MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..............................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.........................................................................................2
CHƯƠNG I: KHÁT VỌNG TUỔI TRẺ VÀ TINH THẦN YÊU NƯỚC
CỦA NGƯỜI THANH NIÊN NGUYỄN ÁI QUỐC........................................2
1.1.
Giới thiệu về Nguyễn Ái Quốc...........................................................2
1.2.
Khát vọng tuổi trẻ của Nguyễn Ái Quốc............................................3
1.3.
Tinh thần yêu nước của Nguyễn Ái Quốc..........................................6
1.3.1.
Đánh giá chung............................................................................6
1.3.2.
Tinh thần yêu nước của Nguyễn Ái Quốc qua các giai đoạn.......8
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ LÒNG YÊU THƯƠNG
CON NGƯỜI CỦA HCM TRONG GIÁO DỤC LÒNG NHÂN ÁI CHO
SINH VIÊN....................................................................................................12
2.1. Thực trạng....................................................................................................12
2.1.1. Thực trạng khát vọng tuổi trẻ sinh viên........................................12
2.1.2. Xây dựng tinh thần yêu nước........................................................14
2.2. Biện pháp nâng cao khát vọng tuổi trẻ và tinh thần yêu nước..............15
2.2.1. Nâng cao khát vọng sinh viên.......................................................15
2.2.2. Nâng cao tinh thần yêu nước.........................................................17
PHẦN III: KẾT LUẬN.....................................................................................20
i
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản chính trị quốc gia
(2009)
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân
(2008)
3. Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản lao động (2007)
4. Trung ương Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Tuổi trẻ Việt Nam
học tập và làm theo lời Bác, Nhà xuất bản Thanh niên (2007)
5. tutuonghochiminh.vn
ii
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
biểu tượng cao đẹp cho các thế hệ con người Việt Nam noi theo. Mặc dù Người
đã đi xa, nhưng tư tưởng, tình cảm và đặc biệt là tấm gương đạo đức của Người
vẫn còn sống mãi với mỗi người dân yêu nước Việt Nam. Những việc làm,
những lời căn dặn, chỉ bảo của Người mãi là những chỉ dẫn hết sức cần thiết cho
chúng ta trong bước đường phát triển hôm nay và mai sau.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII đánh đấu một cột mốc quan
trọng trong nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội này,
Đảng ta khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tử tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về đạo đức có
vị trí hết sức quan trọng. Người coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa,
người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hồn thành được nhiệm vụ
cách mạng. Người viết: “cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có
nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo, người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân”. Như vậy trong tư tưởng đạo đức của Người đạo đức là
quan trọng, bồi dưỡng đạo đức là cần thiết và suốt đời.
Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách tồn diện
đối với mọi đối tượng, trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trên mọi
phạm vi từ hẹp đến rộng, trong cả ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi người: đối
với mình, đối với người, đối với việc, như: trung với nước, hiếu với dân, thương
yêu con người, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, tinh thần quốc tế trong
sáng. Trong nội dung tư tưởng ngoài quan điểm về đạo đức, thương yêu con
người thì khát vọng và tinh thần dân tộc là một nội dung rất được Người quan
tâm và thể hiện trong suốt cuộc đời mình.
Trong điều kiện hiện nay, trước những biến đổi nhiều mặt của đời sống xã
1
hội, dưới tác động của kinh tế thị trường, sự xuống cấp của của khát vọng và
tinh thần, thì việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận đụng những tư tưởng của Người
là rất cần thiết.
Với những lí do trên, tơi quyết định lựa chọn đề tài “Khát vọng tuổi trẻ
và tinh thần yêu nước của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc - bài học rút
ra cho thế hệ trẻ hiện nay” làm đề tài của mình.
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁT VỌNG TUỔI TRẺ VÀ TINH THẦN YÊU
NƯỚC CỦA NGƯỜI THANH NIÊN NGUYỄN ÁI QUỐC
1.1.
Giới thiệu về Nguyễn Ái Quốc
Thời thơ ấu và niên thiếu của Bác Hồ đầy ắp những kỷ niệm vui buồn.
Với tư chất thông minh, nhạy cảm, tâm hồn phong phú và trí tuệ sâu sắc, từ khi
vào tuổi trưởng thành và trong suốt cuộc đời mình, Người đau đáu một nỗi niềm
Dân-Nước. Nỗi niềm ấy không chỉ là cảm xúc và suy tư mà theo năm tháng thời
gian cùng với những trải nghiệm trực tiếp đã thôi thúc Người hành động để cứu
dân cứu nước.Cả cuộc đời Người là một sự dâng hiến trọn vẹn, toàn vẹn cho
cuộc sống của Dân, cho vận mện h của Nước, cho cơng cuộc g iải phóng và phát
triển dân tộc mình, cũng đồng thời cho cả nhân loại.
Bác Hồ sinh ngày 19-5-1890 vào mùa sen nở, tại làng Hồng Trù (cịn gọi
là làng Trùa) thuộc xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đó là vùng đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống hiếu
học, phong cảnh sơng núi hữu tình, lại rất nhiều sen, cả sen trắng lẫn sen hồng
tỏa hương mát dịu, tạo nên vẻ đẹp thanh cao, độc đáo trong tâm hồn của con
người xứ Nghệ quê Bác.
Tuổi thơ ấu, Bác được đặt tên là Nguyễn Sinh Cung. Nguyễn Sinh Cung
cịn được gọi là Nguyễn Sinh Cơn. Nhà văn Sơn Tùng trong “Búp sen xanh” cho
ta biết một điều cảm động về tên gọi thời thơ ấu của Bác. Chính ơng ngoại, nhà
nho Hồng Xn Đường muốn đặt tên cho cháu là Côn, tự là Tất Thành.
2
1.2.
Khát vọng tuổi trẻ của Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Tất Thành đã theo cha đi nhiều nơi trong vùng đất Nghệ An, tiếp
xúc với các sĩ phu yêu nước, có dịp ra bắc, đến Thái Bình, rồi trở lại thành phố
Vinh, học tiểu học ở đó, 1905-1906, bằng tiếng Pháp. Tại đây, Nguyễn Tất
Thành chú ý tới ba từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, khẩu hiệu nổi tiếng của Đại
Cách mạng Pháp năm 1789. Vốn nhạy bén và có đầu óc quan sát, Nguyễn Tất
Thành đã sớm bận tâm khi tận mắt chứng kiến cảnh dân nghèo và thợ thuyền
lam lũ, kiệt sức trong xưởng máy và phờ phạc sau giờ tan tầm. Anh liên tưởng
tới bà con nghèo khổ của quê mình. 13 tuổi, Nguyễn Tất Thành đã nảy ra ý nghĩ
“tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau những từ đẹp đẽ ấy”. Sau đó, Nguyễn Tất
Thành chuẩn bị cùng cha lên đường vào Huế, học ở Trường tiểu học Pháp - Việt
Đông Ba, rồi vào Trường Quốc học Huế, cho đến 5-1909 rời Trường Quốc học
Huế, theo cha vào Bình Định.
Trong khoảng thời gian đó, Nguyễn Tất Thành đã tham gia cuộc biểu tình
chống thuế, đã bắt đầu bị bọn cảnh sát Pháp theo dõi, nhà trường đã để ý tới tư
tưởng bài Pháp của anh.
Tham gia vào các cuộc biểu tình địi giảm sưu, giảm thuế của nông dân và
trực tiếp chứng kiến cảnh thực dân Pháp đàn áp dã man đồng bào mình, Nguyễn
Tất Thành đã suy nghĩ rất nhiều về thực trạng đó, về nguyên nhân thất bại của
một loạt các phong trào, nhất là sự tan rã của phong trào Đơng Du, đó là những
thu nhận thực tế đầu tiên, chuẩn bị cho anh đi tới quyết định, phải tìm ra con
đường đánh đuổi thực dân, cứu nước, cứu dân mình.
Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành không cùng cha trở về Huế mà quyết
định đi tiếp xuống phía nam, dạy học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết) một
thời gian ngắn, để đến mùa hè năm 1911, anh quyết định ra đi tìm đường cứu
nước. Rời bến cảng Nhà Rồng ở Sài Gòn, bước chân xuống tàu La-tu-sơ Tơ-rêvin đi Mác-xây, làm phụ bếp trên tàu, với cái tên Văn Ba, vào ngày 5-6-1911.
Từ đây Nguyễn Tất Thành bắt đầu cuộc hành trình lịch sử, thực hiện khát vọng
tuổi trẻ, tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc mình. Đó là mở đầu bước
ngoặt cuộc đời anh mà cũng là bước ngoặt đối với số phận của dân tộc.
3
Đó là mở đầu cuộc đi “tìm hình của nước”, trải qua mn vàn gian lao,
sóng gió, thử thách rịng rã suốt 30 năm, đi qua hầu hết các châu lục trên thế
giới, qua mấy chục nước khác nhau, làm đủ mọi nghề để sống và tranh đấu. Anh
đã tìm đường, nhận đường, để đi đến cùng con đường tranh đấu cho độc lập tự
do, cho hạnh phúc của nhân dân mình. Trong thế kỷ 20, hiếm có một nhà cách
mạng nào có một cuộc hành trình như thế, với vốn sống, kinh nghiệm và bản
lĩnh tranh đấu như thế.
Tất cả được thúc đẩy bởi một động cơ cao thượng và vĩ đại, với một nghị
lực phi thường để làm nên một sự nghiệp vẻ vang - thay đổi số phận của dân tộc,
đưa dân tộc tới độc lập tự do và đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên
thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và vững bước
tới chủ nghĩa xã hội.
Khát vọng ấy là động cơ, là mục đích sống của Nguyễn Tất Thành. Nó
mãnh liệt và bền bỉ nên anh khơng sợ khó khăn, hiểm nguy. Khi bạn bè của anh
ngợp trước khó khăn, đi bằng cách nào, làm gì để sống, Nguyễn Tất Thành đưa
hai bàn tay ra và nói: Tất cả là ở đây. Dù bạn bè ở lại, một mình anh ra đi, anh
cũng khơng hề do dự, bước chân xuống tàu, làm mọi nghề để sống, để đi, để
học, để cứu đồng bào mình. Chỉ riêng việc quyết ra đi, chọn nơi đến và cách làm
đã đủ cho thấy, Nguyễn Tất Thành mang tinh thần cách tân, đổi mới như thế
nào. Đến tận sào huyệt của kẻ thù để khảo sát trực tiếp, để vững tin vào những
nhận xét, kết luận của mình. Lao động - học tập và tranh đấu, đó là mục đích và
phương thức của đời anh. Nguyễn Tất Thành đã đồng thời là Nguyễn Ái Quốc người chiến sĩ đấu tranh cho tự do, người đầu tiên thực hiện vô sản hóa trong
lịch sử Đảng ta. Quan sát, tìm hiểu, khám phá thế giới, nhận chân bản chất con
người. Gần 10 năm của chặng đầu cuộc hành trình (1911-1920), Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc đã học tập, tích lũy kiến thức, vốn sống, kinh nghiệm
để trưởng thành. Con tàu đưa anh đi khắp mọi miền đất lạ, cho anh cơ hội tiếp
xúc với đủ mọi loại người, để cuối cùng anh tự giác ngộ ra rằng, ở đâu, người
lao động cũng tốt, cũng thống khổ như nhau, ở đâu, chủ nghĩa thực dân cũng chỉ
4
là con đỉa hai vòi, hút máu ở cả thuộc địa và chính quốc. Dù khác mầu da, tiếng
nói, nhưng mọi người lao khổ đều là anh em, đồng chí, bọn thực dân là kẻ thù
chung, phải đoàn kết lại, đánh đổ nó đi, phải đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Chỉ có cách mạng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được giai cấp và
dân tộc, mới đem lại hịa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Từ
chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ
nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất. Ánh sáng Cách mạng
Tháng Mười, Thời đại mới đã mở ra và soi sáng. Luận cương Lê-nin về quyền
tự quyết các dân tộc đã là cẩm nang hành động, là con đường giải phóng cho ta,
cứu sống chúng ta.
Ở giữa trung tâm châu Âu, Nguyễn Ái Quốc hiểu được thành tựu và giá
trị của văn minh. Ở giữa phong trào cách mạng của công nhân và lao động,
Nguyễn Ái Quốc đã nắm bắt được xu thế tất yếu của lịch sử, thấy được chân lý
của thời đại và dần tìm thấy con đường: Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, làm cách mạng trước hết phải có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa
làm cốt, phải giữ chủ nghĩa cho vững, phải có lý luận tiên phong. Hơn ai hết,
Nguyễn Ái Quốc thấu hiểu, cách mạng khơng chỉ cần trí tuệ khoa học, chính trị
đúng đắn mà cịn phải có đạo đức cách mạng trong sáng. Muốn làm cách mạng
đến nơi, đem lại lợi quyền cho dân chúng, tự do hạnh phúc cho dân chúng thì
người cách mạng, Đảng cách mạng phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân,
phải ít lịng tham muốn về vật chất, phải biết hy sinh, phải quên mình. Cái triết
lý kinh điển Phật giáo “vô ngã vị tha” đã được nhà cách mạng trẻ tuổi, nhà tư
tưởng Mác-xít thực hành xuất sắc, nhất quán suốt đời trên một lập trường mới,
lẽ sống mới, khoa học - cách mạng - hiện đại và nhân văn. Đó là đạo đức cách
mạng, đạo đức chiến đấu và hành động vì dân, vì độc lập - tự do - hạnh phúc cho
dân, dân tộc và nhân loại. Đó cũng là ham muốn, ham muốn tột bậc của Người,
là khát vọng, hoài bão suốt đời, làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, có độc lập,
có tự do, sống hạnh phúc, trở thành người chủ và làm chủ xã hội mới. Xã hội
mới ấy là xã hội xã hội chủ nghĩa, là chủ nghĩa xã hội thấm đẫm chất nhân văn
Hồ Chí Minh mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng, đang thực hiện theo khát
5
vọng, hoài bão của Người
1.3.
Tinh thần yêu nước của Nguyễn Ái Quốc
1.3.1. Đánh giá chung
Trước hết, cần khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con
đường giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc với tấm lòng của một người Việt
Nam yêu nước. Tinh thần yêu nước của Người được hun đúc bằng truyền thống
yêu nước với bề dày hàng nghìn năm lịch sử của cha ông. Được hình thành
trong quá trình dựng nước, trong đấu tranh và bảo vệ nền độc lập, thốt khỏi sự
đơ hộ của ngoại bang, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam nổi bật ở tính
cố kết cộng đồng chặt chẽ giữa nhà - làng - nước để bảo vệ đất nước, bảo vệ độc
lập, thống nhất dân tộc, bảo vệ cuộc sống cộng đồng và sự trường tồn của nền
văn hoá dân tộc. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý, triết lý sống, niềm tự
hào của con người Việt Nam, khởi đầu từ lòng tự hào về “ Dân tộc ta là con
Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước
tiếng để mn đời " . Tiếp đó là ý thức về quyền độc lập dân tộc, bắt đầu từ "
Nam quốc sơn hà Nam đế cư ” của thời Lý cho đến ý chí quyết tâm "Sát Thát” ở
đời Trần, tinh thần quyết chiến của Quang Trung - Nguyễn Huệ " Đánh cho
phiến giáp bất hoàn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ ”, từ triết
lý " Nước là của chung chứ không phải của một dòng họ nào " của nhà giáo, nhà
tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm đến quan điểm “ nhà nước của dân vì dân, do dân
” và " lịng căm ghét bọn xâm lược " ) .
Về lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nhận xét: “ Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ” ) .
Thực tế từ chính cuộc đời Người cho thấy, cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tên khai
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã được ni dưỡng trong truyền thống yêu
nước và đấu tranh bất khuất của gia đình, của quê hương sông Lam núi Hồng
“địa linh, nhân kiệt”. Người được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là
6
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng
nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ
ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than,
cơ cực dưới sự thống trị hà khắc và tàn bạo của thực dân Pháp. Các cuộc đấu
tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo liên tiếp nổ ra: phong trào kháng
Pháp của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, đặc biệt là phong trào Cần Vương
do Tôn Thất Thuyết khởi xướng. Tuy chiến đấu rất anh dũng nhưng rồi các
phong trào trên cũng lần lượt bị đàn áp. Thất bại của phong trào Cần Vương
chính là cái mốc đánh dấu sự phá sản hồn tồn của thời kì đấu tranh chống
Pháp giành độc lập dân tộc dưới khẩu hiệu “phò vua cứu nước” nằm trong hệ tư
tưởng phong kiến. Nó chứng tỏ giai cấp phong kiến đã khơng cịn đủ uy tín và
lực lượng để giải quyết vấn đề giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Đoạn
tuyệt với con đường cứu nước phong kiến, những sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ
XX hướng ra nước ngồi tìm đến những con đường cứu nước mới để mong
được giải phóng. Trong khi cụ Phan Bội Châu sang Nhật Bản tìm con đường
Duy Tân, sang Trung Quốc tìm con đường cách mạng Tân Hợi (1911) thì cụ
Phan Châu Trinh lại hướng theo con đường nghị viện tư sản của các nước
phương Tây. Những con đường đó tuy có màu sắc khác nhau nhưng đều đi theo
con đường dân chủ tư sản, không phù hợp với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ.
Trong bối cảnh như vậy, phải có những con người ưu tú với trí tuệ mẫn cảm và
tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử trong nước mới có
khả năng tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam .
Với tinh thần ham hiểu biết và học hỏi, với tư duy độc lập sáng tạo, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng lớn lao và quyết tâm tìm con
đường đi cho cho riêng mình. Người rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu
tranh bất khuất của những chí sĩ yêu nước trước đó, nhưng Người cho rằng con
đường Đơng du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước
beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương, chẳng
khác nào “xin giặc rủ lịng thương”. Người khơng theo con đường của các bậc
tiền bối đã đi, mà có suy nghĩ khác, cách thức khác. Về mục đích đi ra nước
7
ngồi của mình, năm 1923 Người đã trả lời nhà báo Nga Ơxip Manđenxtam
rằng: “ Khi tơi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do,
Bình đẳng, Bác ái... Tơi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm
xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy ” . Một lần khác trả lời một nhà
văn Mỹ, Người nói: “ Nhân dân Việt Nam trong đó có ơng cụ thân sinh ra tôi,
lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thốt khỏi ách thống trị của
Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tơi thấy phải đi ra nước
ngồi xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào
tôi ” . Như vậy là, chí hướng tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
hồn tồn khác với các bậc tiền bối. Rõ ràng, Người đã sớm nhận thức được “
cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách đuổi
giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và
phương pháp cách mạng.
Chỉ với đôi bàn tay trắng, bằng ý chí “ sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để
đi ” [9] , chính chủ nghĩa yêu nước đã trở thành hành trang giá trị nhất của người
thanh niên Nguyễn Tất Thành ở thời điểm Người xuống con tàu đô đốc La-tútxơ Tơ-rê-vin ngày 5/6/1911 bước vào cuộc hành trình tìm đường cứu nước.
Chính chủ nghĩa u nước cũng là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người sau này.
1.3.2. Tinh thần yêu nước của Nguyễn Ái Quốc qua các giai đoạn
Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, trong vịng 10 năm tiếp theo, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới
như Singapo, Sri Lanka, Ai Cập, Pháp, Angiêri, Tuynidi, Xênêgan, Ghinê,
Cônggô, Mỹ, Braxin, Anh, Tây Ban Nha, Đức, Bỉ, Italia, Thuỵ Sĩ,… Với ý chí
kiên cường và lịng u nước nồng nàn, Người sẵn sàng làm mọi thứ nghề lao
động chân tay như nấu bếp, làm vườn, vẽ thuê,…để sống cuộc đời của người lao
động, hồ mình vào phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư
bản chủ nghĩa, của các dân tộc bị áp bức bóc lột ở thuộc địa. Tháng 2-1913, từ
nước Anh, Người đã gửi cụ Phan Châu Trinh (lúc này đang sống ở Pháp) một
bài thơ thể hiện quyết tâm cứu nước của mình: “ Chọc trời khuấy nước tiếng
8
đùng đùng - Phải có kiên cường mới gọi hùng - Vai cứng long lanh ngoài ách tớ
- Má đào nóng nảy giới quyền chồng ” . Tháng 9 - 1919, phóng viên Mỹ Kim
Koei Tche đã có cuộc phỏng vấn Người như sau: “ Hỏi : Anh đến Pháp với mục
đích gì? Đáp: Để địi quyền tự do cho dân An Nam. Hỏi : Bằng cách nào? Đáp:
Bằng cách làm việc hết mình và ln xơng xáo tiến lên ” . Rõ ràng, q ua những
chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm đó, chủ nghĩa u nước ở Hồ Chí Minh có
những biến chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên
thành sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp
bức như dân tộc mình. Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó cũng đã giúp
Người nhận thức rõ hơn, khái quát hơn diện mạo của kẻ thù: không chỉ đối với
thực dân Pháp mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung: “ …
những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân
rất hung ác và vô nhân đạo. Ở đâu chúng nó cũng thế… Đối với bọn thực dân,
tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu ” .
Bôn ba tới nhiều nước châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chú ý trước hết đến cuộc cách mạng Mỹ năm 1776 và cuộc cách mạng
Pháp năm 1789. Cuộc cách mạng Mỹ được Người đánh giá là cuộc cách mạng
không triệt để và khẳng định không đi theo hình mẫu của cách mạng đó, vì rằng
“ Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông
vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai…Chúng ta đã hy sinh làm
cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền
giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi
hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc ”. Nghiên cứu cách mạng
tư sản Pháp năm 1789, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra 5 bài học: Phải có tổ chức
cách mạng vững chắc; phải lấy liên minh công nông làm gốc; Phụ nữ và thiếu
nhi là lực lượng cách mạng quan trọng; Dũng khí cách mạng là một lực lượng
vơ địch; Làm cách mạng thì phải có gan khơng sợ hy sinh. Kết luận cuối cùng
của Người là nhân dân Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản
của Pháp và của Mỹ bởi vì “ Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là
cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi ”.
9
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng
tiến bộ lúc đó thường lên tiếng chống lại chính sách áp bức bóc lột của thực dân
Pháp ở các thuộc địa theo hướng nhân đạo hoá các chính sách đó, như lời Người
lý giải sau này: “ Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ơng bà"
ấy- (hồi đó tơi gọi các đồng chí của tơi như thế) - đã tỏ đồng tình với tơi, với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Cịn như Đảng là gì, cơng đồn là gì,
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tơi chưa hiểu ”. Tháng 6-1919,
lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội Những người yêu nước Việt Nam ở Pháp
, Người gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam viết bằng
tiếng Pháp, gồm 8 điểm, địi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do,
dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Mặc dù không đạt được
được một yêu cầu nào song việc gửi bản yêu sách đến một hội nghị quốc tế, sự
xuất hiện lần đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc trên vũ đài chính trị tại sào huyệt
của chủ nghĩa thực dân và cùng những nội dung của bản yêu sách đã đánh thức
sự thờ ơ của dư luận đối với vấn đề thuộc địa, với chính sách cai trị hà khắc ở
thuộc địa của Pháp nói chung và thuộc địa Đơng Dương, Việt Nam nói riêng. Sự
kiện này cũng đánh dấu một bước tiến trong sự trưởng thành của Nguyễn Ái
Quốc sau những khảo nghiệm thực tế. Bằng những hoạt động sôi nổi trong Đảng
Xã hội Pháp, trong phong trào công nhân Pháp, Người nhanh chóng nắm bắt
được thời cuộc và định hướng đúng đắn cho mình, cho con đường giải phóng
dân tộc mình.
Ngày 16 và 17-7-1920, lần đầu tiên ở Pháp, báo Nhân Đạo (L’Humanite),
cơ quan của Đảng Xã hội Pháp công bố tác phẩm quan trọng của Lê-nin: “Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”.
Trong văn kiện này, Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm của những người
cầm đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên án mạnh mẽ tư
tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hịi, ích kỷ, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ
của các Đảng Cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách mạng của các
nước thuộc địa và phụ thuộc, nhấn mạnh sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản các
nước tư bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù
10
chung là đế quốc và phong kiến. Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn
Ái Quốc con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. 9 năm sau
ngày rời Tổ quốc, cầm tờ báo ở trang ba đăng văn kiện của Lê-nin, người thanh
niên yêu nước thấy bừng lên một ánh sáng mới. Từng dòng, từng chữ quý giá
hiện ra trước mắt. Văn kiện lịch sử ấy của Lê-nin mở ra trước mắt Người một
chân trời mới rực rỡ và là ngọn đèn soi đường giải phóng cho đồng bào của
Người đang rên xiết dưới ách thực dân. Văn kiện ấy khiến cho Người xúc động,
tin tưởng, vui mừng đến phát khóc lên và dù chỉ ngồi một mình trong căn buồng
nhưng Người vẫn nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: " Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta! " .
Chính chủ nghĩa u nước đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với cuộc
gặp gỡ kỳ thú đó với tư tưởng Lênin. Nó tạo ra bước chuyển căn bản của Người
- chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi và mở đầu một chuyển biến thực sự trong lịch sử tư
tưởng cách mạng nước ta - “hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vững bước tới tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng
Xã hội Pháp tại thành phố Tours. Tại Đại hội này Người đã cùng với những nhà
hoạt động chính trị và vǎn hố nổi tiếng của Pháp như: Macxen Casanh (Marcel
Cachin), Pôn Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)... bảo vệ chủ nghĩa
Mác, chống lại những người cơ hội. Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp. Lúc ấy là rạng sáng ngày 30-12-1920. Thời khắc đó xuất hiện người cộng
sản Việt Nam đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc. Thời khắc đó đánh dấu sự kiện Chủ
tịch Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Lê-nin
và quyết tâm bước theo ánh sáng tư tưởng Lê-nin. Cuối cùng Người cũng đã tìm
thấy con đường giải phóng khơng chỉ phá vỡ xiềng xích cho dân tộc Việt Nam
mà còn là niềm hy vọng chung cho các dân tộc thuộc địa khác trên thế giới.
Vậy là, từ thời điểm ra đi năm 1911 cho đến năm 1920, là cả một thập kỷ
cho một hành trình tìm kiếm nguồn sáng chân lý cách mạng của Nguyễn Tất
Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Tất nhiên, chân lý ấy cần phải được
11
vận dụng và kiểm nghiệm trong điều kiện thực tiễn lịch sử xã hội Việt Nam, còn
là một chặng gian lao phía trước, song niềm cảm thức và trực giác mách bảo
Nguyễn Ái Quốc rằng: đó là một chân lý duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam " Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin " và " Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản. Sự lựa chọn và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với trào lưu
tiến hóa của lịch sử, đã thức tỉnh, thơi thúc lớp lớp người Việt Nam yêu nước đi
theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tập hợp được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ
cách mạng để làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám và tiến hành hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi. Có thể nói, mỗi bước tiến, mỗi
thắng lợi của nhân dân ta, của Đảng ta trong những năm qua “ đều gắn liền với
cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ của Hồ Chủ tịch. Toàn bộ
hoạt động của Người cùng với sự nghiệp của nhân dân ta và của Đảng ta là một
thiên anh hùng ca bất diệt của cách mạng Việt Nam ” . Dù Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đi xa nhưng tư tưởng, đường lối cùng với tình thương yêu bao la của
Người để lại cho nhân dân ta vẫn còn sức sống bất diệt. Những tư tưởng ấy, tình
u thương ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp trong công
cuộc phát triển phồn vinh và hội nhập quốc tế.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ LÒNG YÊU THƯƠNG
CON NGƯỜI CỦA HCM TRONG GIÁO DỤC LÒNG NHÂN ÁI
CHO SINH VIÊN
2.1. Thực trạng
2.1.1. Thực trạng khát vọng tuổi trẻ sinh viên
Thành tựu
Những thành tựu đạt được trong xây dựng đời sống khát vọng của sinh
viên được thể hiện ở các lĩnh vực của đời sống tinh thần như sau: sinh viên có
thế giới quan và phương pháp luận cách mạng, khoa học dựa trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có niềm tin vào đường lối chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có hồi bão, lý tưởng; có lòng tự hào
12
dân tộc và tình u q hương đất nước, có lối sống lành mạnh, sống có trách
nhiệm với cộng đồng, có nền nếp, tác phong; có tinh thần tích cực, chủ động,
sáng tạo trong học tập, trong nghiên cứu khoa học; có khả năng nhất định trong
lựa chọn, hưởng thụ, sáng tạo các giá trị nghệ thuật, không ngừng phấn đấu
vươn lên phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực, đặc biệt là năng lực sáng
tạo đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội
Những thành tựu đạt được trong xây dựng đời sống tinh thần của sinh
viên trong quá trình hội nhập quốc tế những năm qua là kết quả tổng hợp của
nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản như sau: Một là,
những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội mà Thành phố đạt được trong
thời gian qua đã góp phần hiệu quả xây dựng đời sống tinh thần khát vọng của
nhân dân. Hai là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của Đảng bộ, chính
quyền, các tổ chức đồn thể, gia đình, đặc biệt là Đồn Thanh niên, Hội Sinh
viên và các trường đại học, cao đẳng đối với nhiệm vụ xây dựng đời sống tinh
thần của sinh viên.
Hạn chế
Bên cạnh những kết quả tốt đạt được, trong quá trình xây dựng đời sống
tinh thần của sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh trong q trình hội nhập quốc
tế còn tồn tại những hạn chế trên các lĩnh vực như sau: có một bộ phận sinh viên
Thành phố bị giảm niềm niềm tin, lý tưởng cách mạng, thờ ơ học với học tập lý
luận chính trị, chưa nhận thức đầy đủ về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, có những biểu hiện xa rời giá trị truyền thống dân tộc; một bộ phận sinh
viên Thành phố trong đạo đức và lối sống có những biểu hiện như: sống khép
kín, ít tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể, cộng đồng, tình nguyện, lối sống
thưc dụng, chưa nghiêm túc trong rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, nền nếp tác
phong; trong học tập và nghiên cứu khoa học có một bộ phận sinh viên còn thụ
động, chưa năng động sáng tạo, chưa tích cực tham gia các cuộc thi học thuật,
tham gia các câu lạc bộ học thuật, rèn luyện kỹ năng, chưa tích cực tham gia
nghiên cứu khoa học, ý thức tự học của một bộ phận sinh viên còn thấp; trong
13
sinh hoạt văn hóa văn nghệ, một bộ phận sinh viên cịn thụ động chưa tích cực
tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tích lũy tri thức
thông qua đọc sách, tài liệu, trong hoạt động giao lưu văn hóa có một bộ phận
sinh viên cịn thụ động, một bộ phận sinh viên sính ngoại, quay lưng lại những
giá trị truyền thống dân tộc.
Những hạn chế trong xây dựng đời sống tinh thần của sinh viên trong quá
trình hội nhập quốc tế trong những năm qua có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi
lên một số nguyên nhân chủ yếu như sau: Một là, quá trình thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế có những mặt trái tác động tiêu cực đến xây dựng đời
sống tinh thần của người dân nói chung và sinh viên nói riêng. Hai là, có một bộ
phận nhỏ các tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể, nhà trường, cán
bộ, viên chức và sinh viên nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ về nhiệm vụ xây
dựng đời sống tinh thần của sinh viên trong quá trình hội nhập quốc tế. Ba là,
một số trường cịn khó khăn về cơ sở vật chất, khó khăn về đội ngũ giảng viên,
khó khăn về tuyển sinh nên tác động xấu đến xây dựng đời sống tinh thần của
sinh viên. Bốn là, sự thiếu ý thức tự giác và tinh thần nỗ lực vươn lên của một
bộ phận nhỏ sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh trong xây dựng đời sống tinh
thần của bản thân họ.
2.1.2. Xây dựng tinh thần yêu nước
Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh, sinh viên không chỉ đơn
thuần là nhiệm vụ của nhà trường qua các bài giảng của các thầy, cơ trên lớp mà
gia đình và các tổ chức xã hội phải cùng chung tay góp sức vì thế hệ mai sau.
Thông qua các hoạt động xã hội thiết thực như về nguồn, thăm các gia đình neo
đơn, gia đình chính sách, có cơng với cách mạng, thơng các hội thi kiến thức, kỹ
năng, các hoạt động tuyên truyền, …để học sinh, sinh viên nhận thấy giá trị
thực tiễn trong từng hành động và từng hoạt động cụ thể. Khơi dậy tình cảm gia
đình, tình yêu với quê hương, đất nước, làm phong phú thêm đời sống tinh thần
trong tâm hồn mỗi học sinh, sinh viên. Giáo dục lòng yêu nước cho học sinh,
sinh viên phải gắn với hoạt động thực tiễn, với từng sự kiện diễn ra trong nước
14
và trên thế giới đã và đang tác động đến đời sống vật chất và tinh thần của người
dân để định hướng các em có thể đưa ra chính kiến của mình, thể hiện lập
trường, quan điểm cá nhân đúng đắn, bày tỏ tâm tư, suy nghĩ trước những biến
đổi không ngừng của xã hội và giữ vững niềm tin vào Đảng và Nhà nước trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm qua, học sinh, sinh viên ln tích cực tham gia tốt các
hoạt động do Đồn trường và đoàn cấp trên phát động. Nhiều hoạt động mang
tính truyền thống đã đi vào đời sống học tập và rèn luyện. Có thể nói những
thành cơng bước đầu trong các Hội thi về các lĩnh vực thể thao, văn nghệ, báo
chí học đường hứa hẹn nhiều chuyển biến tích cực trong bản thân của các em.
Là yếu tố góp phần xây dựng phong phú thêm đời sống tinh thần, nâng cao vẻ
đẹp trong tâm hồn cũng như có ý thức, trách nhiệm, tự giác trong rèn luyện
phẩm chất đạo đức của người cán bộ y tế tương lai. Truyền thống yêu nước
được thể hiện qua thành tích học tập và rèn luyện, là những mầm xanh vươn đến
tương lai. “Yêu nước không nên chỉ thể hiện bằng lời nói mà thơng qua những
hành động cụ thể, mà từng học sinh, sinh viên phải có những thành tích tốt trong
quá trình học tập, rèn luyện ở trường, là niềm tin tưởng của gia đình, và có
những đóng góp tích cực cho xã hội”
Giáo dục truyền thống yếu nước phải được xem là yếu tố quan trọng
không thể thiếu trong mọi hoạt gắn liền với học sinh, sinh viên. Mọi người cần
qua tâm hơn nữa và xem đây là một phần quan trọng trong đời sống lao động,
học tập và sinh hoạt.
2.2. Biện pháp nâng cao khát vọng tuổi trẻ và tinh thần yêu nước
2.2.1. Nâng cao khát vọng sinh viên
Xuất phát từ thực trạng và phương hướng cơ bản của việc xây dựng đời
sống tinh thần của sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh trong q trình hội nhập
quốc tế, đề tài đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khát vọng của
sinh viên như sau:
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng khát vọng
sinh viên
15
Để xây dựng đời sống tinh thần khát vọng của sinh viên trong quá trình
hội nhập quốc tế, giải pháp đầu tiên là phải nâng cao nhận thức cho toàn Đảng
bộ, chính quyền, các tổ chức đồn thể, gia đình, xã hội, các trường và sinh viên
một cách sâu sắc và đầy đủ về vị trí, vai trị của việc xây dựng đời sống tinh thần
của sinh viên Thành phố, nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của họ, bởi
nhận thức đúng đắn, khoa học sẽ có chương trình, kế hoạch, phương pháp đúng
đắn, và do đó sẽ có hành động tự giác, đúng đắn, hiệu quả. Trước hết là cần chú
trọng nâng cao nhận thức của những cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp
ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các trường đại học, cao
đẳng về nhiệm vụ xây dựng đời sống tinh thần của sinh viên; hai là, nâng cao
nhận thức của xã hội, gia đình của sinh viên và bản thân sinh viên Thành phố về
nhiệm vụ xây dựng đời sống tinh thần của sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nâng cao khát vọng đời sống trong quá trình hội nhập quốc tế
Để nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống tinh thần khát vọng của sinh
viên, cùng với giải pháp về nâng cao nhận thức, đó là giải pháp hồn thiện các
chủ trương, chính sách. Cơ chế, chính sách khơng chỉ có vai trị định hướng, mở
đường, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực mà còn
tạo hành lang pháp lý để thực hiện xây dựng đời sống tinh thần của sinh viên ở
Thành phố. Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên cần thực những giải pháp: Một là, tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính
sách, giải pháp về xây dựng đời sống tinh thần; Hai là, Đảng bộ, chính quyền,
các tổ chức Đồn Thanh niên, Hội Sinh viên các trường đại học, cao chăm lo cải
thiện thiết chế văn hóa phục vụ sinh hoạt tinh thần của sinh viên Thành phố; Ba
là, tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát của các cấp chính quyền, tổ
chức Đồn Thanh niên, Hội Sinh viên, các trường đối với các hoạt động tinh
thần nhằm thúc đẩy xu hướng tích cực, ngăn chặn những diễn biến tiêu cực
trong đời sống tinh thần của sinh viên.
Xây dựng khát vọng trong quá trình hội nhập quốc tế
Xây dựng khát sinh viên Thành phố không chỉ là kết quả của những
đường lối, chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, v.v.., mà còn là kết
16
quả của những cuộc vận động cách mạng rộng lớn, tồn diện, khơng ngừng
nghỉ, ln ln sơi nổi trên các lĩnh vực của đời sống tinh thần của sinh viên
thông qua các hoạt động phong trào của sinh viên Thành phố. Do đó, các tổ
chức Đồn Thanh niên, Hội Sinh viên phải thường xuyên đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục rèn luyện nhằm xây dựng đời sống tinh thần tốt đẹp
cho sinh viên, thể hiện ở những nội dung như: Thứ nhất, Đoàn Thanh niên, Hội
Sinh viên tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục rèn luyện nhằm xây dựng đời sống
tinh thần tốt đẹp của sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh trong q trình hội
nhập quốc tế; Thứ hai, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên đổi mới hình thức giáo
dục rèn luyện nhằm xây dựng đời sống tinh thần tốt đẹp của sinh viên ở thành
phố Hồ Chí Minh trong q trình hội nhập quốc tế; Thứ ba, đổi mới phương
pháp giáo dục rèn luyện nhằm xây dựng đời sống tinh thần tốt đẹp của sinh viên
ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập quốc tế.
3.2.4. Phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người sinh viên
Năng động, sáng tạo vốn là truyền thống tốt đẹp của nhân Thành phố nói
chung và sinh viên Thành phố nói riêng, trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào nhân
dân Thành phố luôn thể hiện tinh thần năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng đời sống tinh thần của sinh viên ở thành phố
Hồ Chí Minh trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay cần phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của bản thân người sinh viên trong xây dựng đời sống
tinh thần của sinh viên ở Thành phố, thể hiện ở nội dung như: Thứ nhất, đẩy
mạnh việc tự học tập, tự tu dưỡng, tự rèn luyện của bản thân người sinh viên;
Thứ hai, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường; Thứ ba, đội
ngũ thầy cô giáo, cán bộ, viên chức, nhân viên nhà trường là tấm gương mẫu
mực để sinh viên học tập, noi theo trong việc nâng cao tinh thần tích cực, chủ
động của người sinh viên.
2.2.2. Nâng cao tinh thần yêu nước
Thứ nhất, tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng
về xây dựng và phát triển tinh thần yêu nước của người Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập quốc tế
17
Để khơi dậy và phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục, tuyên
truyền, giác ngộ tinh thần yêu nước trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ nước nhà. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, chúng ta cần phải “tăng cường tuyên truyền, giáo dục
tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ... cho mọi người”( ).
Việc tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước cần gắn liền với các chủ
trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển tinh thần yêu nước của
người Việt Nam. Đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước: Xây dựng lòng yêu nước, với mục tiêu “đề cao tinh thần yêu
nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình,
với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước” và nhiệm vụ: “Chăm lo xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách”.
Cần quán triệt thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo, trong đó có mục tiêu: “Giáo dục con người
Việt Nam... yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào sống tốt và làm việc hiệu
quả”( ). Trong đổi mới giáo dục, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thì nội dung quan trọng cần thường xuyên được
thực hiện là giáo dục tinh thần yêu nước để nhân lực, nhân tài được đào tạo ra sẽ
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thứ hai, tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chính trị, chuyên đề về
giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cho sinh viên trong thời kỳ mới
Trong bối cảnh đất nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, lợi dụng những những khó khăn, hạn chế, những
biểu hiện về tham nhũng, lãng phí... những thủ đoạn mới khơng ngừng thúc đẩy
“diễn biến hịa bình”,“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế
lực thù địch nhằm làm giảm niềm tin của nhân dân ta vào đội ngũ cán bộ, đảng
viên, vào sự lãnh đạo của Đảng... Những vấn đề trên đã và đang ảnh hưởng lớn
18