Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

MỘT CHIẾC ĐĨA SỨ LẠ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.81 KB, 9 trang )






MỘT CHIẾC ĐĨA SỨ LẠ



Gốm sứ Việt Nam từng nổi tiếng trong lịch sử nhất là thời kỳ Lý - Trần, Lê Sơ và
Mạc. Qua những cuộc khảo sát, tiếp cận nghiên cứu các hiện vật tại bộ sưu tập
gốm sứ của linh mục Nguyễn Hữu Triết ở nhà thờ Tân Sa Châu số 387 Lê Văn Sĩ,
P.2, Q. Tân Bình-TP HCM, chúng tôi nhận ra sự đa dạng của các loại gốm cổ qua
nhiều thế kỷ đã được linh mục tìm kiếm, chọn lọc và phân loại. Đây là một chiếc
đĩa miệng loe tròn đều khá lớn, là loại đĩa hiếm bởi kích thước đường kính lên tới
48cm, cân nặng: 5kg, có độ dày lớn, độ cao đạt 10cm.
Đĩa được làm bằng đất sét cao lanh có màu trắng xám nhạt, tráng men với nhiều
sắc độ khác nhau. Màu sắc gồm màu xanh lá cây ở các họa tiết như ở mây và sử
dụng mảng. Nét được xen kẽ với mảng mây xanh là những nét màu nâu uyển
chuyển, men vàng nâu và hoa văn khắc chìm nên rất gần với gốm thời Trần. Tuyệt
đại đa số các đồ gốm ở Chu Đậu được làm bằng đất sét cao lanh có màu trắng nhạt
và tráng men với nhiều sắc độ khác nhau như trắng, trắng xanh ngọc, xanh lam,
vàng da cam, nâu, nâu sẫm và men gốm có khi tương đối trong, có khi đục và rạn.
Có thứ gốm được tráng một loại men, cũng có một số tráng 2 loại men khác nhau,
và có cả men tam thái: trắng, tím, xanh. Một số nhà khảo cổ học cho rằng phong
cách và kỹ thuật chế tác đĩa gốm này là loại gốm Chu Đậu - một xã nhỏ thuộc
huyện Thanh Lâm; thế kỷ thứ 16, thuộc tổng Thượng Triệt, Huyện Thanh Lâm.
Huyện Thanh Lâm thời Lê Sơ thuộc Nam Sách châu, Đông Đạo; thời Diên Ninh
(1454-1459) thuộc Nam Sách lộ; năm Quang Thuận thứ 7 (1466) thuộc Nam Sách
thừa tuyên, năm thứ 10 (1469) thuộc phủ Nam Sách và huyện Thanh Hà hợp nhất
thành huyện Nam Thanh. Chu Đậu hiện nay là một thôn của xã Thái Tân, Huyện


Nam Thanh, diện tích 59,3 ha, dân số khoảng 1150 người. Nguồn sống chính là
nông nghiệp và nghề dệt chiếu cổ truyền. Chu Đậu ở tả ngạn sông Thái Bình, giáp
làng Đặng Xá (nay là Mỹ Xá) ở phía Tây. Sông Kè Đá là sông nhỏ chảy qua phía
bắc Chu Đậu, qua Mỹ Xá, qua sông Thái Bình là sông lớn thứ hai sau sông Hồng ở
miền Bắc, thượng lưu nối với năm con sông, hạ lưu có nhiều chi nhánh đổ ra biển.
Đĩa được trang trí cả hai mặt trong và ngoài
1.Mặt trong của đĩa:
Được chia làm bốn vòng trang trí chính, mỗi vòng là một khu biệt có tính năng kỹ
thuật và hình thức trang trí riêng. Vòng thứ nhất ở trung tâm đĩa có đường kính 27
cm với hoạ tiết chính là hình lân với kiểu thức Lân ẩn vân, theo điển tích Lân hiện
hình và gặp gỡ mây hồng báo hiệu điềm lành, triều đại thái bình, minh chúa xuất
hiện. Lân là con vật huyền thoại, nó được xem là biểu tượng từ rất nhiều con vật
dũng mãnh tạo nên. Hình tượng Lân đã thể hiện biểu tượng mang tinh thần tâm
linh và phong cách Nho giáo. Với cách vẽ tay trực tiếp, đường nét cách điệu Lân
uyển chuyển lẫn vào mây nhẹ nhàng thanh thoát, lối vẩy bút tả móng chân, thân
mình và đầu tạo ra hình tượng Lân sinh động, vờn và ẩn hiện trong mây. Phương
pháp tạo hình linh hoạt, sáng tạo, mảng, nét đan xen chắc khỏe, thể hiện những
phẩm chất tượng trưng tâm linh của linh vật. Nghệ nhân sử dụng các mảng màu
xanh lục, vàng của những mảng mây cùng với nét nâu tạo ra một hoà sắc độc đáo,
nhẹ nhàng và tinh tế. Điểm độc đáo là cách tả chất bằng cách khắc chìm những
chấm tròn có khoảng cách tương đối bằng nhau khắp mình Lân. Tạo cho Lân rất
thật, nhưng cũng rất lạ, có lẽ đây cũng là phong cách thể hiện của gốm Chu Đậu.
Cách tạo hình Lân mang đậm tính tâm linh, chúc tụng, ảnh hưởng tinh thần Nho
giáo sâu đậm.
Vòng thứ hai của đĩa là bộ phận trung gian nối lòng đĩa với độ cao của đĩa, có độ
dài 5 cm. Hoạ tiết chủ yếu là hoa lá cách điệu toả ra thành bốn phía. Mỗi nhóm
gồm hai nhóm lá, hoa tranh, hoa thị cách điệu, đối nhau màu xanh lục và màu vàng
nâu sáng. Khoảng trống của những nhóm hoạ tiết này được xen kẽ bằng những
hình thoi hơi uốn cong của cạnh, nên hình thoi mềm hơn và tạo được độ vững chắc
cho hoạ tiết. Về màu sắc vẫn đi theo tông màu chủ đạo của cả đĩa: xanh lục, vàng

sáng, nâu. Vẫn theo lối vẽ tay vì vậy có nhiều chỗ bị nhoè có lẽ do thời gian, có khi
do nét cọ của người tạo tác phẩm càng tạo thêm sự sinh động cho tác phẩm.
Vòng thứ ba nằm trên độ cao cong lên của đĩa. Độ vút cong cao 12 cm. Vòng này
với cách trang trí với hoạ tiết hoa, quả bốn mùa cây trái trong đời sống thực hàng
ngày rất gần gũi con người dân lao động, gắn bó với đồng quê, thể hiện cho sự
phồn vinh, nông nghiệp được mùa, có hình dáng giống hoa quả ngày tết, như: quả
được vẽ to tròn, căng, cách vẽ khá đơn giản, bởi những hình tròn lớn, nhỏ. Người
thợ xưa dùng bút mềm vẽ theo cách vẽ chấm phá, một lối thể hiện khá độc đáo của
gốm Chu Đậu. Cách khác lại thể hiện nhóm thân mềm, như hoa cỏ. Loại này có ba
nhóm, và hai nhóm hoạ tiết giống hoa ngày tết. Tất cả là năm nhóm phân bổ dàn
trải đều, do kỹ thuật vẽ tay nên độ phân bổ khoảng cách chỉ tương đối đều, và một
số hoạ tiết bị mất nét, mờ, đậm không đều, khoảng cách của năm nhóm này được
xen kẽ bởi chính nhóm họa tiết chia đôi, thu nhỏ, lật ngược tạo ra hoạ tiết trang trí,
nhưng lại sử dụng lối bố cục đăng đối khéo léo được nằm trong khánh hay khánh
chia đôi. ở giữa lại được xen giữa bởi mây đưa từ lòng đĩa kéo ra ngoài. Cùng với
hoa văn sóng nước. Đây là loại hoa văn khá phổ biến trong thời kỳ Hậu Lê. Sóng
nước tại đĩa này được đưa vào rất khéo léo, xen lẫn mây trời, khánh, cây cỏ.
Vòng thứ tư được gọi vành chung của đĩa, có độ dày 7mm khi quan sát thấy được
để trơn, êm, viền sát là 1cm và cũng là nơi để người nghệ nhân tạo thành những
tiết điệu hoa văn trang trí đường viền. ở đĩa lớn Chu Đậu này người thợ vẽ gốm đã
sử dụng các loại hình kỷ hà, hoạ tiết hình thoi tiếp tuyến có nút thắt. Và có một số
mảng mây nhỏ xen kẽ được đưa từ trung tâm của đĩa kéo ra hòa chung vào bố cục
của ba vòng trên.
Nhìn tổng thể mặt trong của đĩa này ta thấy phong cách độc đáo và thể hiện hợp lý.
Đây là một loại hình mang bố cục rất chặt chẽ đến chi tiết, từ mảng chính (vòng
thứ nhất-tâm đĩa) đến vòng thứ ba, là mô tuýp trang trí Lân, mây, hoa, cỏ, cây trái,
đến nước, thể hiện được cả tinh thần vũ trụ hoà quyện vào cuộc sống, thể hiện
được triết lý sống của người phương Đông.
2. Mặt ngoài của đĩa (lưng đĩa):
Mặt ngoài của đĩa được trang trí đơn giản hơn. Hoạ tiết là những đường lượn tạo

thành nhóm cánh sen tương đồng với bố cục cánh sen ở những bệ đá thời Lý,
nhưng lối tạo hình ở đây chắc khoẻ, hơi vuông cân đối càng làm cho ta phong cách
này gần với thời Trần hơn. Bên trong cánh sen là những hoạ tiết của mây trời trong
tâm đĩa mặt trong, kéo ra theo lối dùng nét cong, xoắn với lối phối màu như trong
lòng đĩa với gam xanh lục, vàng, nâu nhẹ nhàng. Khi đặt úp chiếc đĩa lớn này ta đo
độ lớn của đáy là 35cm được bôi son nâu đỏ lên đất sét và được đặt lên bàn xoay
do đó những mảng son nâu đỏ sau khi nung phân bổ không đều nhau. Nhưng dấu
hiệu bàn xoay thể hiện công nghệ làm gốm đạt kỹ thuật rất cao.
3. Kỹ thuật chế tác:
Đĩa lớn này cũng như những cổ vật gốm Chu Đậu phần lớn được chuốt trên bàn
xoay, trước khi trang trí hoa văn và tráng men. Những sản phẩm có hoa văn khắc
chìm vào xương gốm được thực hiện bằng khuôn trong và gia công khắc vạch sau
khi tạo dáng. Người thợ gốm phải dùng khuôn và các công cụ khắc vẽ hoa. Có loại
hoa văn đã được thực hiện bằng phương pháp in. Riêng ở đĩa lớn này theo cách
quan sát, tìm hiểu không có ve lòng (cạo men). Để đảm bảo tính mỹ thuật, người ta
đã ve miệng và chân khi xếp vào trong người ta đặt úp lên nhau từng đôi một để có
thể tráng men cho cả chân, trường hợp này trôn đĩa được quét son nâu rồi dùng con
kê, kê trong trôn đĩa không để chân tiếp xúc vào bao nung. Phương pháp xếp hiện
vật vào bao nung rất năng động và sáng tạo nhằm tận dụng không gian lò, góp
phần tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao. Cũng có khi hiện vật nhỏ được đặt
trong hiện vật lớn, nhiều sản phẩm khác nhau có thể đặt trong một bao nung, miễn
là khi họ đặt ở nơi nào đó mà không bị dính. Theo tôi để chế tác đĩa gốm lớn này
bao nung cũng phải làm riêng. Đó là loại bao nung thật lớn có đường kính lớn bao
trùm ra ngoài vành đĩa.
Qua việc mô tả hiện vật trên và cách chế tác trên hiện vật, trang trí mỹ thuật trên
đĩa thể hiện thành tựu độc đáo của mỹ thuật trang trí ứng dụng trên gốm. Theo linh
mục Nguyễn Hũu Triết, chiếc đĩa được vớt lên từ Cù Lao Chàm ở Hội An (Quảng
Nam), sau đó được ông sưu tập. Đối chiếu với sử học ta thấy gốm sứ Việt Nam nói
chung và gốm Chu Đậu nói riêng đã từng được xuất khẩu ra nước ngoài bằng
nhiều con đường, chủ yếu là đường sông lên Thăng Long. Và để xuất cảng, từ Chu

Đậu ngược sông Thái Bình xuôi theo sông Kinh Thầy ra cảng Vân Đồn, một cảng
lâu đời nhất của Việt Nam. Hoặc xuôi theo sông Thái Bình sang sông Luộc đến
Phố Hiến- một thương cảng lớn mang tính quốc tế. Có thể đi thẳng đến các nước
Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp v.v Sự kiện vớt được gốm Chu Đậu ở
Cù Lao Chàm càng khẳng định việc thông thương buôn bán gốm.
Tuy nhiên qua khảo tả chi tiết, chúng tôi nhận thấy đĩa đã được phục chế lại đôi
chút như: chấm phá lại nhưng hoạ tiết hoa thị, hoa tranh màu vàng bởi khi sờ, quan
sát hiện vật tôi thấy những mảng màu đã tróc ra theo năm tháng có màu vàng đất
úa, nhưng những nét phục chế lại có màu vàng rất tươi. Từ những phân tích trên
với các thuộc tính thẩm mỹ của loại hiện vật gốm Chu Đậu, cũng như thông qua
các đối chiếu với các dấu hiệu, kiểu dáng, hình mẫu của những cổ vật Chu Đậu đào
được từ năm 1986-1990, chúng tôi cho rằng đĩa cổ lớn này thuộc gốm Chu Đậu
khoảng thế kỷ XVI là loại đĩa Tam thái. Nhìn chung chúng rất gần với những tuyệt
tác gốm Chu Đậu được lưu giữ ở bảo tàng nước ngoài và trong nước như gốm sứ
Hoa Lam vẽ cúc dây cao 54 cm của nghệ nhân họ Bùi được ghi niên hiệu Thái Hoà
bát niên (1450), hiện đang được giữ tại bảo tàng Tokapi tại thủ đô Istabul- Thổ Nhĩ
Kỳ. Một số đĩa vẽ trang trí được lưu giữ trong bộ sưu tập của hoàng tử Bảo Long
được mang bán đấu giá tại Paris ngày 22-12/1995. Trong cuốn Art du Việtnam đã
có một số đĩa gốm Chu Đậu quý hiếm vẽ hoa Lan, Cúc dây, hoa sen rất giống với
những trang trí của chiếc đĩa này tại nhà thờ Tân Sa Châu-TP Hồ Chí Minh. Những
cổ vật gốm Chu Đậu tại bộ sưu tầm của Linh mục Nguyễn Hữu Triết mang một giá
trị lịch sử - văn hóa và nghệ thuật rất to lớn, việc giới thiệu một chiếc đĩa lớn lạ này
chỉ là một phần nhỏ những cổ vật đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật gốm sứ truyền
thống Việt Nam trong sưu tập này.


×