UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THÀNH PHỐ
CẦN THƠ
Th
án g
23
Lớp
0
02 – 2
10
UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGUYỄN PHÚC TĂNG – TRẦN THỊ KIM NHUNG (đồng Tổng Chủ biên)
NGUYỄN NGỌC AN – TRẦN MINH HƯỜNG (đồng Chủ biên)
VŨ ĐÌNH BẢY – NGUYỄN ĐĂNG BỬU – LÊ THỊ HỒNG ĐÀO
LÊ VĂN HUY – PHẠM NGỌC HIỀN – NGUYỄN VIỆT HƯNG
BÙI GIA KHÁNH – NGUYỄN ĐÌNH KỲ – LÊ THỊ HƯƠNG NAM
LAM MỸ PHƯƠNG – PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT – NGUYỄN VĂN TÚ
1
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU
2
MỤC TIÊU
Những kiến thức, phẩm chất, năng lực, thái độ
mà các em cần đạt được sau mỗi bài học.
KHỞI ĐỘNG
Giúp các em vui vẻ, có hứng thú và dẫn dắt vào
bài học mới.
KHÁM PHÁ
Giúp các em quan sát, tìm hiểu,... và trải nghiệm
những điều mới.
LUYỆN TẬP
Giúp các em tập làm và hiểu rõ hơn những điều
vừa khám phá.
VẬN DỤNG
Giúp các em vận dụng những nội dung đã học
vào thực tiễn cuộc sống.
LỜI NĨI ĐẦU
Thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thơng 2018 (ban hành kèm theo Thông tư số
32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo),
Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Cần Thơ tổ chức biên soạn bộ Tài liệu Giáo dục
địa phương thành phố Cần Thơ dùng cho cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông.
Tài liệu Giáo dục địa phương thành phố Cần Thơ gồm những vấn đề cơ bản về văn hố,
lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp của địa phương bổ sung cho nội
dung giáo dục thống nhất trong cả nước, nhằm trang bị cho học sinh hiểu biết về nơi sinh
sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những
điều đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Tài liệu Giáo dục địa phương thành phố Cần Thơ – Lớp 10 sẽ giúp các em hiểu hơn
về đời sống văn hoá, xã hội cũng như quá trình hình thành và phát triển của thành phố
Cần Thơ.
Tài liệu gồm 6 chủ đề tương ứng với nội dung các môn học và hoạt động giáo dục lớp
10 trong chương trình giáo dục phổ thơng.
Ban Biên soạn rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà giáo, các bậc phụ
huynh và học sinh về cấu trúc, nội dung của tài liệu để bổ sung, hoàn thiện trong lần tái
bản sau.
BAN BIÊN SOẠN
3
MỤC LỤC
Lời nói đầu ..................................................................................................................................................... 2
Hướng dẫn sử dụng tài liệu ......................................................................................................................3
CHỦ ĐỀ 1.
VĂN HỌC DÂN GIAN THÀNH PHỐ CẦN THƠ ................................................................................5
Bài 1. Tổng quan về văn học dân gian thành phố Cần Thơ....................................................5
Bài 2. Truyện dân gian thành phố Cần Thơ ............................................................................... 17
Bài 3. Ca dao, dân ca thành phố .................................................................................................... 26
CHỦ ĐỀ 2.
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI SẢN VĂN HOÁ
TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ ................................................................................................................ 34
CHỦ ĐỀ 3.
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ ............................................................................. 53
CHỦ ĐỀ 4.
ÂM NHẠC THÀNH PHỐ CẦN THƠ – TÁC GIẢ, TÁC PHẨM ..................................................... 66
CHỦ ĐỀ 5.
MỘT SỐ TÁC PHẨM MĨ THUẬT TIÊU BIỂU CỦA CÁC HOẠ SĨ
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ ................................................................................................................... 75
CHỦ ĐỀ 6.
KINH TẾ THÀNH PHỐ CẦN THƠ ...................................................................................................... 83
Giải thích thuật ngữ .................................................................................................................................. 95
4
CHỦ ĐỀ
VĂN HỌC DÂN GIAN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
1
MỤC TIÊU
– Trình bày được bức tranh tổng quan về văn học dân gian thành phố Cần Thơ
(qua các thể loại, đặc điểm,...).
– Nêu được những kiến thức về văn hoá địa phương: địa danh, lịch sử, phong tục,
quan niệm, ngôn ngữ qua các tác phẩm văn học dân gian.
– Phân tích, đánh giá được giá trị thẩm mĩ và thông điệp của văn học dân gian
địa phương.
– Viết được văn bản nghị luận, thuyết minh, nghệ thuật có liên quan đến văn học
dân gian.
– Biết thuyết trình, thảo luận về các vấn đề văn học dân gian địa phương.
– Có ý thức sưu tầm, giới thiệu và phát huy những giá trị văn hoá dân gian của
địa phương trong bối cảnh xã hội hiện đại.
BÀI 1:
TỔNG QUAN VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
KHỞI ĐỘNG
Các đoạn thơ sau đây có phải là văn học dân gian Cần Thơ hay khơng, vì sao?
1.
Sông Ngã Bảy chảy về bảy ngã
Xuồng tới đây, rẽ ngã nào đây?
Buồm không theo kịp chim bay!
Xa em, anh biết hẹn ngày nào hợp duyên?
5
2.
Anh về sơng Hậu tìm em
Khi thành phố trẻ giăng đèn kết hoa.
Tây Đô mến khách đường xa
Hay em duyên dáng mặn mà anh thương.
KHÁM PHÁ
Thông tin trước khi đọc
Thành phố Cần Thơ là trung tâm
văn hoá của miền Tây Nam Bộ. Ở đây,
có sự hội tụ nhiều tơn giáo, dân tộc,
dung hợp văn hoá của nhiều vùng,
miền trong nước và nước ngoài. Sự đa
dạng ấy được thể hiện trong văn học
dân gian thành phố Cần Thơ. Bên cạnh
những đặc điểm chung của văn học dân
gian cả nước, văn học dân gian thành phố
Hình 1.1. Bến Ninh Kiều
Cần Thơ cũng có những nét đặc sắc riêng.
(Nguồn: canthotourism.vn)
Chủ đề Văn học dân gian thành phố Cần Thơ sẽ giúp học sinh nắm được bức tranh
tổng quan về văn học dân gian địa phương thơng qua việc phân tích các giá trị nội dung
và nghệ thuật của các tác phẩm văn học dân gian. Người học sẽ có cái nhìn đa chiều
về vùng đất và con người Cần Thơ. Từ đó, nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hoá truyền thống ở địa phương.
I. Hệ thống các thể loại văn học dân gian thành phố Cần Thơ
1. Các thể loại văn xi dân gian
Nhóm thể loại văn xuôi dân gian lưu truyền ở thành phố Cần Thơ khá đa dạng gồm:
thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết, giai thoại, truyện cười, truyện ngụ ngôn,…
Thần thoại của người Việt chủ yếu được mang từ miền ngồi vào. Nói đến thần thoại có
nguồn gốc tại Nam Bộ phải kể đến các truyện của đồng bào Khmer: Nguồn gốc vũ trụ và
mn lồi, Thần Núi Thần Nước, các thần thoại Phật giáo. Truyện cổ tích của người Việt có
chức năng phản ánh sự hình thành phong tục, lí giải đặc điểm sự vật, đưa ra triết lí, răn đời:
Sự tích trái thơm, Sự tích cái bình vơi, Sự tích áo bà ba, Nàng Út ống tre, Sự tích trái sầu riêng,
Sự tích con cá nược và chim bìm bịp,…
6
Truyền thuyết và giai thoại ở Nam Bộ có số lượng rất lớn. Nhiều truyền thuyết về các
nhân vật lịch sử liên quan tới thành phố Cần Thơ như: Nguyễn Ánh, Nguyễn Văn Tồn,
Tham tướng Mạc Tử Sanh, Đinh Sâm,… Một số truyền thuyết có chức năng lí giải địa
danh, phong tục như: Miếu ông Hổ ở làng cổ Long Tuyền, Sự tích địa danh Đầu Sấu – Cái Da
– Cái Răng,…và các truyện nói về tục thờ thần Bạch Hổ ở làng Thường Thạnh, Bình Thuỷ, Ơ
Mơn,… Về giai thoại, có một số truyện kể về các quan chức và văn nghệ sĩ: Bùi Hữu Nghĩa,
Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, thi xã Bà Đồ,… Và các giai thoại kể về các ơng Đạo và gốc tích
chùa chiền, miếu thờ (chùa Hiệp Thiên Cung, Đàn tiên…). Có thể chia truyền thuyết và giai
thoại ở thành phố Cần Thơ làm các nhóm nội dung chính: giải thích địa danh, lịch sử triều
Nguyễn, chuyện các ông Đạo diệt trừ thú dữ,… Phần lớn truyền thuyết ở Nam Bộ kể về
các sự kiện văn hoá lịch sử từ thế kỉ XVIII trở về sau. [1]
Một số nhân vật lịch sử rất gần gũi với đời thường và
[1] Tại sao các truyền thuyết
được kể theo phong cách của giai thoại. Nhiều truyện
ở Nam Bộ thường nói về các
vừa có yếu tố của truyền thuyết vừa có yếu tố của giai
sự kiện từ thế kỉ XVIII trở đi?
thoại: Địa danh Bình Thuỷ – Long Tuyền, Huyện Văn –
Huyện Võ, Sự tích đình thần Tân An,….
Văn học dân gian Cần Thơ cũng có nhiều truyện cười và truyện ngụ ngơn. Trong đó,
có nhiều truyện của những người kể chuyện cười nổi tiếng ở Nam Bộ như: Bác Ba Phi,
Bộ Ninh, ơng Ĩ, ơng Me,… Đáng chú ý là truyện của ơng Tám Cồ. Ơng có những truyện nổi
tiếng lan truyền khắp vùng đất Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long như: Nó cịn chúa hơn lươn
chúa, Biểu nói dóc thì nói dóc, Chửi lính bắt cá, Ma bắt con tằng hắng,… Truyện ngụ ngơn có
số lượng lớn, đa dạng về nguồn gốc và nội dung. Nhiều truyện ngụ ngơn của người Việt
và Khmer nói về cọp beo: Làm ơn mắc oán, Con cọp và cậu học trò, Cứu vật vật trả ơn, Mèo
là mèo, Cọp già gian xảo;…
Trong loại hình văn xi dân gian, những thể loại phản ánh bản sắc vùng đất Cần Thơ
rõ rệt nhất là truyền thuyết và giai thoại. So với truyện dân gian miền ngồi, nhiều truyện
dân gian Nam Bộ khơng có kết cấu chặt chẽ, dễ dãi trong diễn đạt, có nhiều chuyện chưa
thành truyện và khơng có ranh giới rạch ròi giữa các thể loại. Bởi vậy, ta cần có tư duy linh
hoạt, thống mở khi phân loại các truyện dân gian ở thành phố Cần Thơ.
2. Các thể loại văn vần dân gian
Trong nhóm văn vần dân gian, có rất nhiều thể loại: ca dao, dân ca, tục ngữ, câu đố, vè,...
Trong đó, thể loại tiêu biểu nhất là ca dao dân ca. Nội dung phổ biến của ca dao dân ca là
tình u đơi lứa, tình nghĩa gia đình, lao động sản xuất, lịch sử xã hội, giải trí – hài hước,…
7
Phần lớn ca dao ở đây cũng được sáng tác theo thể thơ lục bát. Chất liệu hiện thực
lấy từ các sự vật, hiện tượng ở vùng đất Nam Bộ và có nhắc tới các địa danh ở thành phố
Cần Thơ:
Phong Dinh đẹp lắm ai ơi
Bậu về bên đó cho tôi cùng về.
Thể song thất lục bát vốn phổ biến trong văn học viết trung đại, ít phổ biến trong văn học
dân gian Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong ca dao Nam Bộ, thể loại này rất phổ biến. Ở thành phố
Cần Thơ, có nhiều bài được làm theo thể song thất lục bát:
Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú
Đất Rạch Giá vượn hú chim kêu
Quản chi mưa nắng sớm chiều
Lên doi xuống vịnh cũng chèo thăm em.
Khi sáng tác ca dao, người bình dân Nam Bộ khơng q coi trọng việc tuân thủ luật thơ.
Các bài theo hình thức lục bát và song thất lục bát biến thể có số lượng rất nhiều. Số
bài theo thể tự do và hợp thể chiếm số lượng rất cao so với ca dao Bắc Bộ. Ngồi những
bài ca dao có số câu chẵn (hai, bốn,…), ta cũng gặp nhiều bài có số câu lẻ (ba, năm,…).
Ca dao vùng sông Hậu chủ yếu được sáng tác để hị trên sơng nước nên câu từ tự do,
phóng túng, thích hợp với hồn cảnh ứng đáp ngẫu hứng.
– Chim đi đâu cũng bay về cội
Cá đi đâu cũng lội về kinh
Bình Thuỷ lưu linh đáo lại Long Tuyền
Gởi lời thăm bạn chịu phiền đôi năm.
– Nước Ba Thắc chảy cắt như dao
Con cá đao bổ nhào vô lưới
Biết chừng nào anh mới cưới đặng em?
Tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm tự nhiên và xã hội, thể hiện sự gắn bó mật thiết
giữa con người với sơng nước: “Mồng bảy nước chảy, mười bảy nước rịng”, “Đi sơng phải
theo dịng cuốn, đến xứ người phải theo tập tục”, “Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn”, “Làm
ruộng ăn theo mùa/ Làm ghe ăn theo mẹo”. Một số câu tục ngữ đúc kết những tri thức về
phong tục tập quán, đặc điểm con người thành phố Cần Thơ, như phong tục thờ cúng:
“Ông Địa trong nhà, ơng Tà ngồi ruộng”, “Ơng Địa giữ nhà, ơng Tà coi đất”; hoặc là nét đẹp,
thanh lịch, sang trọng của trai gái Cần Thơ: “Trai Nhơn Ái, gái Long Xuyên”,...
8
Câu đố ở thành phố Cần Thơ cũng miêu tả đặc điểm các sự vật hiện tượng trong thiên
nhiên, gần gũi với người dân địa phương: “Cây gì đau khổ nhất đời/ Mặc cho sóng gió khơng
lời thở than” (cây mù u), “Giống chi chi toàn là giống đực/ Thiếu tứ bề cam cực chung thân”
(cây bần), “Ngồi thì da cóc, trong bọc hột gà/ Lăn qua lăn lại, cả nhà đều ưa” (trái sầu riêng).
Một số câu đố nói về các sự vật hiện tượng liên quan đến con người và được diễn đạt
bằng phương ngữ Nam Bộ: “Hai thằng tướng, tám thằng quân/ Tràn vô rừng bắt thằng tám
cẳng” (bắt chấy), “Ngoài xanh, trong trắng, trồng hành, tỉa đậu, thả heo vô” (bánh tét).
Vè ở thành phố Cần Thơ có sự đa dạng về nội dung: vè trái cây, vè các thứ chim, vè các
loại bánh, vè các loại cá, vè nói ngược, vè đi cấy, vè làm biếng, vè đánh bạc, vè lịch sử,…
Có bài phê phán các thói hư tật xấu trong nhân dân: “Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè rượu đế/ Mờ
sương tới xế/ Rượu đế trên tay/ Tối còn lai rai/ Cùng bao chiến hữu (…) Nghĩ mà phát ngán/
Sáng tỉnh chiều say/ Biết tỏ cùng ai/ Chỉ mình tơi chịu”.
[2] Vè mang những đặc điểm
[2] Ở Cần Thơ có lưu hành nhiều bài vè về lồi rắn.
Những bài này đều có nói đến đặc điểm các lồi rắn nào của loại hình tự sự?
quen thuộc ở địa phương: “Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè
con rắn/ Đồng sâu đồng cạn/ Rắn nước rắn trâu (…) Coi chừng nó quất/ Là con rắn roi/ Ra
đồng dạo chơi/ Là rắn bông súng/ Đựng đầy một thúng/ Là rắn cạp nia”…
Một tác phẩm văn vần có thể được dùng để đọc hoặc hát theo nhiều làn điệu khác
nhau. Ví dụ, bài ca dao: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ/ Năm canh chầy thức đủ vừa năm” có thể
dùng để hát ru con hoặc hát theo các điệu lí, điệu hị,… Người ta cũng xếp vào loại hình diễn
xướng dân gian các hình thức ngâm thơ, nói thơ, nói vè, thơ rơi,… Bài dân ca sau đây có
nhắc đến hình thức thơ rơi – một phương thức lưu truyền thơ ca dân gian mang bản sắc
Nam Bộ:
Cầu Cái Răng ba nhịp
Anh đi không kịp nhắn lại cùng nàng
Cái điệu tào khang sao nàng vội dứt
Đêm nằm thao thức hoá bức thơ rơi
Bấy lâu nay em mang tiếng chịu lời
Bây giờ anh hỏi thiệt: em đổi dời về đâu?
II. Nội dung văn học dân gian thành phố Cần Thơ
1. Văn học dân gian phản ánh mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người
Khi người Việt đặt chân đến vùng đất Nam Bộ, nơi đây vẫn còn hoang vu, nhiều thú dữ.
Thực tế này được ghi lại trong thơ ca: “Tới đây xứ sở lạ lùng/ Con chim kêu cũng sợ, con
cá vùng cũng kinh”, “Dưới nước đỉa lềnh, sấu lểnh nghểnh/ Trên bờ cọp rống, muỗi vo ve”,…
9
Ở thành phố Cần Thơ, có nhiều địa danh mang tên các con vật và gợi lên khơng khí
hoang sơ của thời mở cõi như: Láng Chim, Láng Trâu, Trà Ếch,… Người dân lưu truyền
vô số những câu chuyện về cọp beo, cá sấu, rắn độc,… Họ vừa sợ hãi vừa kính cẩn
gọi cọp là Ơng Ba Mươi, Ơng Dần, Ông Vằn, Sơn quân mãnh hổ, Chúa xứ sơn lâm,
Hương Cả Cọp,… Có nhiều truyện dân gian liên quan tới tín ngưỡng thờ cọp như: Tục thờ
cọp ở Cái Răng, Tục thờ cọp ở làng Long Tuyền (Bình Thuỷ), Miếu ông Chúa Hổ (Ô Môn),…
Họ cũng nhận thấy rằng vùng đất này có sản vật dồi dào: “Rùa bị lểnh ngểnh trước sân/
Cá quậy đục nước, chim quần đen cây”. Truyện Sự tích cây lúa trời nói lên sự ưu đãi của thiên
nhiên dành cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long. Trải qua nhiều đời chịu khó làm ăn
sinh sống, gây dựng sự nghiệp, người dân thành phố Cần Thơ giờ đây đã có được cuộc sống
ấm no. Ca dao có nhiều câu nói lên sự trù phú của đất Cần Thơ: “Cần Thơ ruộng lúa phì nhiêu
/ Sơng đầy cá bạc, vườn nhiều trái cây”, “Cần Thơ gạo trắng nước trong / Ai đi tới đó lịng khơng
muốn về”, “Ơ Mơn lúa tốt đầy đồng/ Vàm Nhon, Ba Mít đượm nồng ý thơ / Em về Tân Thới bơ vơ /
Ba Se em ở bao giờ thăm anh”… Người miền Tây ít lo đói. Bởi vậy, cơ gái Cần Thơ thật thà nói
với chàng trai đừng có tặng cho mình lúa gạo:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo, xóm giềng cười chê. [3]
[3] Em hãy đốn xem tâm lí
của chàng trai sẽ như thế nào
khi nghe cơ gái nói điều này?
Cần Thơ là trung tâm kinh tế nên các xuồng ghe khắp các nơi tấp nập đổ về đây bn bán.
Có nhiều câu ca dao nói về tài buôn bán của người dân nơi đây:
Sông Tiền, sông Hậu cùng nguồn
Thuyền ghe tấp nập bán buôn dập dìu
Ghe hầu nội hạt thiếu chi
Khơn lanh kiểu vở nhứt nhì Cần Thơ.
Họ có điều kiện đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người nên năng động, lịch lãm. Một
chàng trai tâm sự rằng vì mải mê bn bán nên ít có dịp về thăm người yêu:
Cần Thơ là tỉnh
Cao Lãnh là quê
Anh đi lục tỉnh bốn bề
Mải lo buôn bán không về thăm em.
Giống như nhiều tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, văn hoá ở thành phố Cần Thơ cũng mang
tính sơng nước. Con người sống dựa vào sơng nước, chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên.
10
Tính sơng nước thể hiện ở nhiều phương diện: ăn uống, trang phục, chỗ ở, phương tiện
đi lại, phương thức lao động, sinh hoạt giải trí, ngơn ngữ,… Họ thích cất nhà ở chỗ có
sơng nước để tiện đường đi lại bằng ghe xuồng và buôn bán trên sông: “Nhất cận thị,
nhị cận giang”. Có rất nhiều câu ca miêu tả “không gian xê dịch”, đi – về trên sông nước.
Con người cũng đợi chờ, thương nhớ theo những chuyến đị ngược – xi tấp nập trên sơng:
Tàu số một chạy lên Vàm Tấn,
Tàu số hai chạy xuống Cần Thơ,
Tuổi ba mươi em cũng ở vậy mà chờ,
Lỡ duyên chịu lỡ, cũng chờ đợi anh.
Người dân Nam Bộ tận dụng hệ thống sông rạch chằng chịt để đánh bắt thuỷ sản.
Trong bữa ăn của họ cũng có nhiều món quen thuộc vùng sông nước: “Kèo nèo mà lại
làm chua/ Ăn với cá rán chẳng thua món nào”. Người ta ăn uống trên sơng, trị chuyện trên
ghe xuồng. Hàng xóm của họ là những bạn ghe. Trai gái cũng hẹn hò nhau theo lịch trình
của con nước: “Nước rịng rồi nước đi xa/ Chèo mau anh đợi, thuyền ta cùng về”. Khi bày tỏ
tâm sự yêu đương, người ta cũng thường lấy những hình ảnh trên sơng nước: “Nước trong
xanh chảy quanh Bình Thuỷ/ Trách lịng chàng khơng nghĩ đến em”.
Ở thành phố Cần Thơ có rất nhiều làn điệu dân ca gắn liền với môi trường diễn xướng trên
sông nước. Người ta có các điệu lí trên sơng như: Lí qua cầu, Lí ghe lê,… Các lái bn có
Vè các lái để ghi nhớ các đường sông: “Ghe bầu các lái đi buôn/ Đêm khuya ngồi buồn kể
chuyện ngân nga”. Tính sơng nước là đặc điểm của văn học dân gian miền Tây Nam Bộ,
giúp ta phân biệt với văn học dân gian Bắc Bộ.
2. Văn học dân gian phản ánh lịch sử xã hội và tính cách, tâm tư của người Cần Thơ
Văn học dân gian thành phố Cần Thơ cũng cho ta thấy phần nào các sự kiện lịch sử
diễn ra trên vùng đất này. Những trang lịch sử đầu tiên của người Việt ở nơi đây gắn liền
với thành tích chinh phục thiên nhiên (Tục thờ ơng Bạch Hổ ở Cái Răng). Bên cạnh đó, người
dân Cần Thơ cũng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử xã hội có liên quan đến các tỉnh miền
ngồi. Sự kiện Nguyễn Ánh tránh quân Tây Sơn, chạy về Cần Thơ cũng làm nảy sinh nhiều
truyện dân gian ở vùng này. Một số truyền thuyết kể về Nguyễn Văn Tồn, Võ Duy Tập, Tham
tướng Mạc Tử Sanh phò Nguyễn Ánh. Đến khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, văn
học dân gian thành phố Cần Thơ có truyền thuyết Đinh Sâm chống Pháp. Ơng cử Ngơ Văn
Định bỏ chức quan võ thành An Giang để chiêu mộ nghĩa binh đánh Pháp năm 1867. Ca
dao có câu: “Bình Thuỷ lưu linh đáo lại Long Tuyền/ Cảm thương ông Cử bỏ thành An Giang”.
11
Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa làm nhiều thơ văn chống Pháp. Bùi Hữu Nghĩa được xem như
một quan chức lớn của Nam Kì, sánh với Phan Thanh Giản: “Vĩnh Long có cặp rồng vàng/
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan công thần”. Trong buổi đầu thực dân Pháp cai trị, có giai thoại
về Huyện Văn – Huyện Võ với câu tục ngữ “Trai Hai Huyện, gái miệt vườn”,…
Thành phố Cần Thơ có nhiều tơn giáo và cũng có nhiều giai thoại về hoạt động của
các đạo Hoà Hảo, Cao Đài, các du tăng khất sĩ,… Vào thế kỉ XIX, người Nam Bộ cũng ảnh
hưởng sâu đậm giáo lí của Nho, Phật, Lão. Có người phị vua dẹp giặc, có người lên núi
tu tiên, có người ở nhà thờ cha mẹ cho trọn chữ hiếu: “Anh về lập miếu thờ vua/ Lập trang thờ
mẹ, lập chùa thờ cha”, “Vai mang bức tượng Di Đà/ Hiếu trung ta giữ, gian tà mặc ai”. Vùng đất Cần
Thơ cũng có sự đa dạng về dân tộc và mỗi dân tộc mang đến cho kho tàng văn học dân
gian một sắc màu riêng. Người Hoa đã lưu truyền ở vùng sơng Hậu các tuồng tích Tàu. Họ
cũng giỏi bn bán, giàu có, khiến nhiều cơ gái mê, làm bạn trai của cô ghen tức: “Căn
nợ đâu thấu tới bên Tàu/ Hay là bậu thấy chệt giàu bậu ham”. Văn học dân gian Khmer có
nhiều truyện mang màu sắc Phật giáo: Sự tích lễ hội Chơl Chxơ-Năm Thơ-Mây, Sự tích hình
con thỏ trên Mặt Trăng,… Hai dân tộc Khmer – Kinh cũng cùng lưu hành một số truyện
như: Chau Sanh – Chau Long (Thạch Sanh – Lý Thông), Nàng Cám – Nàng Trấu (Tấm Cám),
Hai cây khế, Sự tích con cá nược,… Nhiều từ ngữ gốc Khmer cũng đi vào ca dao người Việt:
– Ơ Mơn, Bình Thuỷ, La Ghì.
Trà Ơn, Trà Luộc đều thì chợ sung...
– Vai mang cái nóp, tay xách cái lọp cái lờ
Về miền đồng chua nước mặn đặng nhờ miếng ăn. [4]
[4] Trong các câu trên, từ
nào có nguồn gốc từ ngôn ngữ
Khmer?
Trải qua nhiều đời làm ăn sinh sống, người dân Cần Thơ đã tạo nên những làng nghề
truyền thống. Ở Long Tuyền (Bình Thuỷ), có trồng nhiều chanh núm (chanh Tàu). Đó cũng
là cái cớ để cơ gái mời chàng trai: “Anh về Bình Thuỷ, Long Tuyền/ Uống li chanh núm, muộn
phiền tiêu tan”. Ở Trung Kiên (Thốt Nốt), mỗi làng nghề cũng có một vài câu ca dao nói
về sinh hoạt của làng mình. Xóm Cối có nghề đóng cối xay lúa. Cơ gái vừa xay gạo vừa
ngóng người yêu: “Anh đi ghe đó mũi son/ Bắt em xay gạo cho mịn móng tay”. Xóm Mê Bồ
chun làm mê bồ lúa. Người bán quảng cáo sản phẩm: “Mới đan, mới đát, mới rồi/ Mới lận,
mới nứt, mới ngồi bán đây”.
Thành phố Cần Thơ có đất đai trù phú, dân cư đơng đúc. Con người ở đây có dịp giao tiếp với
nhiều vùng miền nên lịch lãm, sang trọng. Trong ca dao, có nhiều câu ca ngợi vẻ đẹp thanh
lịch của người Cần Thơ: “Cần Thơ có bến Ninh Kiều/ Nam thanh nữ tú, dập dìu đáng yêu”.
12
Trai thanh gái lịch ở đây không chỉ đẹp mà cịn chăm chỉ làm ăn, có hiếu với cha mẹ. Họ là
mẫu người lí tưởng trong con mắt của nhiều người vùng khác:
Trai nào thanh bằng trai Nhơn Ái
Gái nào lịch bằng gái Tân Châu
Tháng ngày dệt lụa trồng dâu
Thờ cha dưỡng mẹ quản bao nhọc nhằn.
Người dân thành phố Cần Thơ cũng mang những đặc điểm chung của người miền Tây
Nam Bộ: trọng nghĩa, thẳng thắn, ăn nói mạnh bạo, dân chủ bình đẳng, phóng khống,
chất phác,… Họ trọng nghĩa như: Lục Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu Đồng, ơng Qn,…
Tính của họ ngay thẳng, cương trực : “Đứa nào được Tấn qn Tần/ Xuống sơng sấu ních, lên
rừng cọp tha”. Họ cũng hiếu khách, khi có ai ở xa đến, không phân biệt thân hay sơ, đều
được tiếp đón niềm nở: “Bắt con cá lóc nướng trui/ Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa”.
Người Cần Thơ ăn nói thẳng thắn, mạnh bạo, có sao nói vậy. Trai gái lấy nhau trước hết vì
lí do tình cảm, nhưng bên cạnh đó, cũng tính đến việc làm ăn: “Bên dưới có sơng, bên trên
có chợ/ Hai đứa mình kết vợ chồng nghen”. Họ năng động và thiết thực, ngược xi bn
bán để kiếm tiền ni gia đình:
– Hị hơ… Nước biếc non xanh người bạn lành thiệt là khó kiếm
Anh dạo chơi cũng hiếm, chưa lựa đặng chỗ nào
Mảng lo buôn bán ra vào Cần Thơ.
– Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ
Chợ Cờ Đỏ tuy nhỏ mà đơng
Thấy em mua bán anh chẳng vừa lịng
Để anh làm mướn kiếm từng đồng ni em.
III. Hình thức nghệ thuật và phương ngữ trong văn học dân gian
thành phố Cần Thơ
1. Các hình thức biểu đạt và biện pháp tu từ
Về hình thức biểu đạt, truyện dân gian ở thành phố Cần Thơ cũng có nhiều nét chung
giống với truyện dân gian trong cả nước. Truyện thường được kể theo trật tự tuyến tính
và kết thúc có hậu. Ví dụ như truyện Nàng Út: mở đầu bằng một câu giới thiệu bối cảnh:
“Ngày xưa, có hai ơng bà rất hiền lành nhưng khơng có con bèn lên chùa cầu khấn”. Kết thúc
truyện cũng có hậu: “Vua nhường ngơi cho thái tử. Thái tử và nàng Út cùng sống hạnh phúc,
giàu sang suốt đời”. Truyện ngụ ngôn Nam Bộ thường có câu bình luận ở cuối tác phẩm.
Có lẽ người kể sợ rằng nếu khơng giải thích thì người nghe sẽ khó hiểu được ý nghĩa
13
hàm ẩn của câu chuyện. Trong truyện ngụ ngôn Bướm và sâu (Khmer), người kể kết thúc
bằng lời khuyên: “Ngạn ngữ có câu: “Thành bướm đừng có quên sâu”. Đó là một lời nhắc nhở
đáng quý đối với ai mau quên gốc gác của mình”.
Giống như ca dao Bắc Bộ, ca dao ở thành phố Cần Thơ cũng thường được sáng tác
theo ba thể: phú, tỉ, hứng. Phú là miêu tả sự vật hiện tượng: “Phong Điền chợ nổi trên sông/
Bồng bềnh mặt nước chợ đông sớm chiều”,... Tỉ là lấy sự vật này so sánh với sự vật kia: “Xoài
nào ngon bằng xoài Cao Lãnh/ Vú sữa nào ngọt bằng vú sữa Cần Thơ”,… Hứng là nhân sự
việc này, nhắc đến sự việc kia: “Đèn treo Vàm Xáng/ Tỏ rạng Vàm Kinh/ Anh ra đây sao chịu
chữ làm thinh/ Hay là anh chê tơi khơng xứng người tình của anh?”.
Ca dao ở vùng đất Cần Thơ cũng sử dụng các biện pháp tu từ quen thuộc như: so sánh,
ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, điệp, đối,... Chúng tạo được bản sắc riêng do lấy chất liệu từ
những sự vật quen thuộc của vùng Đồng bằng sông Cửu Long: “Lục bình mấy kiếp trơi
sơng/ Trơi ra rồi lại theo dịng trơi vơ”, “Nước chảy liu riu, lục bình trơi riu ríu/ Anh ở một mình, khi
đau yếu ai ni?” . Có bài kết hợp nhiều thủ pháp tu từ, đồng thời tạo được bản sắc riêng
do gắn liền với địa danh Cần Thơ.
Đất Châu Thành anh ở
Xứ Cần Thơ em về
Bấy lâu sông cận biển kề
[5] Hãy cho biết
các biện pháp tu từ
trong bài ca dao này.
Phận tay mai trúc dầm dề hột châu. [5]
2. Phương ngữ trong văn học dân gian thành phố Cần Thơ
Để phân biệt ca dao Nam Bộ với với ca dao Bắc Bộ, người ta thường căn cứ vào
phương ngữ. Ca dao Nam Bộ mang bản sắc riêng ở chất liệu hiện thực và phương ngữ:
“Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu”, “Hát một câu, thấu tới trong
buồng/ Kêu anh thức dậy, đẩy xuồng bơi theo”.
Trong phương ngữ Nam Bộ, có nhiều từ ngữ gốc Khmer. Những từ ngữ này cũng đi vào
ca dao người Việt và rất khó nhận ra. Một số địa danh Nam Bộ cũng có nguồn gốc Khmer,
chúng đã góp phần tạo ra bản sắc riêng của ca dao Nam Bộ.
– Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh!
– Chiều chiều cị lượn Bằng Lăng
Ơ Mơn bưởi ngọt, Cái Răng hữu tình.
14
Truyện dân gian người Việt cũng mang bản sắc phương ngữ Nam Bộ. Trước đây, người
dân vùng sông Hậu thường truyền tụng truyện cười của Tám Cồ. Các truyện này mang
bản sắc phương ngữ Nam Bộ và có nói đến các hình ảnh, sinh hoạt quen thuộc của người
dân địa phương: “Một hơm, tui đi thăm ruộng dìa gặp ơng Chánh hội. Ổng nghe nói tui là tay
nói dóc tổ nên biểu: “Vơ nói dóc chơi chú Tám!”. Biết ổng khối nhậu, tui đáp liền xì: “Ở đó mà
nói dóc. Hồi hôm, tui chài được mấy con cá chẽm bằng bắp vế, bà xã cịn rọng ở nhà. Dìa nhà
tui nhậu chơi”” (Biểu nói dóc thì nói dóc).
IV. Văn học dân gian thành phố Cần Thơ trong xã hội hiện đại
Trong xã hội hiện đại, các thể loại văn học dân gian vẫn hiện diện dưới nhiều hình
thức khác nhau. Một số truyện thần thoại, cổ tích, truyền thuyết được chuyển thể thành
kịch bản sân khấu. Giai thoại và truyện cười vẫn tiếp tục phát triển với những nội dung
hiện đại. Các thể loại văn vần rất phổ biến. Có nhiều bài vè sáng tác từ giữa thế kỉ XX trở
đi như: Vè đánh Tây, Vè đấu tranh trong tù, Vè người cộng sản, Vè Chiến sĩ Tây Đô,… Người
ta vẫn sáng tác câu đố với nội dung hiện đại: “Hai cây cùng có một tên/ Cây xoè mặt
nước, cây trên chiến trường/ Cây này bảo vệ quê hương/ Cây kia hoa nở soi gương mặt
hồ” (cây súng),…
Ca dao vẫn tiếp tục được sáng tác và lưu truyền. Người ta gọi đây là ca dao mới.
Ban đầu, những bài này được một nhà thơ nào đó sáng tác nhưng trong q trình lưu
truyền, người ta khơng nhớ tác giả. Tác phẩm đó trở thành thơ ca dân gian. Ví dụ như:
“Cần Thơ cảnh vật tươi xinh/ Gợi lòng du khách đậm tình nước non”, “Q tơi Vĩnh Thạnh anh
hùng/ Trẻ già trai gái một lòng đánh Tây”, “Vòng Cung đi dễ khó về/ Đạn chen đầu đạn, bom
kề hố bom”… Để nhận ra một bài thuộc loại ca dao mới, ta có thể căn cứ vào các chi tiết,
hình ảnh được nhắc đến. Chẳng hạn, trong bài ca dao sau đây, có hình ảnh “bánh bích
quy”, một món ăn thời hiện đại:
Chợ Bình Thuỷ bán bánh bao chỉ
Chợ Sài Gịn bán bánh bích quy
Anh đứng làm trai sao khơng biết nghĩ suy
Vợ anh cịn, con anh sẵn, nghĩa lí gì anh thương em.
Ca dao hiện đại thường gắn với những sự kiện xã hội trong thế kỉ XX. Nó giúp ta hiểu
thêm nhiều vấn đề về văn hoá, lịch sử, địa lí địa phương. Vào đầu thế kỉ XX, người Pháp
dùng những chiếc xáng lớn để đào múc kênh rạch, mở rộng thơng thương. Từ đây, trai
gái hát hị trên sơng cũng nhắc đến hình ảnh chiếc xáng: “Kinh xáng mới đào, tàu Tây mới
chạy/ Thương em thương đại, đừng ngại gần xa”, “Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành/ Tàu
Tây kia liệt máy, anh mới đành bỏ em”… Những hình ảnh của cuộc sống hiện đại đã đi vào
ca dao Cần Thơ:
15
Đèn nào cao bằng đèn chợ Mỹ
Lộ nào kĩ bằng lộ Cần Thơ
Anh thương em lững đững lờ đờ
Tỉ như tình Điệp ngồi chờ tình Lan.
Nhìn chung, văn học dân gian thành phố Cần Thơ rất đa dạng, có sự góp mặt của nhiều
dân tộc, tơn giáo, tầng lớp xã hội. So với một số tỉnh miền Tây Nam Bộ, vùng đất Cần Thơ
có thế mạnh trong các loại hình diễn xướng dân gian, nhất là tuồng. Ngày nay, nhiều
thể loại văn học dân gian vẫn tiếp tục được sáng tác và lưu truyền. Văn học dân gian
thành phố Cần Thơ tỏ ra thích ứng, bắt nhịp nhanh chóng với xã hội hiện đại, góp phần
vào sự phát triển của địa phương, nhất là trong lĩnh vực văn hoá – du lịch.
(Phạm Ngọc Hiền biên soạn)
1. Chỉ ra một vài nét đặc thù của văn học dân gian thành phố Cần Thơ so với
văn học dân gian các tỉnh Bắc Bộ.
2. Cho biết mối liên hệ giữa văn học dân gian của người Khmer và văn học
dân gian của người Việt ở thành phố Cần Thơ.
3. Ở thành phố Cần Thơ hiện nay, những thể loại văn học dân gian nào vẫn tiếp tục
được sáng tác và lưu hành? Cho ví dụ.
LUYỆN TẬP
1. Lập dàn ý thể hiện các luận điểm chính trong bài viết trên.
2. Tóm tắt bài viết trên thành một văn bản ngắn (khoảng một trang A4), có kết cấu ba phần.
VẬN DỤNG
Em hãy sưu tầm văn học dân gian ở Cần Thơ và sắp xếp chúng theo từng nhóm thể loại:
– Văn xi: Thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, giai thoại, truyện cười,…
– Văn vần: Ca dao, các thể loại dân ca, tục ngữ, câu đố, vè,…
– Kịch: Tuồng, cải lương, rô băm, dù kê,…
16
BÀI 2:
VĂN BẢN 1
TRUYỆN DÂN GIAN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
TỤC THỜ CỌP Ở CÁI RĂNG
Hình 1.2. Miếu thờ ơng Bạch Hổ ở đình Thường Thạnh
(Tác giả: Duy Khơi, Nguồn: canthotourism.vn)
KHỞI ĐỘNG
Em đã đến các miếu thờ cọp ở địa phương lần nào chưa? Cảm giác của em như thế nào
khi bước vào các nơi thờ linh vật (cọp bạch, rắn thần, cá ông,...)?
KHÁM PHÁ
Thông tin trước khi đọc:
Trong văn học dân gian Nam Bộ, thể loại truyền thuyết rất phát triển. Phần lớn
nội dung của truyền thuyết Nam Bộ nói về những sự kiện văn hoá lịch sử từ thế kỉ XVIII
về sau. Nhiều truyền thuyết – giai thoại liên kết thành một nhóm có liên quan tới một
vài nhân vật lịch sử. Trên hành trình tránh quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh từng lưu lại nhiều
nơi ở Nam Bộ. Người dân thành phố Cần Thơ có lưu truyền nhiều truyền thuyết, giai thoại
về ơng. Trong đó, có truyền thuyết về địa danh Cần Thơ, miếu thờ ông Bạch Hổ ở Cái Răng,
giai thoại về Bùi Hữu Nghĩa,…
Từ thuở khai hoang mở cõi, người Việt ở Nam Bộ phải đối phó với cọp, beo, cá sấu, rắn
độc,… Người ta sợ oai linh của cọp nên gọi cọp là Ông Dần, Ông Cả, Ông Ba Mươi, Hương
Cả Cọp, Chúa xứ sơn lâm,… Từ chỗ sợ cọp, họ sinh ra tục thờ cúng cọp để được yên ổn.
Một số nơi thờ cọp vì chúng có cơng giúp đỡ con người. Ở thành phố Cần Thơ, có nhiều
đình miếu thờ thần cọp ở làng Long Tuyền (Bình Thuỷ), làng Phước Thới (Ơ Mơn), làng
Thường Thạnh (Cái Răng),…
17
Đọc văn bản:
Từ xưa, vùng Cái Răng là rừng rậm hoang vu. Dưới
rạch đầy cá sấu, trên rừng đầy cọp beo. Cây cối mọc
um tùm khơng có lối đi. Người Khmer sống rải rác
một số nơi dọc theo sông lớn. Họ chuyên làm “cà
ràng” (ông táo) và chở đi bán dọc vùng sông Hậu.
Cho nên, người Việt kêu vùng này là Cái Răng. [1]
[1] Có một truyện cổ tích
khác ở thành phố Cần Thơ cũng
giải thích tên gọi Cái Răng. Đó
là truyện nào?
Một năm nọ, quân Nguyễn Ánh bị Tây Sơn truy đuổi, phải chạy vô các sông rạch
vùng sông Hậu. Trong đêm vắng vẻ, Nguyễn Ánh nghe có tiếng đờn địch ca hát ngâm
thơ từ xa vọng lại. Ngài không ngờ ở chỗ xa xôi hẻo lánh này cũng có văn nghệ nên
xúc động đặt tên một con sơng nhỏ ở đây là “Cầm Thi Giang” (sau này, đọc là sông
Cần Thơ). Sau khi lánh ở đây một thời gian, cảm thấy khơng an tồn, Nguyễn Ánh tiếp tục
lui qn ra đảo Phú Quốc.
Một tốn lính khơng muốn theo Chúa Nguyễn ra hịn đảo xa xơi ấy nên trốn vơ
rừng rậm Cái Răng. Họ phải tìm đến chỗ thiệt hẻo lánh để không bị Tây Sơn phát hiện.
Rồi họ bị lạc trong rừng, sống trong cảnh cơ cực, thiếu thốn trăm bề. Ban đêm,
họ phải ngủ trên cây để tránh thú dữ. Ban ngày, đi săn thú rừng, bứt rau dại làm thức ăn.
Hằng ngày, họ phải uống nước dơ bẩn dưới kinh rạch. Cuộc sống khổ cực đã làm cho
nhiều người bị bệnh nặng, khơng có thuốc chữa, chỉ biết nằm chờ chết. Bỗng một đêm
nọ, có người nằm mơ thấy một cụ già râu tóc bạc
phơ hiện lên nói rằng:
[2] Thử đốn xem những
– Ta là thần cọp, chúa tể vùng này. Thấy các người người lính sẽ làm gì sau khi
gặp nạn lớn nên ta mách cho đường sống. Muốn nghe lời ông lão mách bảo?
chữa hết bệnh, phải lấy vỏ cây cổ thụ, giã nát, lấy
nước uống. Muốn thú dữ không quấy nhiễu, hãy lập
miếu thờ thần cọp trắng. Cố gắng đợi đến đầu mùa thu năm sau sẽ có người đến cứu. [2]
Hơm sau, mọi người làm theo lời dặn của thần cọp trắng. Quả nhiên, những người bị
bệnh trở nên khoẻ mạnh. Cọp beo cũng khơng dám rình bắt người nữa. Để cảm tạ thần
linh, mọi người dựng một cái miếu thờ, bắt thú rừng tế lễ. Từ đó, cuộc sống của họ n ổn
hơn, ít phải lo nạn thú dữ và đói khát, bệnh tật. Họ chịu khó làm ăn và chờ đợi có dịp thốt
khỏi khu rừng.
Đúng như lời của thần cọp trắng, đầu mùa thu năm sau, có một đồn người đến
cứu họ. Mọi người vui mừng ra khỏi rừng hoang để về nhà đồn tụ gia đình. Tuy nhiên,
họ cũng nhận ra rằng, đất đai vùng đất Cần Thơ màu mỡ, nhiều tôm cá, dễ sinh sống.
18
Một thời gian sau, nhiều người quay lại đây cùng với
gia đình. Họ mang theo dụng cụ lao động để làm
ruộng, đánh bắt cá, nuôi heo gà. Nhờ chăm chỉ làm
ăn, họ vượt qua được những khó khăn ban đầu, cuộc
sống ngày càng sung túc. [3]
[3] Theo văn bản, những lưu
dân đầu tiên trên đất Cần Thơ
là ai?
Tiếng lành đồn xa, nhiều người dân các nơi khác cũng kéo tới Cái Răng sinh sống. Nhà
cửa ngày càng nhiều, ghe xuồng buôn bán tấp nập. Từ đời này qua đời nọ, người ta luôn
nhớ ơn thần cọp đã giúp họ từ thuở khai hoang. Cho nên, mỗi khi đến vụ gieo trồng và gặt
hái, người dân trong vùng đều mang lễ vật đến đình Thường Thạnh để cúng thần cọp trắng.
Họ cầu mong thần phù hộ để được dồi dào sức khoẻ, vạn sự bình an, làm ăn thuận lợi, no ấm.
(Phạm Ngọc Hiền biên soạn dựa theo Trần Văn Nam (Chủ biên),
Truyện dân gian Cần Thơ, NXB Đại học Cần Thơ, 2019 và nhiều tài liệu khác)
1. Kể lại những nỗi lo lắng của người lính khi phải sống trong rừng Cái Răng.
Tại sao sau khi về nhà, họ lại quay trở về vùng này?
2. Dựa vào truyện trên, em hãy chỉ ra sự khác nhau ở vùng đất Cần Thơ trước và sau
khi người Việt đến lập nghiệp.
3. Người dân Cái Răng ngày xưa quan niệm như thế nào về lồi cọp? Người xưa
mượn truyện này để giải thích điều gì?
4. Truyền thuyết thường kết hợp hai yếu tố: kì ảo, siêu nhiên và hiện thực lịch sử. Em
hãy phân tích văn bản này để làm sáng tỏ điều đó.
VĂN BẢN 2
SỰ TÍCH CON CÁ NƯỢC
Hình 1.3. Cá nược một thời tung tăng trên sông nước miền Tây
(Nguồn: Tác giả cung cấp)
19
KHỞI ĐỘNG
Em có nhìn thấy cá Ơng Nược trên sơng Hậu lần nào chưa? Hãy chia sẻ những hiểu biết
của em về lồi cá heo nước ngọt này.
KHÁM PHÁ
Thơng tin trước khi đọc:
Cá nược là lồi động vật có vú, thuộc họ cá heo. Cá thích đùa giỡn với trẻ con và chạy đua
theo thuyền nên ngư dân thường gọi: “Đua Ơng Nược ơi”. Người dân vùng sơng Hậu tin
rằng: Ông Nược rất linh thiêng, thường giúp đỡ ngư dân bị nạn. Có lão ngư ở xóm Chài
(Cần Thơ) kể rằng: “Hồi xưa, Ơng có nhiều ở vùng này lắm, con nít, người lớn ai mà khơng
khối (…). Xóm này từng có ngư dân giăng lưới khơng may dính được Ông kiểm tra lại
thấy cá đã chết nên đem chôn ngay, khơng dám để lâu. Sau đó, ngư dân ấy bán xuồng ghe,
khơng đi thả lưới nữa”.
Truyện cổ tích Sự tích con cá nược có nhiều dị bản và mỗi bản có một số nội dung khác
nhau. Truyện này được cả người Việt và người Khmer truyền tụng rộng rãi ở miền Tây Nam Bộ.
Truyện cổ tích này sẽ giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ gần gũi giữa thiên nhiên và
con người ở vùng sông Hậu thuở xa xưa.
Đọc văn bản:
Người ta kể rằng, xưa kia, có một cô gái rất đẹp và hiếu thảo với cha mẹ. Khi biết rằng
mẹ cơ qua đời đã hố kiếp thành hoa sen, cô gái luôn đến bên ao để chăm sóc và canh
giữ hoa sen.
Một hơm, các vị thần trên thượng giới bay xuống trần gian dạo chơi. Bỗng có một vị thần
thấy hoa sen đẹp liền hái rồi bay về trời. Buổi chiều, cơ gái lại ra ao thì thấy hoa sen bị mất.
Cô rất buồn và lâm bệnh nặng. Người cha thấy thế rất lo lắng cho con.
Thần hái sen khi bay về trời đã bị Ngọc Hoàng bắt tội ăn cắp hoa của người trần gian.
Vị này bị đày xuống trần gian làm con trăn để trả nợ cho cô gái kia. Người cha lấy làm lạ
khi thấy một con trăn hiền lành bỗng nhiên xuất hiện và muốn gần gũi con gái mình.
Ban đêm, con trăn hiện ngun hình người, an ủi cơ gái. Chẳng mấy chốc, cô gái hết bệnh
và luôn quấn quýt bên trăn. Một hơm, người cha bắt gặp con trăn hiện hình người và ơm ấp
con gái mình. Ơng vội vàng chạy đến chụp lấy lốt trăn và yêu cầu chàng trai phải nói sự thật.
Chàng trai bèn kể hết sự thật cho người cha nghe.
[1] Em hãy giới thiệu thêm
Người cha liền đồng ý gả con gái cho chàng trai. [1]
Chàng chịu khó làm lụng giúp đỡ gia đình nhà vợ rất
nhiều. Chẳng bao lâu sau, gia đình họ trở nên giàu có.
20
một số truyện cổ tích có chi
tiết người lấy rắn.
Thấy vậy, nhiều người trong xóm cũng muốn gả con gái mình cho trăn để được giàu
có. Một gia đình nọ làm nghề đốn củi, có cơ gái xinh đẹp đang tuổi kén chồng. Người
cha vào rừng thấy con trăn rất to, nằm quấn trên gị đất cao. Ơng nghĩ thầm: “Đây chắc là
duyên trời định cho con gái mình”. Ông nhanh chóng bắt con trăn, trói chặt rồi mang về
nhà. Ơng nói với vợ: “Đây là chàng rể q của ta, bà phải dạy cho con gái biết yêu thương
trăn”. Khi đã thuyết phục được con gái đồng ý lấy trăn, cha mẹ liền tổ chức đám cưới.
Mọi người đến dự và chúc mừng đơi vợ chồng.
Đêm động phịng, con trăn đói mồi, trườn đến cơ gái. Cơ nằm im vì tưởng là trăn đang
âu yếm mình. Con trăn bắt đầu há miệng ra nuốt đôi chân cô gái. Thấy vậy, cô gái hốt
hoảng la lên: “Mẹ ơi, con trăn nuốt con!”. Bà mẹ nói: “Con trăn đang yêu thương con đó”.
Lúc sau, cơ gái lại kêu cứu thất thanh. Cha mẹ chạy vơ phịng thì thấy trăn đã nuốt cô gái.
Mọi người cạy miệng trăn để kéo cô ra.
Lúc tỉnh lại, cô gái thấy đau ê ẩm và hơi tanh khắp người. Nhìn mọi người xung quanh, cơ
cảm thấy mắc cỡ và đau xót. Cơ ra giếng tắm rửa mãi mà vẫn không sạch hết nước bọt nhầy
nhụa của trăn. Cô quá xấu hổ, liền lấy cái gáo múc nước chụp lên đầu để khỏi ai trông thấy
mặt mình rồi chạy ra sơng. Cơ ngâm mình dưới sơng rất lâu mà vẫn không hết hôi tanh.
Từ đấy, cha mẹ khơng cịn thấy cơ trở về nhà nữa.
Thương tình một cơ gái trong trắng bị làm nhục,
Ngọc Hồng cho nàng hố kiếp làm con cá nược.
Con cá này có đầu giống như con người đội gáo múc
nước. [2] Và cơ thể của nó có nhiều nét giống như
thân hình phụ nữ. Thỉnh thoảng, nó ngoi đầu lên mặt
sơng phun nước để tỏ ý trách móc cha mẹ.
[2] Tại sao con cá nược lại
có cái đầu giống như gáo
múc nước?
(Theo Trần Văn Nam (Chủ biên), Truyện dân gian Cần Thơ,
NXB Đại học Cần Thơ, 2019)
1. Hãy chỉ ra những hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Nam Bộ trong văn bản trên.
2. Phân tích mối quan hệ gần gũi giữa con người và động vật thuở xa xưa.
3. Dân gian muốn giải thích điều gì qua câu chuyện này?
4. Truyện cổ tích có ba loại: truyện lồi vật, truyện thần kì và truyện sinh hoạt,
thế sự. Chứng minh rằng, truyện Sự tích con cá nược có sự kết hợp cả ba
nội dung trên.
21
ĐỌC MỞ RỘNG
CHUYỆN VỀ BÙI HỮU NGHĨA
Bùi Hữu Nghĩa (1807 – 1872) là người làng Long Tuyền (quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ).
Cha ông làm nghề chài lưới, gia đình khơng được khá giả nhưng vẫn cố gắng cho ông
đi học. Bùi Hữu Nghĩa lên Biên Hoà học hành và ăn ở trong nhà của ơng Nguyễn Văn Lý.
Ơng lấy Nguyễn Thị Tồn (con gái của Nguyễn Văn Lý). Sau này, bà đã có những hành động
khiến cho Bùi Hữu Nghĩa nổi tiếng khắp từ xứ Đồng Nai đến kinh đô Huế.
Năm 1835, Bùi Hữu Nghĩa đỗ giải nguyên kì thi hương Gia Định nên thường được gọi
là Thủ Khoa Nghĩa. Ông được bổ làm tri huyện Phước Long (Biên Hoà). Sau một thời gian
ngắn, Bùi Hữu Nghĩa được đổi sang làm tri huyện Trà Vang (Trà Vinh), tỉnh Vĩnh Long.
Trước đó, cũng ở Vĩnh Long, Phan Thanh Giản đã trải qua thời niên thiếu lận đận rồi mới
trở thành quan lớn của triều đình. Cả hai ơng đều có tính tình cương trực nên dân gian
có câu:
Vĩnh Long có cặp rồng vàng
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan cơng thần.
Khi làm tri huyện Trà Vang, Bùi Hữu Nghĩa rất cơng minh, khơng tư vị người nào. Ơng
khơng ngại ngần trừng phạt cả thân nhân của những quan chức có vai vế ở địa phương.
Bấy giờ, em vợ của Bố chánh thường có cử chỉ xấc xược, khinh người. Bùi Hữu Nghĩa cho
lính đánh hắn một trận nên thân. Vì lẽ đó, ơng bị một số người thù ghét và kiếm cớ hãm hại.
Trước kia, Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đuổi, gặp khó
khăn, phải chạy về Trà Vang. Đến khi lên ngôi vua,
Nguyễn Ánh xuống chiếu miễn thuế thuỷ lợi cho
dân vùng này. [1] Một số địa chủ người Tàu đã lo lót
cho Bang biện và Bố chánh để độc quyền khai thác
thuỷ lợi. Các hương mục người Khmer kéo đến dinh
Bùi Hữu Nghĩa để khiếu nại.
[1] Sự kiện này cho thấy vua
Nguyễn Ánh đối xử như thế nào
với người dân miền Tây Nam Bộ?
– Bẩm quan lớn! Trước kia, vua Thế Tổ cho phép nông dân chúng tôi được quyền khai thác
miễn thuế thuỷ lợi rạch Láng Thé. Tại sao nay các quan cho một số người Tàu độc
quyền khai thác nơi này?
Đáng lẽ phải giải quyết sự tranh chấp ấy một cách khéo léo nhưng Bùi Hữu Nghĩa vốn
thẳng tính, cương trực nên nói thẳng:
– Vua cho các ngươi quyền lợi ấy thì các ngươi cứ giữ lấy. Nay, có ai nhỏ hơn vua mà
phê giấy cho bán rạch ấy thì có chém đầu nó cũng khơng sao!
Thấy tri huyện Bùi Hữu Nghĩa ủng hộ mình, một số nông dân Khmer ở Láng Thé mạnh
dạn kéo nhau đi phá đập nước. Hai bên xô xát làm nhiều người Tàu chết. Tổng đốc và
22
Bố chánh tỉnh Vĩnh Long bắt Bùi Hữu Nghĩa giải về Gia Định rồi dâng sớ về triều đình
đề nghị tử hình ơng về tội xúi dân làm loạn gây chết người.
Bà Nguyễn Thị Tồn quyết tâm ra Huế để minh oan cho chồng. Sau nhiều ngày ngồi
ghe bầu lênh đênh trên biển, bà đến được kinh đô. Đầu tiên, bà đến quan Thượng thư
Phan Thanh Giản để trình bày sự lộng quyền của các quan ở tỉnh Vĩnh Long. Rồi bà đến
Tam pháp ti khua ba hồi trống để kêu oan. Các quan
của Bộ Hình nhận tờ đơn để dâng vua. Sau nhiều ngày
[2] Em hiểu “quân tiền hiệu
nghị bàn, vua Tự Đức chung thẩm bản án như sau:
lực, đái cơng chuộc tội” nghĩa
– Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải
là gì?
quân tiền hiệu lực, đái công chuộc tội. [2]
Mẹ của vua Tự Đức là bà Từ Dũ rất cảm kích người đồng hương Nam Bộ và tặng bà
Nguyễn Thị Tồn một tấm biểu chạm bốn chữ vàng “Liệt phụ khả gia”. Cứu được chồng xong,
bà Nguyễn Thị Tồn về q và ít lâu sau thì thọ bệnh, mất tại Biên Hoà. Khi Bùi Hữu Nghĩa về
tới nhà thì việc an táng đã xong. Ơng có làm bài thơ Khóc vợ và bài văn tế Nguyễn Thị
Tồn có những câu thống thiết như sau:
“Hỡi ơi! Gió Nữ phất phơ; mưa Ngâu lác đác. Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào
bọt nước sóng xao; Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt (…)
Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chiều lịng theo ln lí với anh em; Lúc theo chồng vui biết
chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng cùng chú bác (…) Con cháu tuổi thơ ngây một bóng,
em bao đành nhắm mắt tầm tiên; Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng
cưỡi hạc (…) Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm; Ngày ra nào
vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát”.
Sau khi được tha tội chết, Bùi Hữu Nghĩa bị đưa đi nhận viện binh ở Châu Đốc.
Khi ở miền biên ải này, ông cũng làm nảy sinh nhiều giai thoại, trong đó có chuyện
hơn nhân lần thứ hai. Bùi Hữu Nghĩa có dạm hỏi cưới cơ Lưu Thị Chỉ, con gái thứ
của một viên quan ở Vĩnh Thông. Gần đến ngày cưới thì ơng có lệnh phải đổi lên
biên giới nên nhờ chị mình đại diện phía nhà trai lo việc đám cưới. Trong lúc vắng
ông, nhà gái tráo hôn bằng cách cho cô chị là
[3] Trong thời điểm này, Bùi
Lưu Thị Ý làm vợ Bùi Hữu Nghĩa. Cịn cơ em, trẻ
đẹp hơn thì gả cho Đề đốc Đính. Bùi Hữu Nghĩa Hữu Nghĩa có cịn là một ơng
thấy mình bị lừa nên buồn cho thói đời đen bạc. quan đầy uy quyền như lúc ở
Ông sửa tên bà Lưu Thị Ý thành Lưu Thị Hoán, tức là Trà Vinh khơng?
hốn đổi. [3]
Bùi Hữu Nghĩa viết vở tuồng Kim Thạch kỳ dun để kí thác tâm sự của mình. Vở tuồng
lấy tích truyện ở bên Tàu nhưng có nhiều chỗ giống chuyện hôn nhân của Bùi Hữu Nghĩa.
Chàng trai Kim Ngọc đính hơn với Ái Châu. Tuy nhiên, sau đó chàng bị bệnh nên bị nhà gái
23
tráo hôn bằng cách gả cho chàng người “con nuôi” là Thạch Vơ Hà. Cịn Ái Châu thì gả cho
con của một quan tri huyện. Nhờ gia đình vợ tận tình giúp đỡ, Kim Ngọc hết bệnh và thi
đỗ trạng nguyên, ra làm quan. Ái Châu muốn quay lại với chàng nhưng bị từ chối, phải đi
làm gái lầu xanh, bị bệnh, rồi tự tử,… Vở tuồng Kim Thạch kỳ duyên của Bùi Hữu Nghĩa từng
nổi tiếng một thời, chẳng kém gì Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu.
Cuối đời, Bùi Hữu Nghĩa về quê Bình Thuỷ dạy học, vui thú điền viên. Ông vẫn làm thơ,
viết tuồng và thường lui tới nhóm Tao Đàn Bà Đồ của Nguyễn Thị Nguyệt để đàm luận
văn chương. Bùi Hữu Nghĩa cùng Phan Văn Trị làm thơ đả kích Tơn Thọ Tường và cổ vũ
phong trào chống thực dân Pháp. Người dân Nam Bộ có lưu truyền bài ca dao nói về tài
thơ của Bùi Hữu Nghĩa:
Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc hoạ, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi.
(Phạm Ngọc Hiền tổng hợp)
Hình 1.4. Bìa sách tuồng
Kim Thạch kỳ duyên
của Bùi Hữu Nghĩa
(Nguồn: Tác giả cung cấp)
1. Địa danh An Giang, Vĩnh Long thời Bùi Hữu Nghĩa có trùng khớp với địa giới
An Giang, Vĩnh Long ngày nay khơng?
2. Nội dung chính của tác phẩm thiên về lịch sử – xã hội hay chuyện đời tư của
Bùi Hữu Nghĩa?
3. Cho biết vài cảm nhận của em về phẩm chất của bà Nguyễn Thị Tồn.
24