùng đầu tiên năm 1910, chỉ hợp chất hữu cơ chứa
nhóm amin có trong thức ăn cần thiết cho sự sống, là chất ngày nay, chúng ta biết
dưới tên vitamin B
1
. Danh sách các chất hiện diện trong thức ăn với tỉ lệ nhỏ, cần
thiết cho sự sống ngày càng kéo dài và một đònh nghóa về vitamin được xác đònh như
sau: Vitamin là nhóm chất hữu cơ hiện diện trong thức ăn với một lượng rất nhỏ mà
cơ thể sinh vật không tổng hợp được hay tổng hợp không đủ cho nhu cầu. Chất hữu
cơ này không phải là các amino acid hay acid béo thiết yếu, chúng giữ một vai trò
rất quan trọng trong dinh dưỡng và sự thiếu hụt lâu dài các dưỡng chất này sẽ dẫn
đến sự xuất hiện các triệu chứng bệnh.
Hầu hết, các vitamin có vai trò như một co-enzyme hay tác nhân hỗ trợ các
enzyme, thực hiện phản ứng sinh hóa trong cơ thể sinh vật. Các vitamin thường đóng
vai trò tác nhân oxy hóa, chuyển electron từ hợp chất hữu cơ sang chất nhận, như oxy
trong quá trình oxy hóa sinh vật. Vai trò của vitamin trong thức ăn cho con người và
vật nuôi được nghiên cứu và ứng dụng rất nhiều trong dinh dưỡng, nhằm sản xuất
thuốc bổ dưỡng cho người, cũng như các hỗn hợp premix vitamin trong dinh dưỡng và
thức ăn gia súc, gia cầm.
Nghề nuôi thủy sản có lòch sử lâu đời, nhưng việc ghi nhận các triệu chứng bệnh
do thiếu vitamin trong thức ăn không được đề cập đến. Cho đến khi nghề nuôi thủy sản
đạt đến trình độ thâm canh, sử dụng thức ăn nhân tạo tổng hợp, những triệu chứng bệnh
do thiếu vitamin mới được ghi nhận. Vào năm 1912, Dilley đã ghi nhận yếu tố H chống
lại bệnh xuất huyết. Yếu tố này có nhiều trong thòt và rất cần thiết trong thức ăn tổng
hợp cho cá hồi. Hai mươi năm sau, yếu tố H này được xác đònh là hỗn hợp vitamin B
12
và folic acid. Theo Schneberger, cá hồi (Onchorhynchys mykiss) ăn thức ăn chứa cá
sống, đã bò triệu chứng bệnh tê liệt. Bệnh này được chữa trò, khi tiêm cho cá dung dòch
thiamine hay bổ sung thêm nấm men vào thức ăn cho cá. Đến năm 1942, Louis Wolf
chứng minh: thiaminase ở cá sống thủy phân thiamine trong hỗn hợp thức ăn, dẫn đến
bệnh thiếu thiamine trên cá hồi. Sau này, nhiều nghiên cứu ghi nhận: động vật thủy sản
có những triệu chứng bệnh, do sự thiếu vitamin gây ra như các động vật trên cạn.
VIII.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG LÊN KHẢ NĂNG SỬ DỤNG VITAMIN
TRONG THỨC ĂN THỦY SẢN
Các động vật thủy sản đều có nhu cầu vitamin, nhưng các nhu cầu này thay
143
đổi theo nhiều yếu tố. Một số vitamin dễ tan trong nước. Vì thế, vitamin trong thức ăn
sẽ mất đi rất nhiều, nếu thức ăn không được ăn trực tiếp hay thức ăn tự nhiên là
nguồn cung cấp vitamin đáng kể cho động vật thủy sản. Những yếu tố ảnh hưởng đến
khả năng sử dụng và hấp thụ nguồn vitamin trong thức ăn bao gồm:
VIII.1.1. Tập tính dinh dưỡng của đối tượng nuôi
Các vitamin hòa tan trong thức ăn dễ bò rửa trôi vào môi trường, nên nhu cầu
vitamin trong thức ăn của những loài thủy sản có tập tính ăn chậm (tôm) sẽ phải nhiều
hơn các loài ăn mồi trực tiếp và nhanh. Loài thủy sản ăn lọc thức ăn tự nhiên sử dụng
nguồn vitamin rất phong phú trong thức ăn tự nhiên, nên nhu cầu vitamin của chúng từ
thức ăn, sẽ thấp hơn rất nhiều, so với nhu cầu của các loài ăn tạp và ăn động vật.
VIII.1.2. Điều kiện chế biến và bảo quản vitamin
Đa số các vitamin đều nhạy cảm với các điều kiện chế biến và bảo quản thức
ăn. Sự gia tăng nhiệt trong ép viên thức ăn, thường hủy diệt vitamin C, vitamin B
12
và
Pyridoxine. Sử dụng vitamin kháng nhiệt hay giữ cho nhiệt độ thức ăn không quá cao,
trong quá trình chế biến thức ăn, sẽ làm giảm sự hao hụt vitamin. Shiau và Hsu
(1993) cho thấy: hàm lượng vitamin C (ascorbic acid) sau khi ép viên thức ăn, giảm từ
2.000 mg/kg xuống còn 500 mg/kg. Sự giảm này tiếp tục trong quá trình bảo quản
thức ăn và sau 60 ngày, hàm lượng vitamin C chỉ còn 100 mg/kg
Hình VIII.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ khi ép viên và thời gian bảo quản lên các dạng
vitamin C. AA: Ascorbic acid; C2-S: Ascorbyl2-Sulfate;
C2-MP: Acrobyl2-Mono phosphate
Một số vitamin nhạy cảm với ánh sáng và tia UV như: vitamin B
2
hay vitamin
E, việc phơi nắng sẽ làm giảm nguồn vitamin này. Các vitamin tan trong chất béo như
vitamin A, D, E, và K sẽ bò biến chất, nếu điều kiện bảo quản thức ăn không tốt. Chất
0
500
1000
1500
2000
0 10 20 30 40 50 60
Thời gian bao quản (giờ)
Hàm lương vitamin (mg/kg)
AA 2000
C2-S 2000
C2MP-Mg 2000
Sau khi ép viên
144
béo trong vitamin sẽ bò oxy hóa, nếu độ ẩm và nhiệt độ cao. Do vậy, việc bổ sung các
chất kháng oxy hóa là tối cần thiết, để bảo vệ các vitamin tan trong chất béo.
VIII.1.3. Điều kiện nuôi dưỡng
Động vật thủy sản nuôi trong điều kiện quảng canh và bán thâm canh có thể
không cần bổ sung vitamin vào thức ăn, vì thức ăn tự nhiên có thể cung cấp đầy đủ.
Hepher (1972) cho thấy: có tương quan chặt chẽ giữa mật độ cá thả (cá chép) với lượng
vitamin bổ sung vào thức ăn. Vitamin bổ sung không có tác dụng, khi mật độ cá thả 0,2
con /m
2
. Mật độ cá thả tăng lên 0,6 con/m
2
, việc bổ sung vitamin vào thức ăn sẽ cải
thiện hệ số thức ăn lên 15-20%, so với không bổ sung vitamin. Với các loài tôm, Moss
và ctv (2006) cho thấy: nước ao (lấy từ nguồn nước giếng) có sự hiện diện của tảo và
các mùn bã hữu cơ, là nguồn cung cấp đáng kể vitamin cho tôm thẻ chân trắng. Khi
nuôi tôm với thức ăn không bổ sung vitamin ở lô nước ao, tăng trưởng và tỉ lệ sống của
tôm tăng cao rất nhiều, so với lô nuôi bằng nước giếng. Điều này cho thấy: thức ăn tự
nhiên cung cấp đáng kể nguồn vitamin. Do đó, hình thức nuôi đóng vai trò quan trọng
trong việc bổ sung hay không bổ sung vitamin vào thức ăn.
Bảng VIII.1. Ảnh hưởng của hệ thống thức ăn tự nhiên lên khả năng bổ sung vitamin
ở thức ăn tôm thẻ chân trắng (Moss và ctv, 2006)
Protein - Nguồn nước TL cuối
(g)
Tăng trọng
(g/tuần)
Tỉ lệ sống
(%)
FCR
35-Nước giếng
35-Nước ao
35-Nước giếng (không vitamin)
35-Nước ao (không vitamin)
25- Nước giếng
25- Nước ao
5,64
b
13,83
c
3,76
a
13,28
c
4,57
ab
13,84
c
0,50
b
1,31
c
0,31
a
1,26
c
0,39
ab
1,32
c
88,3
b
88,3
b
41,7
a
98,3
b
90,0
b
83,3
b
2,58
b
1,34
c
5,42
a
1,33
c
3,02
b
1,56
c
35-: thức ăn có 35% protein với bổ sung đầy đủ vitamin và vi khoáng;
Nước giếng: nước lấy từ giếng khoan không chứa vi khuẩn và vi tảo;
Các giá trò cùng cột, có cùng ký tự sẽ không khác nhau về mặt thống kê.
VIII.1.4. Điều kiện sinh lý của cá
Động vật thủy sản trong thời kỳ sinh sản, cần một lượng lớn vitamin A, E và
C. Ngoài ra, vitamin C còn làm cá giảm stress, khi bò đánh bắt hay vận chuyển. Khả
năng đề kháng bệnh của động vật thủy sản tăng lên, khi bổ sung vào thức ăn vitamin
C, E, B
6
, panthothenic acid và choline. Đặc biệt, trong thâm canh, nhu cầu các
vitamin của động vật thủy sản tăng cao, do khả năng chống stress. Người ta ghi nhận
cá chép giai đoạn nhỏ yêu cầu inositol cao hơn cá lớn.
VIII.1.5. Chất kháng vitamin hiện diện trong thức ăn
Trong một số loại thức ăn tự nhiên, các chất kháng vitamin (như enzyme
145
thiaminase) hiện diện trong cá sống sẽ ức chế thiamine. Thức ăn chứa nhiều chất
béo, sự oxy hóa sẽ hủy hoại các vitamin nhóm A, D, E và K (các vitamin tan trong
chất béo).
VIII.2. PHÂN LOẠI, CHỨC NĂNG VÀ NHU CẦU CỦA CÁC VITAMIN
Thông thường người ta phân chia vitamin ra hai nhóm, dựa vào đặc tính hòa
tan: vitamin tan trong chất béo (A, D, E và K) và nhóm vitamin tan trong nước (gồm
có tám vitamin thuộc nhóm B). Nếu liệt kê đầy đủ, nhóm vitamin tan trong nước
không chỉ có tám loại, mà phải kể thêm vitamin C, choline và inositol. Ngoài ra, có
những phân loại vitamin, dựa vào chức năng như: nhóm đóng vai trò của coenzymes
(B
1
, B
12
, pyridoxine, biotin, folic acid và vitamin A); nhóm chuyển vận proteon hay
electrons (B
2
, panthotenic acid, niacin, và vitamin K) và nhóm kháng oxy hóa
(Vitamin C và E)
Bảng VIII.2. Danh sách các vitamin và chức năng (Guillaume et al., 1999)
Thành phần hóa học có hoạt tínhVitamin
Tên khoa học Dạng có hoạt tính cao
Chức năng
biến dưỡng
A Rétinol
Rétinal
Rétinoic acid
Retinyl palmitate
-carotène
Rétinol
Rétinal
Rétinoic acid
Co-enzymes
Tiền sinh tố
D Ergocalciférol (D
2
)
Cholécalciférol (D
3
)
Dihydroxyergocalciférol
Dihydroxycholécalciférol
Tiền hormones
E Tocopherol
-tocopherol acetate
-tocopherol
Chuyển vận H
+
(bảo vệ màng cơ bản)
K Philloquinone (K
1
)
Ménaquinone (K
2
)
Ménadione (K
3
)
Philloquinone
Ménaquinone
Co-enzymes
Chuyển vận electron
B
1
Thiamine
Thiamine chlohydrate
Thiamine pyrophosphate
Thiamine triphosphate
Co-
enzymes trong biến
dưỡng carbohydrate
B
2
Riboflavin Flavine mononucleotide
(FMN)
Flavine adenine dinucleotide
Co-enzymes trong
biến dưỡng E
Chuyển vận electron
PP Niacin
Nicotinic acid
Nicotinamid
NAD
NADP
- Co-enzymes trong
biến dưỡng protein,
lipid và carbohydrate
- Chuyển vận electron
B
5
Pantothenic acid
Calcium
Coenzyme A - Co-enzymes trong
biến dưỡng protein,
146
penthothenate lipid và carbohydrate
- Chuyển vận electron
B
6
Pyridoxine
Pyridoxal
Pyridoxamine
Chlohydrate-
pyridoxine
Phosphate pyridoxal Co-enzymes trong
biến dưỡng protein
Biotin
Vit H
Biotin Biotinyl-AMP - Co-enzymes trong
protein, lipid và
carbohydrate
Folic
acid
Folic acid
Polyglutamates
Tetrahydrofolates (THF) - Co-enzyme trong
biến dưỡng protein
B
12
Cobalamines Methylcobalamine
Adenosylcobalamine
- Co-enzyme trong sự
thành lập hồng cầu
và tế bào thần kinh
C Ascorbic acid
Dehydroascorbic acid
Ascorbyl phosphate
Ascorbic acid
Dehydroascorbic acid
- Co-enzyme trong
các phản ứng hydro
hóa
Nhu cầu các vitamin chỉ được xác đònh ở một số giống loài cá kinh tế ôn đới
như: cá hồi, cá da trơn Mỹ hay trên một số loài tôm Peneus sp Do đó, trong sản
xuất, để tính toán nhu cầu vitamin cho các đối tượng khác, nhà sản xuất có thể tham
khảo nhu cầu vitamin của các giống loài gần nhau. Ví dụ: như cầu vitamin của cá da
trơn Mỹ có thể sử dụng cho cá tra, basa, và trê phi lai, hay nhu cầu vitamin cá chép
có thể sử dụng cho cá trắm cỏ, trôi và mè vinh. Sau đây là nhu cầu đònh lượng một số
vitamin, cho một số loài cá (Bảng VIII.3).
Bảng VIII.3. Nhu cầu vitamin cho tăng trưởng của một số loài cá (mg/kg thức ăn)
Vitamin Cá hồi
Đại Tây
Dương
Cá hồi
Thái Bình
Dương
Cá chép Cá da
trơn Mỹ
Cá rô phi
*
Thiamin
Riboflavin
Pyridoxine
Pantothenate
Vitamin PP
Folic acid
B
12
Inositol
Choline
Biotin
Vitamin C
10-12
20-30
10-15
40-50
120-150
6-10
-
200-300
-
1-1,2
100-150
10-15
20-25
15-20
40-50
150-200
6-10
0.015-0.02
300-400
600-800
1-1.5
100-150
2-3
7-10
5-10
30-40
30-50
-
-
200-300
1.500-2.000
1-1.5
30-50
1-3
9
3
25-50
14
-
-
-
400
-
60
2,5
5-6
3-9
6-10
-
-
-
-
1.000
0,06
50-100
147
Vitamin A (IU)
Vitamin D
Vitamin E
Vitamin K
2.000-2.500
2400
30
10
2.000-2.500
2400
30
10
1.000-2.000
-
80-100
-
1.000-2.000
500-1.000
30
-
-
-
50-100
Nguồn: Halver và Hardy, 2002; * : Theo Shiau, 2002
Các loài giáp xác như tôm cua cũng có nhu cầu vitamin trong thức ăn. Thí
nghiệm sử dụng thức ăn bán tổng hợp trong phòng thí nghiệm cho thấy: thức ăn tôm
sú thiếu các vitamin như: ascorbic acid, biotin và folic acid, tôm sẽ giảm ăn, chậm
tăng trưởng và cấu trúc mô ống tiêu hóa bò thoái hóa. Nghiên cứu về nhu cầu vitamin
trên tôm và cua khó khăn hơn với các loài cá. Do đặc tính ăn chậm của tôm cua, một
số vitamin dễ tan trong nước. Vì thế, khó xác đònh nhu cầu vitamin của chúng. Bảng
VIII.4 cho thấy tổng quan nhu cầu vitamin của một số loài tôm. Chi tiết về nhu cầu
và giá trò sử dụng các vitamin trong thức ăn tôm, cua sẽ được trình bày chi tiết trong
chương dinh dưỡng và thức ăn giáp xác.
Bảng VIII.4. Nhu cầu vitamin của một số loài tôm ở điều kiện phòng thí nghiệm và
mức vitamin được đề nghò trong thức ăn (mg/kg)
Vitamin
Peneus
japonicus
P.
monodon
P.
vannamei
M.
resenbergii
Thức ăn
Thiamin
Riboflavin
Pyridoxine
Pantothenic acid
Vitamin PP
Folic acid
B
12
Inositol
Choline
Biotin
Vitamin C
(dạng bền vững)
Vitamin A (IU)
Vitamin D
Vitamin E
Vitamin K
60
-
-
-
-
-
-
400
600
-
99
2.400
0,2
-
-
15
22
7
-
-
-
0,2
-
-
-
209
-
0,1
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
120
-
-
100
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
104
-
-
-
-
-
60
25
40
75
40
10
0,2
400
600
-
200
5.000 IU
0,1
100
5
Nguồn: Conklin, 1997
VIII.3. NHÓM VITAMIN TAN TRONG NƯỚC
Vitamin tan trong nước bao gồm: tám vitamin nổi tiếng thuộc nhóm B và một
số vitamin khác như: choline, inositol và ascorbic acid. Các vitamin này có giá trò
dinh dưỡng rõ rệt. Ngoài ra, một số chất có hoạt tính vitamin chưa được xác đònh rõ
như: p-aminobenzoic acid, lipoic acid và citrin cũng được liệt kê vào nhóm vitamin
148
tan trong nước.
Bảng VIII.5. Các vitamin tan trong nước tham gia vào phản ứng biến dưỡng cơ bản
Các chức năng biến dưỡng cơ bản
Các vitamin
Protein Lipid Carbohy
- drate
Năng
lượng
Hệ thần
kinh
Tổng hợp
nucleotide
Vitamin B
1
Vitamin B
2
Vitamin B
6
Vitamin B
12
Niacin
Panthotenic
Folic
Biotin
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
VIII.3.1. Thiamin (Vitamin B
1
)
Thiamin hydrochloride là tinh thể không
mùi, tan trong nước, công thức C
12
H
18
ON
4
SCl
2.
Thiamin tương đối bền với nhiệt,
nhưng dễ bò
biến tính trong dung dòch trung tính hay kiềm.
N
hiều dẫn xuất của thiamin có tác dụng sinh học
trên động vật, nhưng trên cá,
dạng thiamin
hydrochloride và thiamin mononitrate cho
hiệu
quả nhất.
Thiamin là một phần của coenzyme cocarboxylase tham gia vào việc khử
carbon dioxide của pyruvic acid. Thiamin pyrophosphate là một coenzyme của hệ
thống transketolase, tham gia vào quá trình oxy hóa glucose trong tế bào. Vì thế,
thiamin là vitamin liên quan đến sự biến dưỡng carbohydrate.
Thiamin cần thiết cho chức năng của tế bào thần kinh. Nhu cầu thiamin được
xác đònh tùy theo mức năng lượng trong thức ăn. Nhu cầu thiamin của một số loài cá
được trình bày ở bảng VIII.3, Nhu cầu thiamin của cá hồi khoảng 12 mg/kg thức ăn.
Nhu cầu cho cá chép và cá da trơn thấp hơn, biến thiên khoảng 2-3 mg/kg thức ăn.
Do thiamin tham gia vào quá trình biến dưỡng glucose, thức ăn giàu năng lượng với
lipid hay carbohydrate thường dẫn đến sự thiếu hụt thiamin dự trữ trong gan của cá.
Do đó, khi thức ăn chứa nhiều năng lượng cần bổ sung thêm vitamin.
Thức ăn thiếu vitamin B
1
sẽ làm cá nhạy cảm với các kích thích bên ngoài
nhca: tiếng động và ánh sáng. Kế đến, cá mất thăng bằng khi bơi lội. Sau cùng cá có
những cơn co thắt cơ. Thức ăn thiếu vitamin B
1
sẽ nhanh chóng đưa đến những biểu
hiện bệnh lý, như cá da trơn Mỹ chỉ cần 6-8 tuần lễ, cá chép cần 8 tuần và cá chình
cần khoảng 10 tuần đã xuất hiện những biểu hiện bệnh lý.
149
VIII.3.2. Riboflavin (Vitamin B
2
)
Riboflavin là tinh thể vàng nâu, công thức là
C
17
H
20
N
4
O
6
, hòa tan trong nước và dễ hòa tan trong
dung dòch kiềm. Riboflavin tương đối bền vững với tác
nhân oxy hóa và nhiệt độ. Riboflavin là thành phần
cấu tạo nên flavin adenine dinucleotide (FAD) hay
flavin mononucleotide (FMN), là coenzyme cho nhiều
phản ứng oxy hay khử như: cytochrome- c reductase,
D và L-amino acid oxidases v.v Riboflavin có thể
được dự trữ trong gan cá hồi 10-12 tuần lễ.
Giảm ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn thấp là những dấu hiệu ban đầu do thiếu
hụt riboflavin trong thức ăn. Kế đến, những dấu hiệu khác như: cá sợ ánh sáng, rồi xuất
huyết giác mô và sau cùng xuất huyết toàn thân. Ngoài ra, người ta ghi nhận có sự xuất
hiện bất thường các sắc tố trên thân các loài cá, khi thức ăn thiếu riboflavin. Nhu cầu
riboflavin được liệt kê trong bảng VIII.3. Nhu cầu trung bình là 20-25 mg/kg thức ăn ở
các loài cá hồi, 8-10 mg/kg thức ăn cho cá chép và cá da trơn.
VIII.3.3. Pyridoxine (Vitamin B
6
)
Đây là vitamin giúp chữa trò bệnh lở loét ngoài da trên chuột, theo Gyorgy (1935).
Đến năm 1944, Tunison và ctv. liệt kê lần đầu pyridoxine vào danh sách các vitamin cho
cá. Những triệu chứng thiếu pyridoxine được ghi nhận trên cá hồi năm 1954 (Halver),
trên cá da trơn Mỹ năm 1966 (Dupree) và trên cá chép bởi Ogino (1965).
Nhóm vitamin B
6
bao gồm: pyridoxine, pyridoxal, pyridoxamine và nhiều dẫn
xuất khác, trong đó, pyridoxal có hoạt tính sinh học cao nhất. Pyridoxine
hydrochloride là dạng bền vững nhất, có công thức C
8
H
11
O
5
N
7
HCl. Pyridoxine
hydrochloride rất dễ hòa tan trong nước và tương đối bền vững với nhiệt, ở cả môi
trường acid hay kiềm. Pyridoxine là coenzyme cho phản ứng decarboxyl hóa với các
amino acid. Vì thế, pyridoxine liên quan đến sự biến dưỡng trung gian của glutamic
acid, lysine, methionine, histidine, cysteine và alanine. Như vậy, pyridoxine liên quan
đến sự biến dưỡng protein. Vitamin B
6
giữ vai trò quan trọng với những loài cá ăn
động vật, và được sinh tổng hợp bởi thực vật và các vi khuẩn. Vitamin này có nhiều
trong thức ăn thực vật.
Pyridoxal Pyridoxine Pyridoxamine
150
Những triệu chứng do thức ăn thiếu vitamin B
6
bao gồm: rối loạn thần kinh,
với biểu hiệu cá bò tê giật khi có tiếng động và khi cá chết, hiện tượng chết cứng diễn
ra rất nhanh.
Ở cá da trơn, người ta ghi nhận hiện tượng cá chuyển sang màu xanh, khi thức
ăn thiếu vitamin này. Nhu cầu vitamin B
6
(được liệt kê trong bảng VIII.3) của cá hồi
trung bình là 15mg/kg thức ăn. Các loài cá chép và cá da trơn nhu cầu thấp hơn, trung
bình khoảng 5 mg/kg.
VIII.3.4. Pantothenic acid
Pantothenic acid có thể được xem như dihydroxydimethylbutyric acid nối với
-alanine. Công thức hóa học là C
9
H
12
O
5
N. Muối của pantothenic acid có màu trắng,
tan trong nước và hoàn toàn không tan trong chất béo.
Pantothenic acid cấu tạo nên
acetyl coenzyme A, là một bước trung
gian trong biến dưỡng carbohydrate, lipid
và protein. Vì thế, pantothenic giữ vai trò
quan trọng trong chức năng sinh lý của cá
đang sinh trưởng.
Pantothenate
Những biểu hiện bệnh lý thường gặp trên cá, khi thức ăn thiếu Pantothenic
acid lâu dài gồm: cá bỏ ăn, mang cá bò sưng phồng lên, dính lại, bên ngoài phủ một
lớp chất nhày và hai nắp mang sưng lên. Khi nhìn từ trên xuống, cá trông giống bò
phồng lên ở phần cổ. Nhu cầu Pantothenic acid trung bình 40-50 mg/kg thức ăn cho
các loài cá hồi, khoảng 30-40 mg/kg cho cá chép và các loài cá da trơn.
VIII.3.5. Vitamin PP
Vitamin PP bao gồm: niacin, nicotinic acid và nicotinamide. Chúng có tác
dụng tương tự nhau, vì chúng có thể biến đổi qua lại, trong quá trình biến dưỡng.
Niacin được mô tả như pyridine 3-carboxylic acid cùng các dẫn xuất, có tác dụng như
nicotilamide. Niacin là thành phần của hai coenzyme nicotinamide adenine
dinucleotide (NAD) và nicotinamide adenine dinucleotide phosphate (NADP). Các
coenzyme này liên quan đến các phản ứng oxy hóa và khử trong chuyển vận
hydrogen và điện tử của biến dưỡng carbohydrate, lipid và các amino acid.
Sự thiếu hụt Niacin trong thức ăn sẽ dẫn đến biểu hiện lở loét da, dễ được nhận
biết nhất trên các loài cá nuôi. Cá da trơn Mỹ và cá chép bò lở loét da và vi, tỉ lệ chết
cao, xuất huyết da và biến dạng xương hàm sau 2-6 tuần lễ ăn thức ăn thiếu Niacin.
Các loài cá hồi bò chậm tăng trưởng, nhạy cảm với ánh sáng, lở loét màng ruột, lớp
biểu mô dễ tróc ra và cuối cùng cá chết với tỉ lệ cao.
Vitamin PP có trong thức ăn thực vật và một số mô động vật. Tuy nhiên, đa số
vitamin PP trong thực vật khó hấp thụ đối với các loại cá. Các động vật trên cạn có
151
khả năng chuyển đổi tryptophan sang Niacin và đó là một nguồn bổ sung vitamin PP.
Tuy nhiên, khả năng chuyển đổi này của cá rất hạn chế. Ví dụ cá hồi không có khả
năng chuyển đổi này. Cá xuất hiện những dấu hiện nhanh chóng, khi thức ăn thiếu
vitamin PP, dù có bổ sung tryptophan thêm vào thức ăn. Nhu cầu vitamin PP của cá
hồi trung bình 120-150 mg/kg thức ăn. Các loài cá khác như: cá da trơn Mỹ và cá
chép, nhu cầu vitamin PP thấp hơn, chỉ khoảng 20-30 mg/kg. Nguồn cung cấp vitamin
PP chủ yếu là từ thức ăn thực vật, nhưng do liên kết với các thành phần khác trong
thức ăn, nên khó hấp thụ. Vì thế, nhà sản xuất thường phải bổ sung vitamin PP vào
thức ăn.
VIII.3.6. Biotin
Biotin có công thức hóa học C
10
H
16
O
3
N
2
S. Đó là monocarboxylic acid tương đối
hòa tan trong nước và rượu. Biotin tác dụng như chất chuyển vận CO
2
trong chuỗi phản
ứng carboxyl hóa và khử carboxyl. Các enzyme chứa biotin hoạt hóa các phản ứng trên,
bao gồm: acetyl-CoA carboxylase, pyruvate carboxylase và propionyl-coA carboxylase.
Như vậy, biotin tham gia vào sự sinh tổng hợp các acid béo chuỗi dài và purine.
Cá nuôi rất nhạy cảm với sự thiếu biotin trong
thức ăn. Cá hồi chỉ cần được nuôi 4 tuần lễ, với thức ăn
thiếu biotin những biểu hiện thiếu biotin đã xuất hiện
và cá da trơn Mỹ cần đến 14 tuần lễ. Thiếu biotin cá da
trơn Mỹ có những biểu hiện: chậm tăng trưởng, màu
sắc nhạt hơn, và rất nhạy cảm với tiếng động, khi thiếu
biotin lâu dài. Cá hồi cũng có triệu chứng tương tự như
cá da trơn Mỹ, nhưng có thêm những dấu hiệu như:
thoái hóa mang cá, gan xanh nhạt và sưng lên, do hoạt
tính carboxylase của gan giảm.
Biotin
Biotin hiện diện phổ biến trong thức ăn thực và động vật. Cám gạo, cám mì,
bột thòt, bột cá, bắp và bánh dầu là các nguồn cung cấp đáng kể biotin. Nhu cầu
biotin trong thức ăn cho động vật thủy sản thấp, khoảng 1-1,2 mg/kg thức ăn. Thông
thường, thức ăn cung cấp đủ nhu cầu biotin cho các loài cá, nên người ta ít quan tâm
đến việc bổ sung chất này.
VIII.3.7. Choline
Khác với các vitamin tan trong trong nước, choline không tham gia vào thành
phần các coenzyme, nhưng có đến ba chức năng biến dưỡng chính: choline là thành
phần của phosphotydylcholine, chất tham gia cấu trúc màng sinh học và sử dụng lipid
trong cơ thể; Choline là thành phần của chất chuyển vận thần kinh acetylcholine và
sau cùng, là tiền chất của betaine (chất đóng vai trò cung cấp gốc methyl cho các
phản ứng methyl hóa, như sự tạo thành methionine từ cysteine). Choline hiện diện
trong thức ăn, có tác dụng chia sẻ một phần nhu cầu methionine.
152
Thiếu hụt choline trong thức ăn, dẫn đến những biểu hiện giống nhau trên hầu
hết các loài cá: gan màu vàng nhạt và lượng lipid trong gan tăng lên rất cao (cá chép
và cá da trơn Mỹ). Choline có rất nhiều trong các hạt thực vật. Cá có khả năng
chuyển hóa một phần choline từ methionine, nên khi thức ăn chứa nhiều methionine,
cá sẽ có nhu cầu choline thấp hơn. Nhu cầu choline trong thức ăn cá khoảng 500-600
mg/kg, ở cá hồi và 1.000-1.200 mg/kg đối với cá chép.
VIII.3.8. Inositol
Inositol không có chức năng coenzyme như các vitamin tan trong nước, nhưng
là thành phần cấu tạo màng tế bào, dưới dạng phosphatidylinositol và tham gia vào
cấu trúc các lipid phức hợp. Thực nghiệm trên cá hồi được cho ăn thức ăn không chứa
iositol: gan cá sẽ tích lũy nhiều triglyceride và cholesterol với lượng phospholipid rất
thấp. Ở các động vật thủy sản như cá và tôm, thiếu hụt inositol trong thức ăn sẽ làm
cá giảm ăn, chậm tăng trưởng, thiếu máu, vi cá bò xây xát, các sắc tố trên da sậm lại
và hoạt tính một số enzyme sẽ giảm (như choliesterase và aminotransferase). Người
ta cũng ghi nhận inositol được sinh tổng hợp trong ruột cá chép, nhưng lượng sinh
tổng hợp không đủ cho nhu cầu, nên inositol phải được bổ sung từ thức ăn bên ngoài.
Tương tự, cá da trơn Mỹ cũng có thể sinh tổng hợp inositol trong gan và ruột giống cá
chép. Lượng glucose trong thức ăn tăng lên sẽ dẫn đến nhu cầu inositol gia tăng.
VIII.3.9. Vitamin B
12
Vitamin B
12
cần cho sự chín mùi sinh dục và phát triển tiểu cầu. Vitamin B
12
có
tác dụng trong biến dưỡng lipid, tham gia vào phản ứng methyl hóa và trong chuyển
hóa cysteine thành methionine.
Ở cá hồi, khi thức ăn thiếu vitamin
B
12,
cá có lượng tiểu cầu và hồng cầu biến
động, giảm thấp và bò thiếu máu. Cá da trơn
Mỹ được nuôi với thức ăn thiếu vitamin B
12
trong 36 tuần lễ, sẽ giảm tăng trưởng. Cá rô
hú giảm lượng hồng cầu và tăng trưởng, khi
cá ăn thức ăn thiếu vitamin B
12
. Trái lại,
một số loài cá khác, khi thức ăn thiếu hay
không có vitamin B
12,
vẫn tăng trưởng bình
thường và không có dấu hiệu bệnh lý, như
cá rô phi và cá chình biển.
Người ta ghi nhận: các vi sinh vật
đường ruột có khả năng sinh tổng hợp
vitamin ở nhiều giống loài cá như: cá rô phi
, cá da trơn Mỹ, cá chép và cá hồi… Sự tương quan giữa lượng vitamin và số lượng vi
khuẩn Bactoroides nhóm A hiện diện trong đường ruột các loài cá, được ghi nhận ở
153
những loài cá không cần hay cần rất ít vitamin B
12
. Nhu cầu vitamin được thỏa mãn
hoàn toàn hay một phần, nhờ sự sinh tổng hợp của các vi khuẩn kể trên. Như thế, nhu
cầu vitamin B
12
rất khác nhau và thay đổi tùy giống loài cá. Trong sản xuất thức ăn
công nghiệp, vitamin B
12
được bổ sung vào thức ăn dưới dạng premix vitamin.
VIII.3.10. Vitamin C
Vitamin C hay ascorbic acid là dẫn xuất của dehydroascorbic acid, có công
thức hóa học C
6
H
6
O
6
. Ascorbic acid dễ bò oxy hóa thành dehydroascorbic acid, có
hoạt tính sinh học thấp hơn. Vitamin C rất dễ bò hủy diệt ở nhiệt độ cao, khoảng 60
o
C
trong thời gian ngắn, đặc biệt khi môi trường có chứa đồng, sắt hay một số kim loại
xúc tác. Do khả năng dễ bò biến tính với nhiệt độ, vitamin C gần như bò mất hoàn
toàn trong thức ăn chế biến công nghiệp.
Ascorbic acid giữ vai trò tác nhân khử sinh học cho các phản ứng chuyển vận
hydrogen, nên nó tham gia vào nhiều hệ thống enzyme như: hydroxy hóa tryptophan và
tyrosine. Ascorbic acid rất cần thiết cho sự tạo thành các mô liên kết, làm lành các vết
thương. Ascorbic acid giúp cá hấp thụ sắt, cá tránh hiện tïng xuất huyết. Thức ăn
thiếu vitamin C, thời gian đông máu của cá sẽ dài hơn. Ngoài ra, vitamin C và vitamin
E, còn giúp phòng chống sự oxy hóa các lipid trong mô tế bào.
Động vật thủy sản không thể sinh tổng hợp vitamin C từ glucose, như các động
vật hữu nhũ trên cạn. Do đó, các động vật thủy sản phải hoàn toàn dựa vào nguồn
thức ăn để cung cấp vitamin C. Sự thiếu hụt vitamin C trong thức ăn của cá thường
dẫn đến những biểu hiện như: biến dạng cột sống, xuất huyết dưới da, mô sụn nền
của mang cá bò tổn thương, làm mang cá bò xô lệch vò trí, mất sắc tố, dẫn đến cá có
màu nhợt nhạt và cá dễ bò xây xát khi đánh bắt. Ngoài ra, thức ăn thiếu vitamin C
cũng ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe của động vật thủy sản, như giảm khả năng
kháng bệnh vi khuẩn. Thí nghiệm bổ sung vitamin C vào thức ăn cá da trơn Mỹ, với
liều lượng 0, 30, 60, 150, 300 và 3.000 mg/kg thức ăn. Cá được nuôi với các loại thức
ăn có bổ sung vitamin C trong vòng 13 tuần lễ và sau đó được gây cảm nhiễm bệnh
với vi khuẩn Edwardsiella ictaluri. Kết quả cho thấy: tỉ lệ cá chết tỉ lệ nghòch với liều
lượng bổ sung vitamin C vào thức ăn (Bảng VIII.6). Kết quả phân tích cho thấy: hàm
lượng vitamin C trong huyết tương cá cao nhất, khi thức ăn chứa 500-1.000 mg
vitamin C /kg thức ăn.
Bảng VIII.6. Tỉ lệ chết của cá da trơn Mỹ với các liều lượng bổ sung vitamin C
khác nhau vào thức ăn
Liều lượng bổ sung vitamin C
(mg/ kg thức ăn )
Tỉ lệ chết sau 8 ngày gây cảm nhiễm
0
30
60
100
70
70
154
150
300
3.000
35
15
0
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa lý giải được cơ chế tăng cường khả
năng miễn nhiễm của vitamin C thức ăn, trên các loài cá nuôi. Tuy nhiên, sự gia tăng
lớp màng nhày trên da cá, khi sử dụng liều cao vitamin C trong thời gian thí nghiệm,
có thể giúp giải thích sự gia tăng hệ miễn dòch không đặc hiệu của cá, khi bổ sung
vitamin C vào thức ăn.
Vào mùa sinh sản, cá bố mẹ có nhu cầu vitamin C rất lớn. Cá rô phi bố mẹ
khi được cho ăn thức ăn thiếu vitamin C, thì hàm lượng vitamin C rất thấp trong trứng
và cá bột. Tỉ lệ nở và thụ tinh của cá hồi giảm rất nhiều, khi thức ăn thiếu vitamin C.
Nhiều tác giả gợi ý rằng: nhu cầu vitamin C vào giai đoạn phát triển phôi và cá bột,
cao hơn ở giai đoạn cá giống và cá trưởng thành.
Thức ăn chế biến thường mất vitamin C. Tỉ lệ mất vitamin C có thể lên đến
25%, trong ép viên với hơi nước và trên 50% với phương pháp ép đùn. Thông thường,
sau khi chế biến 2-3 tháng, 50% vitamin sẽ bò mất trong điều kiện bảo quản nhiệt đới
và độ ẩm cao (Hình VIII.1). Do đó, nhà sản xuất phải bổ sung rất nhiều vitamin C
vào thức ăn, nhất là thức ăn cho tôm và cá da trơn, để bù lại phần hao hụt. Họ cũng
phải lựa chọn các dạng vitamin C bền vững với nhiệt, dưới dạng muối phosphate hay
sử dụng vitamin có vỏ bọc. Ascorbic acid rất dễ biến tính, nên trong thức ăn thủy sản
đã có những dạng sau, bền vững hơn:
- Ascorbic acid vi bọc (coated AA): Tùy theo chất bao bọc, tính chất kháng
nhiệt sẽ khác nhau. Thông thường vitamin C vi bọc chứa 90-95% hoạt chất ascorbic
acid với các chất bao bọc như :
+ Ethylcellulose: kháng oxy hóa tốt nhưng kháng nhiệt kém (mất 70-100%
hoạt chất, sau khi ép viên thức ăn)
+ Chất béo hay sáp: kháng oxy hóa tốt và kháng nhiệt tốt hơn (mất 33-50%
hoạt chất sau khi gia nhiệt, trong ép viên thức ăn)
- Dẫn xuất của ascorbic acid: Để gia tăng độ bền vững của ascorbic acid với
nhiệt độ, nhà hóa học đã tổng hợp các dẫn xuất của muối ascorbic acid. Các dẫn xuất
này khi vào cơ thể động vật thủy sản, sẽ được các enzyme phân cắt, và tái tạo thành
ascorbic acid. Thông thường, các dẫn xuất ascorbic acid có giá trò sinh học thấp hơn
ascorbic acid, nhưng chúng rất bền với nhiệt độ cao trong chế biến thức ăn. Hoạt tính
sinh học có thể đạt 90-95%, sau khi chòu tác động nhiệt độ trong ép viên. Trên thò
trường, có 2 dạng dẫn xuất vitamin C đó là:
+ L-Ascorbyl-2-Sulfate (AS): có tỉ lệ kháng nhiệt trung bình và hoạt chất còn
lại sau khi gia nhiệt là 50-60%
155
+ L-Ascorbyl-2-Polyphosphate (APP) hay L-Ascorbyl-2-monohosphate (AMP):
tên thương mại đăng ký bản quyền là STAY C của công ty ROCHE (DSM)
hay STABLE C của các công ty khác.
Hiện nay trên thò trường có nhiều dạng ascorbic acid với giá cả khác nhau.
Nhà máy sản xuất thức ăn và người nuôi thủy sản sử dụng các dạng khác nhau của
vitamin C để bổ sung vào thức ăn. Trong nhà máy, phải sử dụng dạng kháng nhiệt
với các dẫn xuất vitamin C. Người nuôi thủy sản, chỉ cần sử dụng dạng vitamin C vi
bọc là đủ.
Hình VIII.2. Sơ đồ tóm tắt tác dụng của các vitamin tan trong nước, trong quá trình
biến dưỡng protein, lipid, carbohydrate và năng lượng thức ăn
Ở tôm và các loài giáp xác, vitamin C không được sinh tổng hợp và nguồn
cung cấp vitamin C phải lấy từ thức ăn. Khi thiếu vitamin C tôm và các giáp xác có
hội chứng chết đen thân, tôm khó lột xác và tăng trưởng kém. Nhu cầu vitamin C đã
được xác đònh trên các loài tôm (Bảng VIII.4). Các dạng hoạt tính sinh học vitamin C
trên tôm sú, theo Shiau (2002)
L-ascorbyl 2-monophosphate Mg (C2MP-Mg): 100%
L-ascorbyl 2-monophosphate Na (C2MP-Na): 84%
L-ascorbyl 2-monophosphate Na (C2MP-Na): 84%
L-ascorbyl 2-sulphate (C2S): 25%
VIII.4. NHÓM CÁC VITAMIN TAN TRONG CHẤT BÉO
Các vitamin tan trong chất béo như vitamin A, D, E và K được hấp thụ vào cơ
thể dọc theo thành ruột, cùng với lipid. Do đó, các điều kiện thích hợp cho sự hấp thụ
lipid, cũng giúp gia tăng sự hấp thụ các vitamin này. Các vitamin tan trong chất béo
156
có khả năng được tích lũy lại trong cơ thể, khi được thức ăn cung cấp dư thừa. Hiện
tượng này giúp cá không thiếu hụt vitamin vào mùa thiếâu thức ăn. Tuy nhiên, sự tích
lũy quá mức các vitamin A, D và E ở một số loài cá, gây ra hiện tượng ngộ độc, khi
thức ăn được bổ sung quá nhiều các vitamin này. Hiện tượng ngộ độc do quá thừa
vitamin (hypervitaminosis) chỉ được ghi nhận ở các loài cá nuôi, được cho ăn quá
nhiều vitamin tổng hợp.
VIII.4.1. Vitamin A
Ở động vật xương sống, vitamin A cần thiết cho sự tái sinh rhodopsin, chất bắt
ánh sáng hiện diện trong võng mạc. Ngoài ra, vitamin A còn tác dụng lên sự tăng
trưởng, sinh sản, đề kháng bệnh và duy trì các biểu mô, cũng như sự tiết chất nhầy
trên các lớp biểu mô này. Vitamin A hiện diện trong thiên nhiên ở ba dạng: retinol
(dạng rượu); retinal (dạng aldehyd) và retinoic acid (dạng acid). Vitamin A
1
(retinol)
có trong các động vật xương sống và cá biển, trong khi cả vitamin A
1
và A
2
(3-
dehydroretinol) được tìm thấy ở cá nước ngọt. Cá có khả năng chuyển đổi các dạng
vitamin A, ví dụ như: cá rô phi có thể chuyển đổi retinol thành 3-dehydroretinal và
retinal thành 3-dehydroretinal. Ngoài ra, cá và các động vật xương sống khác, có khả
năng chuyển đổi -carotene và canthaxanthin thành các vitamin A
1
trong gan, như cá
da trơn Mỹ. Cá rô phi có thể sử dụng -carotene như nguồn cung cấp vitamin A, khi
thức ăn chứa trên 2.000 IU/kg. Mới đây có nhiều bằng chứng cho thấy: các
dihydrocarotenoids: như astaxanthin, zeaxanthin, lutein và tunaxanthin có thể được
chuyển hóa sinh học sang vitamin A
2
.
Thiếu vitamin A lâu dài, cá hồi sẽ thiếu máu, nắp mang xoắn lại, xuất huyết
mắt và gốc các mang cá. Cá da trơn Mỹ sử dụng thức ăn có 0,4 mg/kg -carotene
trong ba năm, dẫn đến hiện tượng cá tăng trưởng chậm, mắt lồi sưng lên, và thận xuất
huyết. Trên cá chép, thiếu vitamin A cá sẽ có màu nhợt nhạt, xuất huyết da, vây và
biến dạng nắp mang giống như trường hợp cá hồi. Ngược lại, thức ăn chứa một lượng
lớn vitamin A (2,2 triệu IU/kg) dưới dạng retinyl palmitate sẽ làm cá chậm tăng
trưởng, thiếu máu và biến dạng cuống đuôi (như được ghi nhận trên cá hồi).
Nhu cầu vitamin A của cá thay đổi từ 2.000-2.500 IU/kg thức ăn, ở các loài cá
hồi hay thấp hơn khoảng 1.000-2.000 IU/kg đối với cá da trơn Mỹ và các loài cá chép
(Bảng VIII.3). Vitamin A thường được bổ sung vào thức ăn dưới dạng acetate,
palmitate hay propionate ester. Vitamin A tương đối bền với nhiệt, so với các vitamin
khác, nhưng nhạy cảm với tác nhân oxy hóa.
VIII.4.2. Vitamin D
Trong thiên nhiên, có hai dạng vitamin D phổ biến: Vitamin D
2
(ergocalciferol
có trong thực vật) và vitamin D
3
(cholecalciferol có trong động vật). Hai dạng vitamin
trên bò thủy phân trong gan, thành dạng 25-hydroxy D
3
. Vitamin D
3
có giá trò sinh học
trong việc huy động, vận chuyển, hấp thụ và sử dụng calci và phosphorus cùng với
157
tác động của các hormone trong tuyến phó giáp trạng.
Cholecalciferol có hoạt tính sinh học gấp ba lần ergocalciferol ở các loài cá
hồi và cá da trơn Mỹ. Thức ăn thiếu vitamin D gây ra các triệu chứng: cá hồi tăng
trưởng chậm, lượng mỡ gan tăng lên, và thiếu hụt calci, dẫn đến co giật. Ở các loài
cá khác: như cá da trơn Mỹ, thiếu vitamin D làm hàm lượng calci và phosphorus trong
thân cá giảm xuống. Trái lại, khi thức ăn được bổ sung quá nhiều vitamin D, sẽ làm
gia tăng lượng calci trong máu (hypercalcicemia) và tăng số lượng hồng cầu trong cơ
thể cá, nhưng trọng lượng cá hay tỉ lệ sống không thay đổi so với cá đối chứng.
Nhu cầu vitamin D thay đổi trong khoảng 2.000-2.400 IU/kg đối với cá loài cá hồi
và cá chép. Các loài cá khác có nhu cầu thấp hơn. Thức ăn thường đủ lipid nên lượng
vitamin D không thiếu. Do đó, không nhất thiết phải bổ sung vitamin D.
VIII.4.3. Vitamin E
Vitamin E có tám đồng phân Tocopherol, trong đó alpha-Tocopherol có hoạt
tính sinh học mạnh nhất. Chức năng chính của vitamin E là chất kháng oxy hóa sinh
học, chủ yếu ngăn cản hiện tượng oxy hóa các acid béo không no PUFA và HUFA có
trong màng cơ bản. Do đó, khi lượng acid béo trong thức ăn tăng lên, vitamin E sẽ rất
cần thiết và cần phải bổ sung. Vitamin E cũng liên quan đến sự sinh tổng hợp và hoạt
động của hormone sinh dục, thông qua hệ thống não thùy.
Những triệu chứng do thiếu vitamin E trong thức ăn, được ghi nhận ở nhiều
giống loài thủy sản cũng như các động vật trên cạn. Thiếu vitamin E thường dẫn đến
tổn thương gan, cơ thoái hóa và các cơ quan sinh dục bò ảnh hưởng. Trên cá chép, khi
bổ sung vitamin E thông qua thức ăn, cá có sức sinh sản tăng cao, hệ số thành thục
14,1% (thay vì là 3,3% ở cá ăn thức ăn không được bổ sung vitamin E). Ngoài ra,
vitamin E còn giúp nâng cao tỉ lệ nở của trứng, vì lượng vitamin E trong trứng tỉ lệ
thuận với lượng vitamin trong thức ăn. Trên cá hồi, Oberbach và Hartfiel (1988) ghi
nhận: thức ăn chứa nhiều acid béo không no, sẽ dẫn đến giảm lượng hồng cầu, gan
và cơ bò tổn thương, khi thức ăn được cung cấp không đủ lượng alpha-tocopherol 20
mg/kg thức ăn.
VIII.4.4. Vitamin K
Vitamin K cần cho sự đông máu ở các động vật, kể cả các loài cá. Cá hồi và
cá da trơn Mỹ cần một tỉ lệ nhất đònh vitamin K trong thức ăn, để duy trì hiện tượng
đông máu bình thường. Thức ăn thiếu vitamin K không ảnh hưởng đến tăng trưởng.
Nhu cầu vitamin K chưa được xác đònh trên các loài cá nhiệt đới, nhưng lượng 0,5-1
mg vitamin K trong 2 kg thức ăn, đủ để giữ máu đông bình thường ở cá hồi.
Vitamin K được sinh tổng hợp trong ruột một số động vật, nhưng cá không có
khả năng này. Thức ăn động vật như bột cá là nguồn cung cấp đáng kể vitamin K.
Menadione sodium bisulfite hay menadione dimethylpyrimidinal bisulfite là nguồn
vitamin K tổng hợp, được dùng trong các hỗn hợp premix vitamin.
158
VIII.5. SỬ DỤNG VITAMIN TRONG THỨC ĂN THỦY SẢN
Nguồn cung cấp vitamin cho động vật thủy sản chủ yếu được lấy từ thức ăn, trừ
một số vitamin nhóm B và K được khu hệ vi sinh vật trong ruột cung cấp một phần.
Khả năng sản sinh các nhóm vitamin này, được ghi nhận ở các động vật trên cạn như:
gia súc, gia cầm và con người. Có nhiều nghiên cứu về khả năng khu hệ vi sinh vật sản
sinh các vitamin. Đến nay, ở cá khả năng này rất hạn chế, ngoại trừ một số trường hợp
đặc biệt. Thêm nữa, vitamin C thường được sinh tổng hợp một phần từ glucose, ở một
số động vật xương sống (trừ các động vật linh trưởng) và các loài cá. Do khả năng sử
dụng hạn chế nguồn vitamin từ vi sinh vật, trong điều kiện nuôi thâm canh với mật độ
nuôi cao và cá tăng trưởng nhanh, vitamin trong thức ăn thường không cung cấp đủ cho
nhu cầu của cá. Do đó, phải bổ sung thêm vitamin vào thức ăn công nghiệp nuôi thủy
sản. Các vitamin thường được bổ sung ở dạng premix vitamin riêng lẻ hay chung với
khoáng. Ngày nay, công nghiệp dược phẩm có rất nhiều vitamin hay các dẫn xuất
vitamin, được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi và thủy sản. Một số công thức vitamin
được đề nghò sử dụng cho các loài thủy sản (Bảng VIII.7).
Tuy nhiên, khi bổ sung vitamin vào thức ăn thủy sản, cần lưu ý những điểm sau:
Chỉ sử dụng premix vitamin trong điều kiện nuôi thâm canh hay bán thâm
canh. Trường hợp nuôi quảng canh hay quảng canh cải tiến, thức ăn tự
nhiên đã cung cấp đầy đủ vitamin.
Bổ sung vitamin vào thức ăn là cần thiết khi sử sụng thức ăn nhân tạo.
Người sản xuất thường có khuynh hướng bổ sung một lượng lớn vitamin
vào thức ăn, để phòng ngừa sự thiếu hụt và biến chất các vitamin trong
quá trình bảo quản thức ăn.
Cũng cần lưu ý đến khả năng tan rữa của vitamin trong thức ăn. Đặc biệt,
với vitamin dễ tan trong nước (vitamin C), cũng như tập tính ăn mồi chậm
của động vật thủy sản (tôm).
Bảng VIII.7. Thành phần của một số premix vitamin sử dụng cho thủy sản (mg/kg thức ăn)
Vitamins Cá biển
1
Cá da trơn
2
(Catfish)
Cá chép
3
Tôm nước
ngọt
4
Tôm biển
5
Vitamin A
Vitamin D
Vitamin E
Vitamin B
1
Vitamin B
2
Vitamin B
6
Vitamin B
12
Folic acid
Inositol
5.000 IU
1.000 IU
120
40
120
0.02
5
800
800 IU
400 IU
8
4
8
4
0.008
2
12
8.000 IU
900 IU
3.6
0.2
0.005
5.500 IU
1.237 IU
4.1
3.3
8.2
0.3
5.000 IU
1.000 IU
200
120
40
120
0.02
5
4.000
159
Niacin
Pantothenic acid
Vitamin C
Choline chloride
Biotin
Vitamin K
150
100
1.000
1.200
1
40
100
16
80
1.200
0.4
4
20
7
160
24.7
4.9
67.1
0.8
150
100
5.000
1.200
1
40
1
: cho cá chẽm, cá mú và cá chìa vôi theo Meyers, 1987 FAO, Rome
2
: theo Halver, 1982
3
: theo Viola và Arieli, 1983
4
: theo Corbin 1983
5
: theo Kanazawa, 1984
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Conklin D. E. (1997). Vitamins, 123-149 ps in D’Abramo et al., ets. Crustacean
Nutrition. Advances in World Aquaculture. Vol. 6. World Aquaculture Society
587 ps.
2. Guillaume, J., Kaushik, S., Bergot, P. & Metailler, R. (1999). Nutrition et
alimentation des poissons et crustacés. INRA-IFREMER.
3. Halver J. E & Hardy R.W. (2002). Fish Nutrition. Third Edition. Academic
Press. California, USA. 824 ps.
4. Moss S. M., Forster I.P., Tacon A. (2006). Sparing Effect of Pond Water on
Vitamins in Shrimp Diets. Aquaculture 258: 388–395
5. Shiau S.Y. (2002). Tilapia, Oreochromis spp. In: Webster C.D. & Lim C. (eds).
Nutrient Requirements and Feeding of Finfish for Aquaculture. CABI
Publising, 418 ps, UK
6. Shiau, S.Y. & January, F.I. (1992). Ascorbic acid requirement of grass shrimp
Penaeus monodon. Nippon Suisan Gakk., 58, 363
7. Viola S. and Arieli (1983). Nutrition studies with Tilapia (Sarotherodon). 1.
Replacement of fishmeal by soybean meal in diets for intensive tilapia
culture. Bamidgeh 35. 9-17.