LỜI MỞ ĐẦU
Qua nhiều thập niên kiềm chế tài chính nặng nề, các quốc gia nhận thức rõ các giá
phải trả, đồng thời, với những điều kiện mới của môi trường toàn cầu, các nước cố
gắng tạo cho mình những giải pháp tự do hóa tài chính để làm tăng tính cạnh tranh
trong hệ thống tài chính, từ đó cải thiện hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực.
Các nước đều có những sự khác biệt nhất định như: yếu tố cơ bản của kinh tế vĩ
mô; trình độ phát triển của hệ thống tài chính; mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp
lý; năng lực điều hành, quản trị v.v là những vấn đề cần quan tâm khi lựa chọn các
biện pháp và trình tự tự do hóa tài chính. Mục đích chính là tối đa hóa những lợi ích
của tự do hóa tài chính đồng thời giảm thiểu được những thiệt hại mà tự do hóa tài
chính mang theo. Tự do hóa tài chính giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt
và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh,
mang lại động lực phát triển cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng,
chất lượng cao. Những lợi ích tiềm năng của tự do hóa tài chính là rất lớn, nhưng bên
cạnh đó cũng có những mặt trái được cho là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ và khủng
hoảng tài chính.
Vậy để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng tìm hiểu tại sao chúng ta cần tự do hóa tài
chính? Tự do hóa tài chính mang lại những cơ hội và thách thức gì cho các quốc gia
tham gia?
Trong quá trình làm bài, em đã cố gắng làm rõ vấn đề và phân tích rõ những cơ
hội và thách thức của tự do hóa tài chính. Do đây là một vấn đề lớn và kiến thức còn
rất hạn chế nên chắn hẳn bài tiểu luận còn có nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự
góp ý từ thầy. Em xin chân thành cảm ơn.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 1
Chương 1: Cơ sở lý luận về tự do hóa tài chính
1.1 Khái niệm tài chính
Theo quan điểm khoa học đương đại: Tài chính là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể khác nhau được biểu hiện bằng tiền.
Bản chất là quan hệ lợi ích kinh tế.
Phương thức quan hệ: Thông qua các hoạt động cụ thể như: tham gia đầu tư, sản
xuất, phân phối theo các quan hệ tỷ lệ hoặc khuôn khổ giới hạn nhất định.
Nội dung quan hệ lợi ích: doanh thu, lợi nhuận, lợi tức, thuế
Hình thức biểu hiện lợi ích: Được đo bằng tiền dưới nhiều loại phương tiện khác
nhau như: tiền mặt, tiền trên tài khoản, tiền điện tử, các loại giấy tờ có giá thông qua
các công cụ chủ yếu là lãi suất, tỷ giá, giá cả
1.2 Khái niệm tự do hóa tài chính
Theo IMF: Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự
kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ
thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
1.3 Nội dung của tự do hóa tài chính
Bao gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại (NHTM), tự do hóa giao dịch vốn, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài
chính trên thị trường tài chính.
1
1.3.1 Tự do hóa lãi suất
Khái niệm: Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính.
Tự do hóa lãi suất là trao cho thị trường toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng, ngân
hàng trung ương chỉ sử dụng các công cụ can thiệp gián tiếp để điều chỉnh cho phù
hợp với chiến lược và mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Biểu hiện: Tự do hóa lãi suất là hạt nhân của quá trình tự do háo tài chính. Tự do
hóa lãi suất thể hiện bằng việc cho phép các NHTM, các tổ chức tín dụng được tự do
quyết định mức lãi suất huy động vốn và cho vay; ngân hàng trung ương sử dụng cơ
chế điều hành lãi suất gián tiếp thay cho cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp.
1.3.2 Tự do hóa tỷ giá
Tỷ giá là giá cả của tiền và phản ánh tổng hòa tương quan mức giá chung xã hội
trên thị trường trong nước so với thị trường nước ngoài.
Khái niệm: tự do hóa tỷ giá là một quá trình tiến tới cho phép tỷ giá được xác
định dựa trên quan hệ cung cầu thị trường.
1 Hội thảo khoa học với chủ đề “Tự do hóa tài chính và giải pháp, chính sách” do NHNN tổ
chức ngày 4/5/2007
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 2
Biểu hiện: Tự do hóa tỷ giá được thể hiện ở một số khía cạnh: bỏ việc ấn định tỷ
giá, các biện pháp quản lý hành chính về ngoại tệ được loại bỏ và các công cụ mang
tính thị trường được sử dụng, tỷ giá được xác định dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ.
1.3.3 Tự do hóa giao dịch vốn
Giao dịch vốn là những giao dịch liên quan đến chuyển dịch vốn giữa người cư trú
và người không cứ trú của một quốc gia.
Khái niệm: Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp
dụng đối với những giao dịch này. Tự do hóa giao dịch vốn cho phép các dòng vốn
vào – ra được lưu chuyển tự do theo nguyên tắc thị trường (các dòng vốn được tự do
lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao). Các hoạt
động này diễn ra tự nhiên, không hạn chế bởi biên giới quốc gia mà theo hướng giảm
tối đa sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường.
Biểu hiện:
• Cho phép người không cử trú sở hữu các tài sản tài chính trong nước ở cả
dạng giấy tờ nợ hoặc cổ phiếu.
• Cho phép người người cư trú nắm giữ tài sản tài chính nước ngoài.
• Cho phép cả người cư trú và người không cư trú được tự do nắm giữa và trao
đổi các tài sản tài chính trên thị trường nội địa. Đây là mức độ cao nhất của tự
do hóa các giao dịch vốn, đồng thời cũng là mức độ cao nhất của tự do hóa tài
chính.
1.3.4 Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác
trên thị trường tài chính
Khái niệm: Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài
chính khác trên thị trường tài chính nghĩa là xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của chính
phủ vào quá trình hoạt động các tổ chức này, để các tổ chức này hoạt động theo quy
luật thị trường.
Biểu hiện:
• Loại bỏ kiểm soát lãi suất.
• Giảm dự trữ bắt buộc.
• Giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước đối với các quyết định cho vay của các
ngân hàng, xóa bỏ tín dụng chỉ định đối với các NHTM.
• Tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh.
• Sự mở rộng hơn nữa các định chế tài chính trong nước và gia nhập của các tổ
chức của các tổ chức tài chính nước ngoài tăng lên.
1.4 Bản chất của tự do hóa tài chính
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có
của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục
tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa nhà nước và thị trường trong việc thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thường
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 3
được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền gửi mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống
NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Ngoài ra, tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc
về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này
được thay thế bởi một cơ chế tỷ giá: tự do hóa mang lại cho các định chế tài chính
quyền tự do xác định các mứuc lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi
suất. trên lý thuyết, tự do hóa dẫn đến chấm dứt các mức lãi trần lãi suất cũng như
những ràng buộc trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động được. Tự do hóa cũng
chấm dứt những kênh cấp vốn ưu đãi
2
.
Ngoài ra việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm
dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh tế cũng được xem là một
khía cạnh của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, tự do hóa không có nghĩa là chấm dứt
mọi quy định hay giám sát của hoạt động tài chính. Ngược lại, tự do hóa đòi hỏi phải
tăng cường cơ sở hạ tầng quy chế và các cơ quan giám sát
3
. Việc đặt ra các quy định
là cần thiết để đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả của các thị trường tài chính và ngân
hàng.
Tùy theo tình hình thực tế của từng quốc gia, tự do hóa tài chính bao gồm nhiều
yếu tố khác nhau. Nhìn chung có 5 yếu tố quan trọng nhất: tự do hóa lãi suất và giá
cả; tự do hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức tín
dụng nhà nước; tự do hoạt động ngoại hối; tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài
chính trên thị trường tài chính cắt giảm thuế và lạm phát trên thị trường tài chính quốc
gia.
• Tự do hóa lãi suất và giá cả là cho phép các định chế tài chính, ngân hàng tự
do xác định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, tự do ấn định các mức
phí trong phạm vi hoạt động tài chính.
• Tự do hóa hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ
chức tín dụng nhà nước là việc xóa bỏ các hạn chế, định hướng chủ quan hay
ràng buộc về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng và mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh
tế.
• Tự do hóa hoạt động ngoại hối là việc xóa bỏ các hạn chế về quản lý ngoại hối
và thực hiện điều hành tỷ giá hối đoái theo nguyên tắc thị trường.
• Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính là việc
tiến hành mở rộng tự do cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính
2 Báo cáo của Jean-Pierre Landau, Tổng thanh tra tài chính, Tổng giám đốc Hiệp hội Ngân
hàng Pháp trong chương trình Hội thảo “Tự do hóa và an ninh tài chính” ngày 10/01/2001 tại
Hà Nội.
3 J.Stiglit trong “Vai trò của hệ thống tài chính trong quá trình phát triển”. Hội nghị thường
niên về phát triển ở Châu Mỹ Latin và Caribbean, 29/6/1998.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 4
thông qua việc xóa bỏ những hạn chế về phạm vi hoạt động, phạm vi kinh
doanh của các tổ chức tài chính.
• Cắt giảm thuế và mở rộng quan hệ tự do thương mại nhằm khắc phục những
tổn thất kinh tế mà các quốc gia phải gánh chịu nếu có hàng rào thuế quan.
Đồng thời tạo ra một môi trường ổn định kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho các
nguồn lực của quốc gia được tận dụng triệt để và hiệu quả.
Mở cửa hội nhập đồng nghĩa là việc tiếp nhận các định chế tài chính nước ngoài
và hoạt động và thừa nhận các dịch vụ tài chính cuả họ. Việc mở cửa cho nước ngòai
tham gia các ngành dịch vụ tài chính đảm bảo đa dạng hóa lựa chọn và nâng cao chất
lượng phục vụ người tiêu dùng. Tuy nhiên tùy thuộc vào tình hình thực tế của mỗi
quốc gia mà việc tiếp nhận trên có quy mô và cường độ khác nhau. Đối với Việt Nam,
tôi thiết nghĩ có thể đấy mạnh tự do hóa tài chính trên cơ sở thận trọng từng bước tiến
tới cạnh tranh hoàn toàn đối với các định chế tài chính mạnh trên tòan cầu.
1.5 Đo lường mức độ tự do hóa tài chính
Có một số chỉ số đo lường mức độ tự do hóa tài chính để tham khảo
• Chỉ số KAOPEN đo lường mức độ mở cửa tài chính (độ mở cửa tài khoản
vốn).
• Phương pháp đo lường mức độ hội nhập bằng cách định lượng các dòng vốn
thực.
• Chỉ số Schindler để đo lường mức đột ự do hóa các giao dịch vốn.
• Chỉ số tự do hóa tài chính: đo lường mức độ tự do hóa tài chính bằng cách cho
điểm các thành phần của tự do hóa tài chính.
Đây là cách đo lường có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các quốc gia và bao quát
khá rộng, tới các bộ phận khác nhau của tự do hóa tài chính chứ không riêng về giao
dịch vốn.
1.6 Nguyên tắc của tự do hóa tài chính
Nguyên tắc 1: Tự do hóa tài chính được thực hiện tốt nhất trong bối cảnh kinh tế
vĩ mô lành mạnh.
Nguyên tắc 2: Tự do hóa tài chính phải gắn bó chặt chẽ với việc thiết lập một cơ
sở hạ tầng thể chế có thể giảm thiểu rủi ro bất ổn tài chính.
Nguyên tắc 3: Để có tốc độ tự do hóa tài chính thích hợp, tại từng thời điểm, cần
phải xem xét lại những điều kiện tài chính và sự lành mạnh của các định chế tài chính
cũng như thời gian cần thiết để tái cơ cấu các định chế này (nếu cần).
1.7 Một số quan điểm về trình tự tự do hóa tài chính
Thực tế cho thấy, không thể có một trình tự tự do hóa tài chính thống nhất cho
mọi quốc gia, do các vấn đề về đặc điểm từng quốc gia, thời điểm tự do hóa tài chính
cũng như bối cảnh quốc tế. Đã có nhiều quan điểm khác nhau về trình tự tự do hóa tài
chính.
• Quan điểm của McKinnon và Shaw.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 5
• Quy tắc về lộ trình tự do hóa tài chính của OECD.
• Các tiếp cận tổng hợp của IMF.
• Các tiếp cận của ADB.
1.8 Nhân tố tác động và điều kiện cần thiết của quá trình tự do hóa
tài chính
1.8.1 Nhân tố tác động tới quá trình tự do hóa tài chính
Xét khía cạnh khách quan: xu hướng tòan cầu hóa kinh tế là nhân ố thúc đẩy tự do
hóa tài chính.
Xét khía cạnh chủ quan: tự do hóa tài chính còn bị tác động bởi ý muốn chủ quan
của chính các quốc gia trong việc điều hành nền kinh tế.
1.8.2 Điều kiện cần thiết để thực hiện tự do hóa tài chính
• Môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh
• Cơ chế thị trường được vận hành tốt
• Năng lực quản lý vĩ mô của chính phủ
• Sự đầy đủ và đồng bộ của khuôn khổ pháp lý
• Năng lực, sự phát triển của các định chế tham gia thị trường.
Chương 2: Cơ hội và thách thức của tự do hóa tài chính
2.1 Cơ hội và lợi ích của tự do hóa tài chính
Tự do hóa thương mại trong ngành dịch vụ tài chính, được thể hiện một cách minh
bạch và có cơ chế chính sách ổn định, sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác nhau cho
các nước, cho bản thân ngành tài chính, các ngành liên quan và cho cả nền kinh tế.
Lợi ích của việc tự do hóa các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
có thể được nhìn nhận trên một số góc độ sau:
a) Trong phạm vi quốc gia, một hệ thống tài chính mạnh và sống động đặc biệt rất quan
trọng đối với nền kinh tế hội nhập để có được cơ sở cho hoạt động thương mại một
cách đa dạng về dịch vụ hàng hóa. Cam kết về dịch vụ tài chính sẽ giúp nhà cung cấp
dịch vụ tài chính và quốc gia trở nên hấp dẫn, thu hút đầu tư qua kênh thương mại
điện tử và công nghệ hỗ trợ. Và tạo điều kiện thúc đẩy thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế, vào thời điểm nhất định, giúp một quốc gia có khả năng tiêu
dùng lớn hơn khả năng sản xuất. Về lâu dài, thương mại quốc tế giúp các nước trao
đổi hàng hóa, nguồn lực, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Thương mại giữa các quốc gia thực chất là trao đổi ngang giá. Do vậy, một giao
dịch thương mại luôn có hai mặt: chuyển giao hàng hóa dịch vụ và thanh tóan. Tự do
hóa tài chính thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho mặt
hàng thứ hai thông qua tự do chuyển tiền, tự do mua các tài sản ngoại tệ từ các nguồn
thu xuất khẩu, chủ động bảo hiểm tỷ giá
b) Tự do hóa dịch vụ tài chính tạo điều kiện về công ăn việc làm, giải quyết nạn thất
nghiệp và phát triển lao động của các ngành dịch vụ lệ thuộc.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 6
c) Tự do hóa dịch vụ tài chính còn thúc đẩy tăng trưởng và tiếp cận kỹ thuật công nghệ
mới. Nó đã phát triển hệ thống ngân hàng trực tuyến, giao dịch chứng khoán, dịch vụ
bảo hiểm và dịch vụ thông tin tài chính.
d) Một thuận lợi nữa trong tự do hóa, đó là các thị trường hội nhập đóng vai trò to lớn
khi xuất khẩu dịch vụ tài chính. Ví dụ: Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Mexico,
và Brazil là các nhà cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính mang tính chất khu vực
và quốc tế.
e) Tự do hóa tài chính sẽ tăng thêm chất lượng dịch vụ tài chính được cung cấp. Đa dạng
hóa sự lựa chọn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho người tiêu dùng. Xã hội được tiếp
cận với những dịch vụ tốt hơn và giá cả rẻ hơn. Đồng thời trên cơ sở cạnh tranh lẫn
nhau, các khu vực dịch vụ tài chính ở hầu hết các nước cũng góp phần thúc đẩy chính
phủ các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi
cách thức can thiệp vào thị trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hành lang pháp
lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Lợi ích này là hệ quả trực tiếp của việc mở cửa tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường
dịch vụ tài chính. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc ban thư kí của WTO
đã kết luận rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở các nước theo đuổi chính
sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu
quả. Do đó, chi phí dịch vụ giảm đi đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng cao, các
loại hình dịch vụ được đa dạng hóa và khách hàng được tiếp cận với các loại hình
dịch vụ một cách nhanh nhất. Điều này không chỉ có lợi cho người tiêu dùng mà còn
có lợi cho cả nền kinh tế.
Cho đến nay những nghiên cứu về hiệu quả của các tổ chức tài chính ở những thị
trường mới nổi chưa có nhiều. Nhưng một số kết quả điều tra đã cho thấy, tiềm năng
nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí thông qua mở rộng cạnh tranh là rất lớn. Khả
năng lợi ích mang lại càng cao nếu hệ thống tài chính có khả năng cạnh tranh càng
lớn.
f) Theo nhiều nghiên cứu, tự do hóa tài chính tác động đầu tiên và mạnh mẽ đến hệ
thống ngân hàng và nâng cao tính cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nước.
Việt Nam có sức mạnh và ưu thế hẳn so với các ngân hàng nước ngoài do có được
mạng lưới chi nhánh rộng khắp có được mối quan hệ truyền thống với khách hàng và
đặc biệt là hiểu được tâm lý khách hàng thông qua những hiểu biết văn hóa mà các
ngân hàng nước ngoài không có được. Chính vì vậy sự tham gia của các ngân hàng
nước ngoài ở Việt Nam sẽ tạo ra một động lực để các ngân hàng Việt Nam cải thiện
nhanh chóng các hoạt động của mình trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính cùng
với việc đổi mới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế.
Ngành dịch vụ tài chính tại bất cứ quốc gia nào cũng sẽ phải chịu tổn thất do việc
xóa bỏ các biện pháp bảo hộ vốn đã nuôi dưỡng những nhà cung ứng hoạt động với
chi phí và lợi nhuận cao trong niều năm. Việc thông tin dễ dàng hơn và việc dỡ bỏ các
hạn chế đối với hoạt động vay và tiền gửi ở nước ngoài đã buộc các ngân hàng trong
nước phải cắt giảm chi phí, ít nhất là đối với các khách hàng lớn, đồng thời ép chúng
phải nâng cao chất lượng phục vụ nếu không muốn mất chỗ đứng. Trong sự cạnh
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 7
tranh khốc liệt này, tất yếu sẽ có các tổ chức bị loại ra khỏi cuộc chiến do không đủ
sức mạnh hoặc không chịu đổi mới để thích nghi với hòan cảnh mới. Tuy nhiên,
những tổ chức còn tồn tại được sẽ có một sức mạnh mới lớn hơn trước kia rất nhiều,
không những đủ sức cạnh tranh trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngòai nổi tiếng thường kéo theo sự
cải thiện tính minh bạch, nhất là khi các ngân hàng này mang theo mình các thông lệ
kế toán hoàn thiện hơn. Và nếu các ngân hàng trong nước muốn tạo lập sự hiện diện
của mình tại các trung tâm tài chính tiên tiến để có thể cạnh tranh được với các dịch
vụ tài chính quốc tế mà các ngân hàng nước ngòai đang cung cấp cho khách hàng
trong nước thì các ngân hàng sẽ phải tìm cách xin giấy phép hoạt động tại các trung
tâm nói trên. Để làm được điều đó, thay vì thỏa mãn với các quy định trong nước
tương đối lỏng lẻo, các ngân hàng này sẽ gây áp lực với các nhà điều tiết trong nước
phải nâng cấp các quy định đó, như trường hợp Mêhicô trong bối cảnh hiệp định tự do
Bắc Mĩ.
Kết quả là, hệ thống tài chính đã được nâng cao tính cạnh tranh cả ở quy chế điều
tiết lẫn các thành phần tham gia hệ thống.
g) Tự do hóa tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ giúp cho người dân trong nước tự do
lựa chọn các dịch vụ bảo hiểm từ người cung cấp tốt nhất, hạn chế dần sự bất cân
xứng thông tin giữa người mua và người bán. Trong giao dịch chứng khoán, việc tự
do hóa các dịch vụ tài chính cùng với việc nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của người
nước ngoài có thể giúp vực dậy thị trường Việt Nam vốn rất ảm đạm trong những
năm gần đây.
h) Về phương thức lợi ích mang lại từ tự do hóa tài chính gia tăng theo hai phương thức
chính như sau:
Thứ nhất, tự do hóa tài chính có khả năng thúc đẩy sự tăng trưởng do gia tăng
mức độ đầu tư và nâng cao tỷ suất sinh lời của đầu tư thông qua việc các nước này
tiếp cận được với kinh nghiệm quản lý hiện đại, các thành quả khoa học trên thế giới
và đặc biệt tiếp cận được tác động của thị trường hiệu quả là thị trường mà các thông
tin được phản hồi một cách đầy đủ và kịp thời.
Thứ hai, tự do hóa tài chính cho phép mọi cá nhân tự bảo hiểm chống lại sự phát
triển không cân đối của nền kinh tế bằng cách đa dạng hóa đầu tư và khai thác thị
trường toàn cầu để dịu đi sự suy giảm tạm thời trong thu nhập.
i) Tự do hóa tài chính cũng thúc đẩy tăng trưởng do khuyến khích các nhà đầu tư
chuyển hướng vào đầu tư những sự án có rủi ro cao hơn vì nhà đầu tư có thể đa dạng
danh mục đầu tư của mình để hưởng tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Sự lựa chọn các cơ hội
đầu tư phụ thuộc vào ba nhân tố: sự tụt hậu về kỹ thuật, mức độ rủi ro quốc gia và
mức độ phát triển thị trường vốn.
j) Một khía cạnh khác làm gia tăng tự do hóa tài chính một cách nhanh chóng hơn là đầu
tư trực tiếp nước ngòai (FDI). Điều này góp phần phân bổ lại nguồn lực, gia tăng lợi
ích của mỗi quốc gia và kích thích đầu tư trong nước phát triển Góp phần huy động
được nguồn vốn lớn hơn.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 8
Trước hết, xét về nguồn vốn trong nước, tự do hóa tài chính có thể nâng cao tỷ lệ
tiết kiệm của tư nhân so với thu nhập và mở ra cách thức phân bổ vốn tốt hơn thông
qua việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường tài chính mà ở đó các cơ hội đầu tư cạnh
tranh nhau để thu hút các dòng tiết kiệm và thị trường và thậm chí có khuynh hướng
làm bình đẳng phân phối thu nhập.
Theo McKinnon và Shaw, việc quản lý lãi suất chính thức trong một môi trường
lạm phát cao sẽ làm cho lãi suất thực có xu hướng âm. Đến lượt lãi suất thực âm lại
giới hạn sự phát triển của các tài sản nợ và có trong hệ trong hệ thống tài chính. Hưon
nữa lãi suất thực âm buộc người tiết kiệm phải chuyển các khoản tiết kiệm của mình
từ các tổ chức tài chính đến đầu tư vào bất động sản, vàng, ngoại tệ nhằm chống lại sự
mất giá từ lạm phát. Và hậu qủa của việc thay đổi danh mục đầu tư này sẽ làm cho các
ngân hàng và tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng thiếu các nguồn vốn vay cho
các khu vực còn lại của nền kinh tế.
Khuyến nghị chính sách cho vấn đề này là quá trình tự do hóa tài chính bằng bãi
bõ lãi suất trần cần phải được thực hiện tại những nước nơi mà hệ thống tài chính
đang bị kiềm chế. Quá trình này không chỉ làm tăng tiết kiệm và những nguồn vốn có
thể cho vay mà còn làm cho việc phân bổ những nguồn vốn đó có hiệu quả hơn và do
đó góp phần dẫn đến một mức tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Về phía nước ngoài, tự do hóa tài khỏan vốn tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào trong nước qua các kênh FDI, PFI đóng góp một nguồn vô cùng
quan trọng cho nền kinh tế. Mặt khác, các nhà đầu tư vì động cơ lợi nhuận nên luôn
tính tóan xem sẽ đầu tư vốn vào đâu cho có hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà nguồn
vốn càng được phân bổ có hiệu quả.
Những người ủng hộ sự lưu chuyển tự do của vốn còn chỉ ra các lợi ích vượt ra
ngoài lợi ích tĩnh do quá trình phân bổ lại nguồn vốn vay giữa các nước như sau: bởi
vì vốn cổ phần trong nước bây giờ có thể được kết hợp trong một danh mục đầu tư
rộng hơn nhiều nên chúng ít rủi ro hơn. Điều này làm tăng giá của chúng và giảm chi
phí vốn cho các công ty trong nước. Đến lượt mình, điều này lại làm cho các cơ hội
đầu tư trước đây được coi là quá mạo hiểm trở nên khả thi và tổng hợp lại, những cơ
hội này có thể đóng góp đáng kể cho tăng trưởng.
k) Phân tán rủi ro
Rủi ro là hiện tượng phổ biến trong mọi họat động kinh tế. Do vậy, phân tán rủi ro
là một nhu cầu khách quan. Việc phân tán đầu tư ở nhiều nơi khác nhau dưới nhiều
hình thức sẽ cho phép bảo toàn được vốn trong mọi trường hợp. Dưới tự do hóa tài
chính, việc tự do hóa tài khoản vốn không chỉ có nghĩa là người nước ngòai có khả
nằn tiếp cận nguồn vốn trong nước mà cũng có nghĩa là các công ty và hộ gia đình
trong nước có khả năng tiếp cận thị trường thế giới. Các nhà đầu tư trong nước có thể
tận dụng hết các cơ hội đa dạng hóa rủi ro do thị trường tài chính thế giới mang lại
bằng cách nắm giữ các tài sản nước ngòai trong danh mục đầu tư của họ. Đặc biệt,
phân tán rủi ro bằng cách đầu tư vào tài sản chính ở nhiều trung tâm khác nhau sẽ rất
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 9
có hiệu quả vì nếu vốn rút ra ồ ạt từ một trung tâm làm giá tài sản ở đây giảm xuống
thì vốn lại đổ vào nơi khác làm giá ở đó tăng lên.
Tóm lại, tự do hóa tài chính là liều thuốc phân bổ lại nguồn lực một các hợp lý
hơn giữa các quốc gia, đồng thời gia tăng sự cạnh tranh bình đẳng, từ đó giảm thiểu
chi phí, phân tán rủi ro, nâng cao chất lượng phục vụ, thúc đẩy chuyển giao công nghệ
và tạo môi trường thay đổi chính sách quản lý kinh tế trong bối cảnh hội nhập.
2.2 Thách thức của tự do hóa tài chính
Thứ nhất, về trình độ công nghệ cho thấy các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính
nước ngoài luôn có ưu thế nổi trội hơn so với các tổ chức dịch vụ tài chính trong
nước. Chính vì vậy, chất lượng sản phẩm, kênh phân phối, các sản phẩm tiện ích và
hệ thống chăm sóc khác hàng luôn đạt được chất lượng cao nhất.
Thứ hai, các tổ chức tài chính nước ngoài có ưu thế về nguồn chất xám, về khả
năng thu hút và đào tạo nguồn nhân lực, trong khi đó các tổ chức tài chính trong nước
không có được. Chúng ta có thể thấy rõ nét các khía cạnh như chế độ đãi ngộ, môi
trường làm việc, cơ hội thăng tiến và học tập mà người lao động có được khi họ làm
việc cho các tổ chức tài chính quốc tế.
Thứ ba, về tiềm lực tài chính là một khía cạnh bất cân xứng giữa các tổ chức tài
chính trong nước và ngoài nước. Có thể thấy rõ nét, các tổ chức tài chính của Việt
Nam có quy mô nhỏ và hoạt động rời rạc chưa hình thành được các tập đoàn tài chính
lớn và có quy mô cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế.
Thứ tư, các tổ chức tài chính trong nước chưa áp dụng đồng bộ và quán triệt các
tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, việc hòa nhập vào môi trường quốc tế chuyên
nghiệp chưa được thực hiện sâu rộng trong tiến trình hội nhập. Từ đó khả năng thu
hút nguồn lực tài chính với chi phí thấp, địa vị thương mại trên thị trường quốc tế
chưa đạt được hiệu quả cao.
Thứ năm, các sản phẩm tài chính phái sinh là khái niệm khá là mới mẻ trong hệ
thống ngân hàng nước ta và hầu nhưu chúng được nghiên cứu và triển khai không
đồng bộ trong một số tổ chức tài chính đơn lẻ. Vì vậy, khả năng cạnh tranh về các sản
phẩm tài chính phái sinh rất thấp và đây cũng được coi là lĩnh vực cực kỳ nguy hiểm
đối với các tổ chức tài chính và nền kinh tế. Do đó, chúng ta cần phải đánh giá hết
mức độ phức tạp và tinh vi của giao dịch sản phẩm phái sinh, tránh hiện tượng đầu cơ,
độc quyền chiếm lĩnh thị trường của các tổ chức tài chính nước ngoài và từng bước
nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tài chính trong nước.
Thứ sáu, tự do hóa tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng
tài chính nếu tiến trình tự do hóa được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc
thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc giá và quốc tế.
Thứ bảy, tự do hóa tài chính có thể làm mất quyền điều tiết thị trường tài chính
của chính phủ. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng
hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ
chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 10
mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng
cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp
tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm sóat, khống chế và điều khiển thị trường tài
chính của nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại và do đó có thể phương hại đến mục tiêu
chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được
chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như
lừa đảo, phá sản, đổ vỡ gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3.1 Bài học về cải cách kinh tế vĩ mô
Rõ ràng là tự do hóa tài chính trong một bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định cso
thể khiến cho lợi ích của tự do hóa bị triệt tiêu và tình trạng tự do háo trở nên trầm
trọng. Tự do hóa hoàn toàn lãi suất thực cao và chênh lệch lớn giữa lãi suất tiền gửi và
lãi suất cho vay. Vì vậy, việc xóa bỏ kiểm sóat vốn sẽ làm cho các luồng vốn trở nên
không ổn định và giảm hiệu quả việc kiểm sóat tiền tệ. Ngược lại, các nước có nền
kinh tế vĩ mô khá ổn định có thể tránh đựơc nguy cơ lãi suất thực cao, dao động trong
tỷ giá hối đoái thực và tình trạng không trả được nợ của các doanh nghiệp và ngân
hàng.
3.2 Bài học về sự phối hợp các chính sách
Bài học này cho rằng điều chỉnh tỷ giá hối đoái, cải cách thương mại và chính
sách doanh nghiệp hóa nhà nước nên thực hiện trước, hay ít nhất cũng đồng thời với
tự do hóa tài chính. Lý do đưa ra là trong khi giá cả bị lệch lạc do các biện pháp bảo
hộ hoặc kiểm soát giá thì tự do hóa tài chính có thể sẽ không cải thiện được vấn đề
phân phối nguồn lực, một trong những mục tiêu chủ yếu của nó. Thực tế, xóa bỏ điều
tiết có thể làm cho vấn đề tồi tệ hơn do hệ thống tài chính phản ứng linh hoạt hơn với
những tín hiệu xấu. Chẳng hạn, tỷ giá tăng quá cao ở Chi Lê đầu thập kỷ 80 rất có lợi
cho khu vực phi thương mại dẫn đến đầu tư quá mức vào bất động sản. Tự do hóa tài
chính khiến các nguồn lực đổ vào khu vực này tăng lên. Trong cuộc khủng hoảng tiếp
đó, bất động sản là một trong những khu vực bị thiệt hại nặng nề nhất.
3.3 Bài học về cải cách hệ thống pháp luật và có quy định giám sát
phù hợp
Sự can thiệp trực tiêp vào khu vực tài chính trong một hệ thống tự do hóa phải
được thay thế bởi một hệ thống pháp luật và quy định phù hợp, nếu không nói là mức
độ can thiệp ít hơn. Việc không đưa ra được các quy định phù hợp và thận trọng cũng
như thất bại trong việc giám sát ngân hàng đã góp phần dẫn đến tình trạng không trả
được nợ của các nước Bán Cầu Nam, Phillipines, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Malaysia
Ở Chi Lê chẳng hạn, việc tư nhân hóa ngân hàng khi không có một khuôn khổ hợp lí
các quy định thận trọng đã khiến các ngân hàng bị mua lại bởi các tập đoàn công
nghiệp để sử dụng cho vay quá mức đối với các hãng trong tập đoàn.
3.4 Bài học về những thay đổi sẽ xảy ra khi tự do hóa tài chính
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 11
Khi thực hiện tự do hóa tài chính, chính phủ phải lường trước được cải cách sẽ
thay đổi giá cả tương đối như thế nào và những thay đổi đó sẽ ảnh hưởng ra sao đến
các ngành khác nhau. Việc cân nhắc tính công bằng và tính khả thi chính trị khiến
việc hỗ trợ do sự chuyển đổi cho những ngành bị ảnh hưởng nặng trở nên cân thiết.
3.5 Bài học về tự do hóa tài khoản vốn trong quá trình hội nhập
Tài khỏan vốn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là đối với
một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được lợi ích của
việc tự do hóa trong khi tối thiểu hóa rủi ro yêu cầu phải tự do hóa tài khoản vốn một
cách từ từ, từng bước kết hợp với các chính sách quản lý tỷ gía hối đoái và chính sách
quản lý kinh tế vĩ mô. Điều quan trọng trong việc quản lý và kiểm soát số lượng dòng
vốn vào là sự khuyến khích rộng rãi để có thể thu hút và làm tăng dòng vốn vào. Điều
này sẽ ảnh hưởng đến chính sách quản lý từng bước dòng lưu chuyển vốn, hệ thống
tài chính trong sạch và vững mạnh.
Tự do hóa tài khoản vốn chỉ có thể thực hiện khi nền kinh tế có một nhà nước
trong sạch đứng sau lợi ích phát triển toàn cục của đất nước, thay vì đứng sau lợi ích
của một vài nhóm tài chính hoặc sản xuất nào đó; hệ thống ngân hàng phát triển lành
mạnh, hoạt động tín dụng được kiểm sóat chặt chẽ theo các tiêu chuẩn khách quan mà
các ngân hàng phát triển trên thế giới thực hiện.
Tự do hóa khoản vốn được phản ánh thông qua các công cụ mới trong thị trường
tài chính (mua bán tương lai, dựa trên tín dụng ngân hàng, chỉ số), đặc biệt là thị
trường cổ phiếu. Do đó, phát triển thị trường cổ phiếu phải thận trọng, tuần tự khi các
điều kiện cân nhắc ở trên cho phép.
Và như vậy, một nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu vào nguồn vốn nước
ngoài, đặc biệt là nguồn vốn vay ngắn hạn ngân hàng nước ngoài hoặc vốn đầu tư vào
thị trường chứng khóan là những loại vốn có thể chảy ra nhanh chóng.
Bên cạnh đó, việc xác định đúng đắn tỷ giá có ý nghĩa quan trọng trong cán cân
thương mại và cán cân thanh toán. Chính sách tỷ gía nếu không phản ánh đúng cung
cầu của sản xuất sẽ tiếp tục duy trì tình hình mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân
thương mại, chồng chất thêm nợ nước ngòai, đồng thời duy trì tâm lý đầu cơ.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 12
KẾT LUẬN
Khu vực dịch vụ tài chính trên thế giới đã thể hiện rõ xu hướng toàn cần hóa trong
vòng hai thập kỷ gần đây. Tự do hóa tài chính toàn cầu đã mang lại những lợi ích to
lớn xét trên cả khía cạnh hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Thật không may, trong thời
gian trước đây, một số nền kinh tế chuyển đổi theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính
đã lâm vào những cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nỗi ám ảnh về khả năng
xảy ra khủng hoảng đã trở thành một trong những nguyên nhân chính khiến các nước
thành viên WTO tỏ ra do dự trong việc cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính.
Đây cũng là mối quan tâm chung của các nước chưa phải là thành viên của WTO
nhưng đang trong quá trình xin gia nhập vào tổ chức này.
Trước xu thế hội nhập và yêu cầu đổi mới đã đặt ra không ít những thách thức
cho nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Tự do hóa tài chính là chấp
nhận các cơ chế và nguyên tắc tài chính vận động theo quy luật thị trường. Vì vậy sẽ
phát sinh những tác động tiêu cực và tích cực đến quá trình kinh tế. Điều quan trọng
là chúng ta phải tận dụng và phát huy những tác động tích cực nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, đồng thời phải chủ động đưa ra các biện pháp hạn chế những tác động
tiêu cực có thể gây ảnh hưởng đến nền an ninh tài chính quốc gia
Vậy nên tự do hóa tài chính là thực sự cần thiết với chúng ta trong quá trình hội
nhập thế giới. Đây là một bậc thang giúp chúng ta phát triển kinh tế, hòa nhập với nền
kinh tế thế giới. Nó mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội và lợi ích kinh tế. Và nếu
chúng ta biết tận dụng nó một các an toàn thì chúng ta sẽ đạt được nhiều thành công
trong việc phát triển đất nước, phát triển nền kinh tế.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đề tài nghiên cứu: “tự do hóa tài chính: cơ sở lý luận, thực tiễn ở các nước và
vấn đề thực hiện ở Việt Nam” – bộ tài chính – viện nghiên cứu tài chính.
- F.S.Mishkin – tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – NXB khoa học và
kỹ thuật – 1994.
- Nguyễn Đình Tài – tự do hóa tài chính đối với nền kinh tế chuyển đổi: thực
tiễn, vấn đề và bước đi – tạp chí ngân hàng số 13 năm 1998.
- Tài liệu: />- Đề tài nghiên cứu: “các giải pháp kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình
tự do hóa tài chính ở Việt Nam hiện nay” – Lê Xuân Vinh – trường Đại Học
Kinh Tế TP.HCM.
- Báo tin tức mới 24h: “tính hai mặt của tự do hóa tài chính” ngày 25/10/2012
- Luanvan.net.vn: “các giải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công
cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở Việt Nam”
- Đề tài nghiên cứu: “tự do hóa tài chính ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp” –
Bùi Thị Thanh Tình – Học Viện Ngân Hàng.
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TRANG 14
MỤC LỤC
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ