ĐỀ BÀI: SỐ 6
Câu 1: So sánh nhãn hiệu và tên thương mại?
Câu 2: Cơ sở Thái Hưng đã chế tạo và sản xuất ra sản phẩm bút bi đặc biệt khiến
bi trơn hơn và ra mực đều hơn. Điểm mấu chốt của chiếc bút bi này là tạo ra khoảng
trống giữa viên bi và đầu bút bi – áp dụng nguyên tắc phổ biến trong ngành sản xuất bút
bi là thơng khí hai đầu của một chất lỏng (mực) để mực chảy đều hơn. Sau 1 năm bán
sản phẩm ra thị trường, thấy sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng, cơ sở Thái
Hưng mới nảy sinh ý định đăng ký sáng chế.
Theo anh (chị), Cơ sở Thái Hưng có thể đăng ký sáng chế đối với sản phẩm bút
bi đặc biệt này không? Tại sao?
1
Câu 1: So sánh nhãn hiệu và tên thương mại?
MỞ ĐẦU
Hằng ngày, có rất nhiều hàng hóa mới xuất hiện trên thị trường. Bạn quan tâm đến
điều gì khi bạn muốn mua một sản phẩm nào đó? Điều gì khiến bạn mua sản phẩm đó?
Ấn tượng tổng thể tốt, thương hiệu nổi tiếng, kiểu dáng bắt mắt. Khơng ai có thể phủ
nhận đó là những yếu tố quan trọng tác động đến người mua. Ta có thể thấy, nhãn hiệu
và tên thương mại là hai đối tượng hoàn toàn khác nhau về bản chất nhưng nhiều người
vẫn hay thường bị nhầm lẫn giữa nhãn hiệu và tên thương mại. Vậy giữa nhãn hiệu và
tên thương mại có những điểm giống nhau gì làm nhiều người vẫn hay bị nhầm lẫn và
muốn phân biệt chúng với nhau thì dựa trên những tiêu chí nào. Để làm rõ hơn vấn đề
này em xin chọn đề “So sánh nhãn hiệu và tên thương mại” làm đề bài viết bài tiểu
luận của mình.
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về nhãn hiệu và tên thương mại.
1. Khái niệm nhãn hiệu:
Tất cả chúng ta đều được tiếp xúc với hàng trăm nhãn hiệu hằng ngày. Nhãn hiệu
được nhìn thấy trên hầu hết các sản phẩm, gắn trên bản mô tả sản phẩm và bao bì sản
phẩm. Là khách hàng, chúng ta có thể đưa ra nhiều quyết định, đơi khi những quyết
định đó được đưa ra theo ý chí chủ quan, thậm chí chẳng cần nhìn thấy sản phẩm, mà
dựa vào danh tiếng và uy tín của nhãn hiệu. Vậy, nhãn hiệu là gì?
Theo quy định tại Khoản 16 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ được sửa đổi bổ sung năm
2009 (sau đây gọi là Luật sở hữu trí tuệ) thì: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt,
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.
Nhìn chung, nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được và có khả năng phân biệt,
dưới dạng từ ngữ, chữ cái, con số, hình vẽ, ảnh, hình dạng, màu sắc, biểu trưng, nhãn
hàng hoặc sự kết hợp của một hoặc nhiều các dấu hiệu này. "Nhãn hiệu" là thuật ngữ để
chỉ chung nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Với chức năng của công cụ
2
marketing - truyền đạt tới người tiêu dùng uy tín của sản phẩm dịch vụ mang nhãn hiệu
được hình thành bởi trí tuệ mà doanh nghiệp đầu tư cho sản phẩm dịch vụ đó - nhãn
hiệu được pháp luật coi là tài sản trí tuệ của doanh nghiệp. 1
Khác với Luật SHTT Việt Nam, Luật Châu Âu và Luật Hoa Kỳ quy định mở hơn
đối với các dấu hiệu có thể làm nhãn hiệu. Đó là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt chứ khơng chỉ bó hẹp ở các dấu hiệu nhìn thấy được như Luật SHTT của Viêt
Nam. Do đó, các dấu hiệu khơng thơng dụng (unusual) như mùi vị, âm thanh… cũng có
khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Ta có thể thấy, nếu theo quy định tại Điều 4 Luật SHTT (giải thích từ ngữ) thì sẽ
bị hiểu rằng dấu hiệu chỉ cần đáp ứng chức năng phân biệt là đủ để được đăng ký nhãn
hiệu, trong khi Luật SHTT Việt Nam chỉ chấp nhận các dấu hiệu nhìn thấy được. Do
đó, thay vì việc giải thích từ ngữ, Luật SHTT Việt Nam nên xây dựng khái niệm nhãn
hiệu để tránh các cách hiểu không thống nhất. Luật SHTT khơng nên chỉ quy định dấu
hiệu nhìn thấy được tức là qua thị giác mà nên quy định các dấu hiệu có khả năng phân
biệt được qua cả các giác quan khác. Bởi vì, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới, các công ty nước ngoài vào Việt Nam đầu tư ngày càng nhiều và như
vậy, số lượng đơn đề nghị bảo hộ nhãn hiệu ngày càng tăng. Đó là chưa kể khi trình độ
dân trí càng cao thì khả năng xuất hiện những nhân tố mới là rất có thể. 2
2. Khái niệm tên thương mại:
Khơng phải là hàng hóa nhưng tên thương mại lại có ý nghĩa rất lớn trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Tên thương mại là một trong những đối tượng cơ
bản của quyền sở hữu công nghiệp, vì vậy, pháp luật rất nhiều quốc gia trên thế giới và
pháp luật Việt Nam hiện nay luôn coi trọng việc bảo hộ tên thương mại. Tuy nhiên,
khái niệm tên thương mại vấn chưa được hiểu thống nhất ở các quốc gia. Cho đến nay,
chỉ có một Điều ước quốc tế đa phương duy nhất đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại – đó là Cơng ước Paris năm 1883.
Nhưng Công ước này không đưa ra một định nghĩa cụ thể về tên thương mại. Tên
thương mại là một khái niệm được sử dụng trong các văn bản và trong thực tiễn pháp
1
/>OpenAgent&UNID=AA7EB0F27C8C2DEA472577730012502A
2
/>
3
luật Việt Nam, nó tương đương với khái niệm Tiếng Anh trong luật quốc tế là
“Tradename”. Không nên nhầm lẫn tên thương mại với nhãn hiệu hàng hóa
(Trademark), cũng khơng nên nhầm lẫn tên thương mại với thương hiệu.
Theo quy định tại Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT thì: “Tên thương mại là tên gọi
của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh
mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh
doanh”. Ở đây, ta có thể hiểu lĩnh vực kinh doanh là một mảng của nền kinh tế mà ở đó
chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình để thu lợi nhuận. Cịn
khu vực kinh doanh là là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách
hàng, hoặc danh tiếng.
Ví dụ: Tên thương mại: Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu, Công ty TNHH sữa
Mộc Châu… Ta thấy, Công ty CP hay Cơng ty TNHH là mơ tả loại hình tổ chức, “bánh
kẹo”, “sữa” – là chỉ lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; “Hải Châu” hay “Mộc Châu” sẽ là
tên riêng, tên để phân biệt chủ thể kinh doanh.
II. Sự giống và khác nhau giữa nhãn hiệu và tên thương mại:
1. Sự giống nhau:
-
Thứ nhất, nhãn hiệu và tên thương mại đều là đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp, đều thuộc nhóm chỉ dẫn thương mại có chức năng phân biệt nguồn gốc
hàng hóa, dịch vụ. Thường được gắn trên hàng hóa, bao bì, biển hiệu, giấy tờ
giao dịch…
-
Thứ hai, nhãn hiệu và tên thương mại đều phải là những dấu hiệu nhìn thấy
được.
-
Thứ ba, nhãn hiệu và tên thương mại đều phải có khả năng phân biệt, đều khơng
được trùng với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lí của người khác được
xác lập trước.
2. Sự khác nhau giữa nhãn hiệu và tên thương mại:
* Nhãn hiệu và tên thương mại nói chung đều là đối tượng của quyền sở hữu cơng
nghiệp, hay nói rộng hơn là quyền sở hữu trí tuệ. Sở hữu những đối tượng này tức là
4
nắm trong tay quyền về sở hữu trí tuệ. Tuy vậy, đối với mỗi đối tượng khác nhau, cách
thể hiện quyền cũng khác nhau, do đó cần thiết phân biệt hai đối tượng này để việc xác
lập và sử dụng quyền được hiệu quả nhất. Sự khác biệt của 2 đối tượng này ta có thể
nhận biết thơng qua các tiêu chí sau:
2.1.Chức năng:
Theo khái niệm nêu trên thì ta có thể thấy:
- Nhãn hiệu có chức năng dùng để phân biệt, hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau với nhau, ta có thể thấy, chức năng của nhãn hiệu gắn với hàng hóa,
dịch vụ.
- Cịn chức năng của tên thương mại là để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên
gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh; ta có
thể thấy, chức năng của tên thương mại gắn với chủ thể kinh doanh.
2.2. Dấu hiệu:
Khoản 1 Điều 72 Luật SHTT quy định:
“Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả
hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều
mầu sắc.”…
Theo khoản 1 Điều 78 Luật SHTT thì:
“Tên thương mại được coi là có khả năng phân biệt nếu đáp ứng các điều kiện
sau đây:
1. Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử
dụng.”…
Từ các quy định trên ta có thể thấy các dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu và
tên thương mại có sự khác nhau.
5
- Đối với nhãn hiệu, các dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu bao gồm chữ cái, từ
ngữ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp giữa hình và chữ. Với nhãn hiệu có
thể bảo hộ cách trình bày, mầu sắc, kiểu chữ…
- Cịn đối với tên thương mại dấu hiệu được sử dụng làm tên thương mại chỉ là từ
ngữ. Với tên thương mại chỉ bảo hộ cách gọi.
2.3. Căn cứ xác lập quyền:
Điểm a Khoản 3 Điều 6 Luật SHTT quy định:
“…nhãn hiệu…được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công
nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập
trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký”.
Điểm b Khoản 3 Điều 6 Luật SHTT quy định:
“Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử
dụng hợp pháp tên thương mại đó”.
Về căn cứ xác lập quyền ta có chỉ ra sự khác biệt giữa nhãn hiệu và tên thương
thương mại từ các quy định trên như sau:
- Căn cứ xác lập quyền đối với nhãn hiệu: Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu có thể
được xác lập thơng qua hai cơ chế là đăng ký với cơ quan có thẩm quyền hoặc tự động
xác lập khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Hiện nay, cơ chế tự động chỉ được áp
dụng đối với nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Các nhãn hiệu nổi tiếng thường là các nhãn hiệu đã tồn tại
lâu đời, được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia và được nhiều người biết đến. Chủ
sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng không cần phải tiến hành đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu
của mình.
Đối với các nhãn hiệu thơng thường, quyền sở hữu chỉ được xác lập khi tiến hành
đăng ký nhãn hiệu với cục SHTT. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu sẽ được
6
xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo thủ tục đăng ký. Các quy định pháp luật hiện nay về bảo hộ nhãn hiệu áp
dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên, để chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu của người đăng ký
trước dựa vào ngày nộp đơn. Hay nói cách khác, trong trường hợp có nhiều người nộp
đơn khác nhau cùng đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn,
người đăng ký trước sẽ được xem xét cấp văn bằng bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ điều
kiện quy định của pháp luật.
Ngoài ra, do Việt Nam là thành viên của Thỏa ước Madrid, pháp luật SHTT Việt
Nam cũng áp dụng nguyên tắc quyền ưu tiên. Theo đó, nếu một người đã nộp đơn hợp
lệ lần đầu tiên tại một quốc gia thành viên khác của Thỏa ước Madrid về đăng ký nhãn
hiệu Quốc tế có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu đó tại Việt Nam và đơn nộp sau
đó được coi như nộp cùng ngày với đơn đầu tiên. Nguyên tắc này cũng được áp dụng
trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam muốn đăng ký nhãn hiệu tại một quốc gia
khác là thành viên của Nghị định thư Madrid.
- Cũng do tên thương mại thường là thành phần tên riêng của tên doanh nghiệp
hoặc được sử dụng thường xuyên trong hoạt động kinh doanh của mỗi chủ thể kinh
doanh, nên quyền sở hữu tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp
pháp tên thương mại đó tương ứng với khu vực và lãnh thổ kinh doanh, mà không cần
thực hiện thủ tục đăng ký tên thương mại đó tại Cục Sở hữu trí tuệ. Cho nên, căn cứ
xác lập quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên
thương mại đó. Điều này hồn tồn khác với việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với
nhãn hiệu (như đã nói ở trên) - đối tượng này cần phải đăng ký mới được bảo hộ.
Vậy, như thế nào là sử dụng hợp pháp tên thương mại? Ở đây, sử dụng hợp pháp
chính là tên thương mại đó phải đáp ứng các điều kiện bảo hộ quy định tại Điều 76,
Điều 78 Luật SHTT: đó là nó phải có khả năng phân biệt ( tên thương mại phải chứa
thành phần tên riêng, trừ TH nó được biết đến rộng rãi do sử dụng; tên thương mại phải
không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác
đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh và không trùng hoặc
7
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý
đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng).
Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo quy định của pháp luật
Việt Nam được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó mà khơng phụ
thuộc vào bất kỳ thủ tục đăng ký nào. Việc đăng ký tên chủ thể kinh doanh theo quy
định của pháp luật về thủ tục đăng ký kinh doanh, thủ tục đăng ký hoạt động của doanh
nghiệp và của các chủ thể kinh doanh khác chỉ có ý nghĩa ghi nhận ý định sử dụng tên
gọi của chủ thể đó mà khơng có ý nghĩa xác lập quyền. Tên thương mại là tên gọi của
tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh, vì vậy, phải có sự tồn tại của tổ
chức, cá nhân mang tên thương mại thì việc sử dụng tên thương mại mới có ý nghĩa về
mặt pháp lý. Tuy nhiên, việc có được giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh không phải
là cơ sở pháp lý tuyệt đối để cho rằng quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
đã được xác lập. Để được xác lập, tên thương mại còn phải được sử dụng thông qua các
hoạt động kinh doanh. Chủ sở hữu quyền đối với tên thương mại là tổ chức, cá nhân
tiến hành hoạt động đăng ký kinh doanh dưới tên thương mại đó. Trường hợp trong
cùng một lĩnh vực kinh doanh và trên cùng một địa bàn kinh doanh có nhiều người
cùng sử dụng một tên thương mại thì quyền đối với tên thương mại thuộc về người sử
dụng đầu tiên.3
Về mặt nguyên tắc, quyền đối với tên thương mại mang tính khơng hạn chế về
mặt thời gian. Điều đó có nghĩa là, sau khi đã xác lập quyền đối với tên thương mại,
chủ thể kinh doanh có thể sử dụng nó mà khơng bị bất cứ một hạn chế nào về mặt thời
gian, khi mà chủ thể kinh doanh còn tồn tại và tên thương mại cịn thể hiện đúng hình
thái tổ chức của chủ thể đó. Nếu địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh thay đổi, ví dụ
như do kết quả của việc tổ chức lại doanh nghiệp hay thay đổi chủ doanh nghiệp, thì
những thay đổi đó cần được đưa vào tên thương mại, đương nhiên quyền đối với tên
thương mại sẽ chấm dứt khi chủ thể kinh doanh chấm dứt sự tồn tại của mình.
2.4. Điều kiện bảo hộ:
3
/>
8
- Theo pháp luật SHTT Việt Nam, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều
kiện: là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả
hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu
sắc; có khả năng phân biệt hàng hố, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hố,
dịch vụ của chủ thể khác; khơng thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 73 và
Điều 74 Luật SHTT. Như vậy, bất kỳ dấu hiệu nào nếu thỏa mãn các điều kiện nêu trên
đều có thể được pháp luật bảo hộ dưới danh nghĩa là nhãn hiệu.
- Tên thương mại phải có tính phân biệt, vì khơng phải bất kỳ tên thương mại nào
cũng được pháp luật bảo hộ, để được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ, nhìn chung,
tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên đó với chủ thể
kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Sự phân biệt này cần thiết
được đặt ra trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh doanh với các yếu tố phân biệt
chủ yếu như: Phân biệt về hàng hóa, dịch vụ, hoạt động, cơ sở kinh doanh. Thơng qua
những yếu tố này, để cá thể hố chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác.
Điều này cũng có thể được hiểu là nếu tên thương mại của hai chủ thể kinh doanh trùng
nhau hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn nhưng hai chủ thể kinh doanh trong hai lĩnh
vực khác nhau, thuộc hai lãnh thổ khác nhau, thì vẫn được chấp nhận bảo hộ. Cùng lĩnh
vực và khu vực kinh doanh là hai điều kiện song song đi đôi với nhau, nếu thiếu một
trong hai yếu tố đó, thì tên thương mại sẽ không được bảo hộ. Chẳng hạn như, hai tên
thương mại trùng nhau nhưng hai chủ thể kinh doanh lại không hoạt động trên một khu
vực địa lý, tuy rằng họ kinh doanh trong cùng một lĩnh vực hoặc hai chủ thể kinh doanh
ở trên cùng một khu vực địa lý nhưng lại không kinh doanh trên cùng một lĩnh vực
cũng không được pháp luật chấp nhận bảo hộ.
Dấu hiệu phân biệt của tên thương mại được thể hiện cụ thể như sau:
+ Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi: Nếu tên
thương mại chỉ có phần mơ tả thì khơng được bảo hộ, bởi lẽ phần mơ tả khơng có khả
năng tạo nên tính phân biệt cho tên thương mại (hai doanh nghiệp có tên thương mại
khác nhau có thể có phần mơ tả giống nhau), vì vậy, tên thương mại bắt buộc phải chứa
thành phần tên riêng để tạo ra sự phân biệt giữa các chủ thể kinh doanh.
9
+ Tên thương mại không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên
thương mại mà người khác đã sử dụng từ trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh
doanh. Tên trùng là trường hợp tên của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được viết và đọc
bằng tiếng Việt hoàn toàn giống với tên của doanh nghiệp đã đăng ký.
Tên gây nhầm lẫn với tên của các doanh nghiệp khác là: Tên bằng tiếng Việt của
doanh nghiệp yêu cầu đăng ký được đọc giống như tên doanh nghiệp đã đăng ký; tên
bằng tiếng Việt của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên doanh nghiệp đã đăng
ký bởi ký hiệu “&”; ký hiệu “-”; chữ “và”; tên viết tắt của doanh nghiệp yêu cầu đăng
ký trùng với tên viết tắt của doanh nghiệp khác đã đăng ký; tên bằng tiếng nước ngoài
của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký trùng với tên bằng tiếng nước ngoài của doanh
nghiệp khác đã đăng ký; tên riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng
của doanh nghiệp đã đăng ký bởi một hoặc một số số tự nhiên, số thứ tự hoặc một số
chữ cái tiếng Việt (A, B, C…) ngay sau tên riêng của doanh nghiệp đó, trừ trường hợp
doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng ký; tên
riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký khác với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng
ký bởi từ “tân” ngay trước, hoặc “mới” ngay sau tên của doanh nghiệp đã đăng ký; tên
riêng của doanh nghiệp yêu cầu đăng ký chỉ khác tên riêng của doanh nghiệp đã đăng
ký bởi các từ “miền Bắc”, “miền Nam”, “miền Trung”, “miền Tây”, “miền Đơng” hoặc
các từ có ý nghĩa tương tự; trừ trường hợp doanh nghiệp yêu cầu đăng ký là doanh
nghiệp con của doanh nghiệp đã đăng ký; tên riêng của doanh nghiệp trùng với tên
riêng của doanh nghiệp đã đăng ký.
+ Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác
hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng.
Tên thương mại và nhãn hiệu đều có chức năng chỉ dẫn cho người tiêu dùng về hàng
hố, dịch vụ đó của cơ sở sản xuất kinh doanh nào, đều đưa ra một kết quả chung rằng
ai là người chịu trách nhiệm về những hàng hóa, dịch vụ đó, bởi vậy, nếu đã có nhãn
hiệu thuộc quyền của người khác đã được xác lập trước thời điểm tên thương mại được
bắt đầu thì đương nhiên chủ thể kinh doanh sẽ không được sử dụng tên thương mại đó
nữa.
10
Như vậy, có thể thấy, cả nhãn hiệu và tên thương mại nếu muốn được bảo hộ thì
phải khả năng phân biệt. Tuy nhiên khả năng phân biệt của nhãn hiệu và tên thương
mại lại có sự khác nhau. Tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh
doanh mang tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh
doanh. Ta có thể thấy, điều kiện bảo hộ này của tên thương mại đơn giản hơn so với
nhãn hiệu: vì theo quy định của pháp luật, một nhãn hiệu muốn được bảo hộ cịn phải
đáp ứng cả điều kiện: Phải khơng trùng và không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với
các hàng hố, dịch vụ khơng trùng và tương tự nếu các nhãn hiệu đó được cơng nhận là
nổi tiếng hay được thừa nhận rộng rãi, được nhiều người biết đến.
2.5. Phạm vi bảo hộ:
Căn cứ Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ thì ta có thể nhận thấy rằng nhãn hiệu được
bảo hộ trên phạm vi toàn quốc.
Căn cứ vào Điều 78 Luật Sở hữu trí tuệ thì tên thương mại được bảo hộ trong
phạm vi lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Điều này cũng có thể được hiểu là nếu tên
thương mại của hai chủ thể kinh doanh trùng nhau hoặc tương tự đến mức gây nhầm
lẫn nhưng hai chủ thể kinh doanh trong hai lĩnh vực khác nhau, thuộc hai lãnh thổ khác
nhau thì vẫn được chấp nhận bảo hộ.
2.6. Thời hạn bảo hộ:
Khoản 6 Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ quy định:
“Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm
kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.”
Vì việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là dựa trên cơ đăng
ký và cấp văn bằng bảo hộ. Như vậy thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu là thời hạn có
hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tức là 10 năm. Thời hạn này có thể
gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm.
Còn đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng thực tế hợp pháp, nên
thời hạn bảo hộ đối với tên thương mại không được xác định. Tức khi nào chủ thể sản
11
xuất kinh doanh vẫn còn sử dụng hợp pháp tên thương mại thì tên thương mại đó vẫn sẽ
được bảo hộ. Chỉ khi nào chủ thể kinh doanh không sử dụng tên thương mại đó nữa thì
mới chấm dứt việc bảo hộ.
2.7. Chuyển giao quyền:
Việc chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu và tên thương mại được quy định tại
Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ như sau:
“1. Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chỉ được chuyển nhượng quyền của mình
trong phạm vi được bảo hộ.
…
3. Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng
toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
4. Việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc
tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
5. Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các
điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó.”
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu và tên thương mại được quy định
tại Điều 142 Luật sở hữu trí tuệ như sau:
“1. Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, tên thương mại không được chuyển giao.
2. Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.
3. Bên được chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ
trường hợp được bên chuyển quyền cho phép.
4. Bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hóa,
bao bì hàng hóa về việc hàng hóa đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.
12
5. Bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền có nghĩa vụ sử
dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của Luật
này.”
Từ hai quy định nêu trên ta có thể chỉ ra sự khác biệt và trong việc chuyển giao
nhãn hiệu và tên thương mại như sau:
- Thứ nhất, về việc chuyển nhượng quyền sở hữu:
Việc chuyển nhượng quyền sở hữu đối với nhãn hiệu không phải chuyển nhượng
toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên nhãn hiệu đó.
Cịn việc chuyển nhượng quyền sở hữu tên thương mại thì chỉ được chuyển
nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh
doanh dưới tên thương mại đó.
-
Thứ hai, về việc chuyển nhượng quyền sử dụng:
Đối với tên thương mại sẽ không được chuyển quyền sử dụng, cịn nhãn hiệu thì
được chuyển quyền sử dụng.
2.8. Số lượng:
Với nhãn hiệu, một chủ thể kinh doanh có thể đăng ký sở hữu nhiều nhãn hiệu.
Còn đối với tên thương mại, một chủ thể sản xuất kinh doanh chỉ có thể có một
tên thương mại.
KẾT LUẬN
Việc so sánh nhãn hiệu với tên thương mại với nhau là điều cực kỳ quan trọng bởi
vì có thể cùng một dấu hiệu nhưng do cách mà nó được sử dụng thì nó có thể được gọi
nhãn hiệu hay tên thương mại. Việc so sánh này giúp ta nhận diện được đâu là nhãn
hiệu và đâu là tên thương mại, từ đó để áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối
với chúng.
13
Câu 2: Giải quyết tình huống.
Cơ sở Thái Hưng khơng thể đăng ký sáng chế đối với sản phẩm bút bi đặc biệt
này. Vì:
Theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật sở
hữu trí tuệ 2005 thì:
“Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải
quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.”
Sáng chế được bảo hộ trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký sáng chế. Để được cấp Bằng độc quyền sáng
chế, sáng chế phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 58 Luật SHTT, đó là:
“1. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng
các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng cơng nghiệp.
2. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu
khơng phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng công nghiệp.”
Sau đây ta sẽ đi xem xét từng điều kiện để được bảo hộ là sáng chế, cụ thể:
Có tính mới:
Tính mới của sáng chế được quy định tại Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ như sau:
“1. Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ cơng khai dưới hình thức sử
dụng, mơ tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước
14
ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp
đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
2. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ cơng khai nếu chỉ có một số người có hạn được
biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
3. Sáng chế khơng bị coi là mất tính mới nếu được cơng bố trong các trường hợp sau
đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày
công bố:
a) Sáng chế bị người khác công bố nhưng khơng được phép của người có quyền đăng
ký quy định tại Điều 86 của Luật này;
b) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này công bố
dưới dạng báo cáo khoa học;
c) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này trưng bày
tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức
hoặc được thừa nhận là chính thức.”
Từ quy định của pháp luật, ta có thể thấy, một sáng chế được coi là có tính mới
khi: chưa được bộc lộ công khai và không trùng với bất kì một giải pháp nào trước đó.
Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết
và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó. Những người được biết về sáng chế đó có thể
là những người cùng tham gia vào quá trình tạo ra sáng chế hoặc những người cung cấp
nguyên liệu, vật liệu để tạo ra nó hay những người đầu tư. Thời điểm để xác định một
sáng chế bị bộc lộ công khai hay chưa là ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước
ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên. Hình
thức bộc lộ cơng khai có thể là sáng chế sáng chế đã được sử dụng, mơ tả bằng ấn phẩm
tư liệu...và các hình thức thể hiện khác. Hơn nữa, để xác định một sáng chế có tính mới
hay khơng thì cần có sự so sánh, đối chiếu với các đối chứng cụ thể. Các đối chứng này
không chỉ giới hạn trong phạm vi những đăng kí sáng chế, văn bằng bảo hộ trong nước
và nước ngồi mà cịn phải tra cứu ở cả những cơng trình khoa học, tài liệu nghiên cứu
15
thuộc lĩnh vực. Tính mới của sáng chế mang tính chất tuyệt đối, tức là sáng chế phải
mới so với tồn thế giới chứ khơng phải chỉ ở riêng Việt Nam.
Đối chiếu trong tình huống nêu tại đề bài thì công ty Thành Hưng đăng sản xuất
và bán sản phẩm bút bi của mình ra thị trường một năm, sau một năm bán sản phẩm ra
thị trường, thấy sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng, cơ sở Thái Hưng mới nảy
sinh ý định đăng ký sáng chế. Như vậy sản phẩm bút bi đặc biệt của Thái Hưng đã bị
bộc lộ cơng khai dưới hình thức sử dụng, mọi người tiêu dùng đã biết đến và sử dụng
nó (1 năm bán sản phẩm ra thị trường và được người tiêu dùng ưa chuộng); đồng thời,
cũng không thuộc trường hợp ngoại lệ quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật sở hữu trí tuệ.
Vì vậy tính mới của chiếc bút bi này đã khơng cịn.
Có trình độ sáng tạo:
Điều 61 Luật sở hữu trí tuệ quy định về trình độ sáng tạo của sáng chế như sau:
“Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật
đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mơ tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ
hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước
ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được
hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một
cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.”
Như vậy, tính sáng tạo có thể được hiểu là kết quả của một ý tưởng (có thể bắt
nguồn từ những sáng chế khác), nhưng không nảy sinh một cách hiển nhiên từ trình độ
kỹ thuật hiện tại đối với một người có kỹ năng thơng thường (trình độ trung bình) trong
lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Những gì mà một người có trình độ trung bình ở cùng
ngành kỹ thuật tương ứng có thể tự tìm ra được mà khơng cần phải có bản mơ tả sáng
chế của người yêu cầu nộp đơn được coi như "hiển nhiên". Sau nữa, đây phải là một sự
sáng tạo có trình độ, nghĩa là phải có sự khác biệt cơ bản giữa trình độ kỹ thuật vào
ngày ưu tiên và sáng chế được yêu cầu bảo hộ. Việc đánh giá trình độ sáng tạo của giải
pháp kỹ thuật được đưa ra tại Mục 25.6 Thơng tư 01/2007/TT-BKHCN, cụ thể trình độ
16
sáng tạo của giải pháp kỹ thuật được nêu trong đơn được thực hiện bằng cách đánh giá
dấu hiệu (các dấu hiệu) cơ bản khác biệt nêu trong phạm vi (yêu cầu) bảo hộ để đưa ra
kết luận: Dấu hiệu (các dấu hiệu) cơ bản khác biệt có bị coi là đã được bộc lộ trong
nguồn thông tin tối thiểu bắt buộc hay không? Tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt
có bị coi là có tính hiển nhiên đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật
tương ứng hay không? Ứng với một điểm thuộc phạm vi (yêu cầu) bảo hộ, giải pháp kỹ
thuật được coi là có trình độ sáng tạo nếu việc đưa dấu hiệu cơ bản khác biệt vào tập
hợp các dấu hiệu cơ bản của giải pháp kỹ thuật là kết quả của hoạt động sáng tạo và
không phải là kết quả hiển nhiên của hiểu biết thông thường trong lĩnh vực kỹ thuật
tương ứng.
Trong tình huống mà đề bài đưa ra thì Cơng ty Thành Hưng chế tạo và sản xuất ra
loại bút bi đặc biệt khiến bi trơn hơn và ra mực đều hơn. Điểm mấu chốt của chiếc bút
bi này là tạo ra khoảng trống giữa viên bi và đầu bút bi – áp dụng nguyên tắc phổ biến
trong ngành sản xuất bút bi là thơng khí hai đầu của một chất lỏng (mực) để mực chảy
đều hơn. Việc áp dụng nguyên tắc phổ biến trong ngành sản xuất bút bi là thơng khí hai
đầu của một chất lỏng (mực) để mực chảy đều hơn không bộc lộ được đặc điểm nổi trội
hơn so với các giải pháp kỹ thuật đã được bộ lộ công khai trước đó. Vì thế, sản phẩm
này khơng có tính sáng tạo.
Có khả năng áp dụng cơng nghiệp:
Điều 62 quy định về khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế như sau:
“Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng cơng nghiệp nếu có thể thực hiện
được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là
nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.”
Khả năng áp dụng công nghiệp là một thuật ngữ được sử dụng nhằm để chỉ khả
năng chế tạo, sản xuất hoặc khả năng thực hiện hay sử dụng trong thực tiễn của sáng
chế”. Một sáng chế được coi là có khả năng áp dụng cơng nghiệp nếu có thể được sử
17
dụng, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của
sáng chế với quy mô kỹ thuật nhất định và thu được kết quả ổn định. Khi một sáng chế
có thể sản xuất hàng loạt phù hợp với nhu cầu thực tiễn, được ứng dụng trong thực tế,
có tính năng, tác dụng nhất định cho xã hội thì được bảo hộ trong một thời gian nhất
định và trong quy mô kỹ thuật tại thời điểm ấy có thể sản xuất được như thế mới được
coi là có khả năng áp dụng cơng nghiệp. Hết thời hạn bảo hộ đó, thì được ứng dụng, sử
dụng, sản xuất trong thực tế, phù hợp với lợi ích của xã hội. Do đó, những sáng chế,
giải pháp kỹ thuật đi ngược lại với quy luật tự nhiên như động cơ vĩnh cửu hoặc giải
pháp chống lại hiện tương thủng tầng ozon bằng cách chế tạo một lớp màng ngăn bằng
chất dẻo bao trùm toàn bộ trên bầu khí quyển trái đất…sẽ khơng được bảo hộ vì khơng
có khả năng thực hiện trên thực tiễn.
Trong tình huống sản phẩm bút bi đặc biệt của cơ sở Thái Hưng được chế tạo,
sản xuất hàng loạt sản phẩm và áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của nguyên
tắc phổ biến trong ngành sản xuất bút bi là thơng khí hai đầu của một chất lỏng (mực)
để mực chảy đều hơn và thu được kết quả ổn định.
Như vậy, từ những phân tích ở trên ta có thể thấy sản phẩm bút bi đặc biệt của cơ
sở Thái Hưng không đáp ứng được các quy định của pháp luật để được bảo hộ sáng chế
dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế hay dưới hình thức cấp Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích; mặc dù nó có khả năng áp dụng cơng nghiệp nhưng nó lại khơng có
tính mới và tính sang tạo. Cho nên, cơ sở Thái Hưng không thể đăng ký sáng chế đối
với sản phẩm bút bi đặc biệt của mình.
Trên đây là toàn bộ bài tiểu luận của em về đề tài đã chọn. Trong q trình làm bài
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cơ để
bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2013.
3. Lê Đình Nghị, Vũ Thị Hải Yến (chủ biên), Giáo trình luật Sở hữu trí tuệ, Nxb.
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
4. Một số nguồn tin từ Internet:
/> /> />
MỤC LỤC
19
ĐỀ BÀI: SỐ 6........................................................................................................... 1
Câu 1: So sánh nhãn hiệu và tên thương mại?.......................................................2
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 2
NỘI DUNG............................................................................................................... 2
I. Một số vấn đề lý luận về nhãn hiệu và tên thương mại...............................2
1. Khái niệm nhãn hiệu....................................................................................2
2. Khái niệm tên thương mại...........................................................................3
II.
Sự giống và khác nhau giữa nhãn hiệu và tên thương mại......................4
1. Sự giống nhau..............................................................................................4
2. Sự khác nhau giữa nhãn hiệu và tên thương mại.....................................4
2.1. Chức năng..............................................................................................5
2.2. Dấu hiệu.................................................................................................5
2.3. Căn cứ xác lập quyền............................................................................6
2.4. Điều kiện bảo hộ....................................................................................8
2.5. Phạm vi bảo hộ....................................................................................11
2.6. Thời hạn bảo hộ...................................................................................11
2.7. Chuyển giao.........................................................................................12
2.8. Số lượng...............................................................................................13
KẾT LUẬN............................................................................................................. 14
Câu 2: Giải quyết tình huống.................................................................................15
20