Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

File 494460 nvnn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.74 KB, 13 trang )

CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
I) chính sách tiền tệ:
1) khái niệm:
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mơ mà trong đó NHTW
sử dụng các cơng cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ
của nền kinh tế nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
Theo nghĩa rộng, CSTT là chính sách điều hành tồn bộ khối lượng tiền
tệ trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn lực
nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế trên cơ sở đó ổn
định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách đảm
bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng
với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị của
đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mơ.
a) chính sách mở rộng tiền tệ :
NHTW dùng các cộng cụ của chính sách tiền tệ để làm tăng cung tiền,
lãi suất giảm và đầu tư tăng. Vì vậy, NHTW thường dùng chính sách tiền tệ
mở rộng khi kinh tế suy thối.
b) chính sách thu hẹp tiền tệ :
NHTW giảm lưởng cung tiền, làm lãi suất tăng cịn đầu tư giảm. Vì
vậy, nên sử dụng chính sách tiền tệ thu hẹp khi kinh tế lạm phát.
2) Các cơng cụ thực hiện chính sách tiền tệ:
a) Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì
trên một tài khoản tiền gửi tại NHTW trong một thời kỳ nhất định. DTBB
được tính trên cơ sở tỷ lệ DTBB do NHTW quy định đối với từng loại tiền
gửi cấu thành nên nguồn vốn hoạt động của một ngân hàng. Tỷ lệ DTBB do
NHTW quy định và được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số
dư tiền gửi của khách hàng tại NHTM. Tỷ lệ DTBB được áp dụng có phân
1




biệt đối với các loại tiền gửi có thời hạn khác nhau, quy mơ và tính chất
hoạt động của NHTM.
DTBB tác động tới cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân
cung ứng tiền tệ. Tỷ lệ DTBB tăng lên sẽ làm giảm số tiền gửi được nâng
đỡ bởi một mức nhất định của cơ số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung
ứng tiền. Mặt khác, tỷ lệ DTBB giảm xuống sẽ dẫn đến một sự tăng lên của
cung ứng tiền tệ do việc tạo thêm tiền gửi gấp nhiều lần. Việc quy định tỷ
lệ DTBB do NHTW quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh
tế.
b) Chính sách chiết khấu
Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với các
NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm tăng
lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như
khai thơng được năng lực thanh tốn của họ.
Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi
suất chiết khấu và điều kiện cho vay của NHTW đối với các ngân hàng. NHTW
cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá của ngân hàng.
NHTW kiểm sốt cơng cụ này chủ yếu bằng cách tác động tới giá cả khoản vay
thông qua lãi suất chiết khấu căn cứ vào mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay nới
lỏng, từ đó tác động tới lượng tiền trong lưu thơng.
Sự thay đổi về lãi suất chiết khấu được xem là một dấu hiệu thông báo của
NHTW trong định hướng thực hiện CSTT. Các tuyên bố của NHTW về chiều
hướng biến động lãi suất chiết khấu (tăng lên hoặc giảm xuống) có tác dụng
hướng dẫn hành vi của thị trường theo định hướng CSTT.
c) Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán GTCG như tín
phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi ...
trên thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự

trữ trong hệ thống ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền cung ứng.
Do vậy, thị trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp
vụ của NHTW mà không làm cho giá cả biến động mạnh.
2


Ngiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng của NHTW.
Nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi
trong cơ số tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến động
trong cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những cửa ngõ quan trọng để
NHTW phát hành tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về
thông qua mua hay bán các các loại GTCG. Qua nghiệp vụ mua bán này
NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác động đến khả năng tín
dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay giảm lượng tiền cung
ứng.
d) Lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều
khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng
hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể
kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng
của NHTW trong thực hiện CSTT.
Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện
quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi
muốn điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của
mình, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng
sẽ tác động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngồi ra, NHTW
có thể quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy
định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên hình thức quản
lý trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ

chưa phát triển, và xu hướng chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
e) Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những cơng cụ can thiệp trực tiếp của
NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín
dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng của tổng phương tiện
thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà
NHTW buộc các ngân hàng phải tơn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
3


Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của
ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong giới hạn tổng dư nợ tín
dụng dự tính của tồn bộ nền kinh tế trong một thời gian xác định.
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó
khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của
nó mang tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng.
f) Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ, hay có thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền
khác. Tỷ giá vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ
cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đối là cơng cụ, là địn bẩy điều
tiết cung cầu ngoại tệ, có tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động nhạy bén
và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền
tệ, cán cân thanh tốn quốc tế, vốn đầu tư và dự trữ của quốc gia.
Về thực chất thì tỷ giá khơng phải là cơng cụ CSTT bởi lẽ tỷ giá không
làm tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thơng, mà chỉ góp phần thay đổi cơ
cấu khối lượng tiền. Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có
nền kinh tế đang phát triển, có mức độ đơla hố cao, thì tỷ giá được xem là
một công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành CSTT.

II) thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại giấy
tờ có giá, nơi gặp gỡ của các nguồn cung cầu về vốn, qua đó hình thành nên
giá mua và bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, … hình
thành nên giá cả các loại vốn đầu tư bao gồm : lãi suất đi vay, lãi suất cho
vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

4


CHƯƠNG II: TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I) Chính sách tiền tệ:
Trong gian đoạn hiện nay một trong những nguyên nhân làm giá cả
tăng cao là do trong nền kinh tế, tiền đã tăng nhiều hơn so với lượng hàng
hóa được tạo ra. Do đó NHNN, cơ quan có trách nhiệm chính trong việc điều
hành chính sách tiền tệ đã đã bắt tay vào việc kiềm chế lạm phát và coi đó là
một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong năm 2008. Hàng loạt biện
pháp nhằm rút bớt tiền ra khỏi lưu thông để giảm sức tăng của giá cả đã
được đưa ra. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành các giải pháp nhằm
kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh
tốn của các tổ chức tín dụng (TCTD).
Bước đi đầu tiên là, ngày 16/1/2008, NHNN ban hành Quyết định số
187/2008/QĐ-NHNN điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng, tăng
thêm 1% ở các loại tiền gửi được ban hành (trước đó, tháng 6/2007, NHNN
đã ban hành Quyết định 1141 để tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi). Nếu
so sánh với tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại Quyết định 1141/2007 thì mức tăng 1%
là khơng lớn. Tuy nhiên, nếu xem xét số tiền mà các TCTD phải hút từ lưu
thơng về thì khơng nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh thị trường tiền tệ và chứng
khoán đang trong thời điểm nhạy cảm như hiện nay. Rõ ràng, việc tăng dự

trữ bắt buộc (dù mức điều chỉnh nhỏ) sẽ tác động đến khả năng cho vay và
chi phí vốn của các TCTD.
Tiếp đến là Sau 3 năm giữ vững mức lãi suất cơ bản ở mức 8,25%/năm
(kể từ tháng 12/2005), ngày 30/1/2008, NHNN đã ban hành Quyết định
đồng loạt điều chỉnh tăng các mức lãi suất chủ đạo: lãi suất cơ bản; lãi suất
tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Luật NHNN có quy định: "Ngân hàng Nhà
nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn"; "Lãi suất
cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh". Tuy nhiên, trong nhiều năm qua,
lãi suất cơ bản do NHNN Việt Nam công bố tỏ ra vô hiệu đối với các
5


NHTM. Thực tế cho thấy, lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các
NHTM thường cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản mà NHNN công bố. Do
vậy, việc điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản lên 8,75%/năm như hiện nay thực
sự không tác động nhiều và ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường
tiền tệ.
Mặt khác, bên cạnh thay đổi lãi suất cơ bản thì động thái tăng lãi suất
tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu của NHNN cho thấy tín hiệu thắt chặt tiền
tệ, hạn chế cung tiền từ NHNN thông qua các công cụ tái cấp vốn. Tăng lãi
suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu sẽ làm tăng chi phí của các NHTM, từ
đó hạn chế khả năng vay vốn thông qua nghiệp vụ "cửa sổ chiết khấu".
Kết hợp với các cơng cụ chính sách tiền tệ gián tiếp và trực tiếp trong
thời gian qua, ngày 13/2/2008, NHNN đã ban hành Quyết định số 346/QĐNHNN về việc phát hành Tín phiếu NHNN bằng VND dưới hình thức bắt
buộc đối với các TCTD, theo đó tổng giá trị Tín phiếu NHNN phát hành bắt
buộc đợt này là 20.300 tỷ đồng (được phát hành dưới hình thức ghi sổ).
Động thái này cho thấy, NHNN đã triển khai mạnh mẽ các công cụ chính
sách tiền tệ nhằm hút lượng tiền lớn từ lưu thơng, kiểm sốt chặt chẽ mức
tăng CPI ngay từ đầu năm 2008. Điểm đáng nói trong Quyết định này là, các

TCTD bắt buộc phải mua Tín phiếu trong đợt phát hành của NHNN, ngồi
ra khơng được sử dụng Tín phiếu này để vay vốn NHNN thông qua nghiệp
vụ "cửa sổ chiết khấu". Do vậy, các TCTD phải chuẩn bị lượng tiền đồng
khơng nhỏ để mua Tín phiếu NHNN mà khơng thể quay vịng vốn từ số Tín
phiếu phải nắm giữ. Điều này sẽ gây khơng ít khó khăn cho các TCTD, do
phải hạn chế các khoản cho vay thông thường, tăng cường huy động vốn để
đáp ứng quy định của NHNN. Đặc biệt trong tình hình khan hiếm tiền đồng
như hiện nay, nhiều TCTD sẽ phải tính tốn và điều chỉnh các chỉ tiêu trong
năm 2008 về huy động và cho vay ngay, nếu không sẽ đối mặt với nhiều khó
khăn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là, liệu bắt buộc các TCTD phải mua Tín
phiếu NHNN có phải là giải pháp mang tính mệnh lệnh hành chính khơng?
Bởi vì, việc tham gia mua Tín phiếu NHNN hay các giấy tờ có giá khác như
Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho bạc... đều dựa trên khả năng, nhu cầu
6


về vốn và lợi ích kinh tế từ phía các TCTD.
Bên cạnh đó, yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số
7318/NHNN-CSTT ngày 25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để
kiểm soát việc cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và
đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về
kiểm sốt quy mơ, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng
khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có
qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư
kinh doanh chứng khốn ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của
TCTD... .Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa
đổi, bổ sung Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định
các TCTD khơng được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khốn, khơng được cho vay khơng có
bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và

trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu lực, các TCTD phải
điều chỉnh để đáp ứng các quy định trên.
II) tác động của chính sách tiền tệ đối với thị trường tài chính:
Việc NHNN đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát là hoàn toàn đúng đắn.
Lạm phát phải được khống chế để không ảnh hưởng tới cuộc sống của
những người ăn lương Nhà nước và những người lao động nghèo có thu
nhập khơng đua kịp giá cả.
Nhưng việc đưa ra các quyết định dồn dập, nếu không nói là gây sốc,
có thể tạo ra những tác động khơng tốt cho hệ thống tài chính nói riêng, nền
kinh tế nói chung.
1) Rủi ro thanh khoản trước mắt.
20.300 tỉ đồng tương đương với 2% tổng vốn huy động trong hệ thống
ngân hàng hiện nay. Nghĩa là tương đương với việc nâng dự trữ bắt buộc lên
2% đối với tất cả các loại tiền gởi. Nếu chỉ tính tiền đồng thì con số này sẽ
trên 3%, cộng với 11% hiện tại thì tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng đã
lên gần 15%. Đồng thời NHNN phát đi tín hiệu tăng lãi  trên thị trường tiền
tệ, tạo áp lực về tâm lý tăng lãi suất trên thị trường.
7


Quyết định của NHNN có thể dẫn tới khả năng thanh khoản của các
ngân hàng có vấn đề, nhiều ngân hàng đã đóng cửa khơng cho vay. Khách
hàng đến vay, ngân hàng có quyền từ chối. Nhưng trong trường hợp khách
hàng đến rút tiền thì ngân hàng khơng thể từ chối được. Đến rút tiền mà
khơng có tiền thì đầu tiền họ sẽ đặt câu hỏi sau đó là hành động và có thể tạo
ra phản ứng dây chuyền từ mất thanh khoản cục bộ dẫn tới mất thanh khoản,
thậm chí sụp đổ cả hệ thống.
Vì thế đã làm tình trạng thị trường tiền tệ nóng lên, vốn VND khan
hiếm. Lãi suất trên thi trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà
khơng có người cho vay.

Lãi suất cho vay qua đêm một số thời điểm lên tới 20%/năm, thậm chí
tới 30%/năm.
Điều này sẽ làm giảm khả năng cho vay của các NHTM đối với khách
hàng, dẫn tới các NHTM bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt.
Trong những ngày gần đây hàng loạt NHTM công bố tăng lãi suất huy
động vốn Đồng Việt Nam với mức lãi suất tăng khá, tăng thêm từ 0,12% 0,48%/năm so với trước đó.
Mức tăng lớn nhất vẫn thuộc về các ngân hàng thương mại cổ phần, kể
cả các NHTM cổ phần quy mơ cịn khiêm tốn mới chuyển từ nơng thơn lên
đơ thị, như SHB, An Bình,…đến các NHTM hạng trung bình khá như:
SeABank, VPBank, Phương Nam, Phương Đơng, NHTM CP Sài Gịn… và
ngay cả những NHTM cổ phần có thương hiệu khá hay quy mô lớn, như:
Eximbank, Techcombank, Đông Á, ACB,…Từ ngày 18/2/2008, Eximbank
thực hiện một đợt tăng lãi suất lớn nhất, với mức tăng thêm tới 0,84%/năm
so với mức lãi suất trước đó, kỳ hạn 6 tháng lên tới 9,0%/năm. Hiện nay lãi
suất huy động vốn VND tăng cao nhất của một số NHTM cổ phần lên tới
0,85%/tháng hay 10,20%/năm cho kỳ hạn 24 tháng, lên tới 0,80%/tháng, hay
9,6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng,…Lãi suất huy động vốn VND kỳ hạn 12
tháng của NHTM CP Sài Gòn lên tới 9,72%/năm, tương đương
0,81%/tháng; của Techcombank lên tới 9,6%/năm. Thậm chí lãi suất huy
động của nhiều Quỹ tín dụng nhân dân kỳ hạn 12 tháng lên tới 0,90%/tháng,
8


hay 10,80%/năm.
Để khắc phục tình trạng chạy đua lãi suất huy động, NHNN áp trần
lãi suất huy động VND 12%. Sau đó, Ngân hàng nhà nước tiếp tục có trần
mới cho lãi suất trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở từ 9 – 10%. Tiếp
theo, một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là "cực kỳ nguy
hiểm" khi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng
cao chóng mặt. Đặc biệt lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới

30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày
19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm…
Thị trường "căng" đến mức ngày 22/2/2008 Ngân hàng Nhà nước
phải bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số ngân
hàng thương mại trúng thầu, gấp 5 - 6 lần doanh số giao dịch lúc bình
thường, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức
15%/năm của ngày 21/2/2008.Tính tổng cộng chỉ trong một tuần, Ngân hàng
Nhà nước phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa
từng có trong lịch sử can thiệp vốn khả dụng của Ngân hàng Nhà nước từ
trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có
giá ngắn hạn của cả năm 2007.
Tuy nhiên hầu như chỉ có các ngân hàng thương mại nhà nước, một số
ít ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng
nước ngồi có điều kiện đang sở hữu tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và Tín
phiếu Kho bạc Nhà nước, Trái phiếu đơ thị Tp.HCM..., thì mới có cơ hội
vay với khối lượng lớn vốn đó
2) rủi ro hệ thốn lâu dài
Lãi suất đầu vào của NHTM, tức lãi suất huy động vốn tăng cao, cộng
với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ cho việc
mua tín phiếu NHNN, nhưng lãi suất cho vay tăng chậm, khoảng cách chênh

9


lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên cạnh đó tốc độ
tăng trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. Điều này có thể gây
ảnh hường đến sự phát triển của các ngân hàng khi đầu vào ngày càng lớn
mà đầu ra đang gặp khơng ít khó khăn. Ít nhất thì lợi nhuận của NH, cổ đông
sẽ giảm đi do tăng lãi suất cho vay chưa theo kịp lãi suất tiết kiệm.
Lãi suất cho vay cũng buộc phải tăng cao và hậu quả là doanh nghiệp

và người dân vay vốn phải gánh chịu. Thậm chí do lo vấn đề thanh khoản,
thực tế hiện nay một số ngân hàng đã hạn chế cho vay, tập trung thu nợ.Việc
vay vốn của doanh nghiệp, của khách hàng khó khăn hơn. Phần đơng
NHTM đã tăng lãi suất cho vay thêm 0,15- 0,20%/tháng so với trước. Nhiều
NHTM cho vay ngắn hạn VND với lãi suất 1,35-1,45%/tháng, lãi suất cho
vay trung dài hạn lên tới 1,5 -1,65%/tháng, nhưng khơng phải khách hàng
nào cũng vay được. Thậm chí có trường hợp chào lãi suất cho vay lên tới
2,0%/tháng.
Lãi suất cho vay tăng cao một mặt tạo điều kiện cho tiêu cực nảy
sinh trong quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng, tức là NHTM
buộc phải lựa chọn dự án, lựa chọn khách hàng, việc cho vay vốn khắt khe
hơn. Mặt khác nhiều dự án bị từ chối vay vốn, hoặc doanh nghiệp không
dám vay, không dám triển khai dự án, từ đó ảnh hưởng tới tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Bởi vì hiện nay vốn đầu tư của nền kinh tế, vốn hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp và hộ gia đình chủ yếu là vốn vay ngân hàng.
Mà hiệu quả của vốn đầu tư có độ trễ, ít nhất là 6 tháng. Tức là việc hạn chế
đầu tư vốn tín dụng ngân hàng hiện nay sẽ có tác động làm chậm tốc độ tăng
trưởng trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009.
Bên cạnh đó, lãi suất huy động q cao, hoạt động tín dụng có khả
năng sẽ gặp vấn đề bởi lãi suất cho vay cũng sẽ cao. Lúc này, chỉ có doanh
nghiệp nào làm ăn với suất sinh lợi cao mới có khả năng vay vốn. Trong
kinh doanh, nơi nào đầu tư sinh lời cao thì tiềm ẩn rủi ro cũng cao mà nó
đồng nghĩa với nguy cơ vỡ nợ cao và vì thế, nguy cơ tạo ra nợ xấu cũng rất
10


cao. Nợ xấu nhiều ngân hàng buộc phải tăng lãi suất để bù đắp lại. Lúc này,
các dự án rủi ro cao hơn mới có khả năng vay được, những dự án có suất
sinh lời vừa phải, nhưng an tồn thi bó tay.
Thêm vào đó, khó khăn chồng chất khó khắn đối với những ngành

hàng có suất sinh lợi khơng cao nhưng tạo ra nhiều công ăn việc làm và kim
ngạch xuất khẩu như ngành dệt may chẳng hạn. Chi phí lãi vay tăng thêm
năm ba phần trăm, trong khi doanh thu lại giảm một vài phần trăm so tiền
đồng tăng giá sẽ làm cho các doanh nghiệp kiểu này khó mà trụ nổi.
Khơng chừng với lãi suất cao như vậy, chỉ cịn có những khoản vay kinh
doanh bất động sản hay những người có khả năng “lướt sóng” tốt trên thị
trường chứng khoán với suất sinh lời rất cao là chịu nổi.
Lúc này, sự lựa chọn ngược có thể lên đến đỉnh điểm, các khoản vay của
ngân hàng toàn là các dự án có mức độ rủi ro rất cao và nguy cơ khủng
hoảng hệ thống là khó tránh khỏi. Nợ xấu nhiều, lãi suất huy động cao thì
thu nhập từ cho vay chưa chắc đã đủ để trả lãi huy động và có ngân hàng
phải lấy tiền gốc để trả lãi, cỏ thể dẫn ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ. 
Một điều đáng lưu ý là khác với các loại hình kinh doanh khác, chỉ
cần một tổ chức tín dụng có vấn đề nếu khơng có cách hành xử hợp lý có thể
xảy ra đổ vỡ cho cả hệ thống.
3)Tác động đến TTCK trong năm 2008?
Đến ngày 19/2/2008, VN – Index lại giảm tiếp 5,78 điểm, xuống còn
776,79 điểm. Tại Trung tâm GDCK Hà Nội, chỉ số HaSTC – Index trong
ngày 18/2/2008 cũng giảm 12,38 điểm và ngày 19/2/2008 giảm tiếp 1,51
điểm, xuống còn 268,19 điểm. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ sau Tết
Nguyên đán Mậu Tý đến nay.Trên thị trường OTC, giá hàng loạt cổ phiếu
chưa niêm yết cũng giảm thấp và giao dịch hết sức trầm lắng. Giá một số
loại cổ phiếu Ngân hàng thương mại cổ phần loại khá, thuộc nhóm cổ phiếu
được coi là Blue Chips, giảm xuống chỉ còn 31.000 đồng đến 40.000
11


đồng/CP, giảm tới hơn 2/3; hay giảm tới 70% so với mức giá cách đây vừa
tròn 1 năm.
Nguyên nhân lớn nhất của đợt sụt giảm trên TTCK lần này đó là thị

trường tiền tệ nóng lên; lãi suất của hệ thống ngân hàng tăng cao; Ngân hàng
Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt.
Cuối tuần trước, Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành
20.300 tỷ đồng trái phiếu bắt buộc, nhưng không được sử dụng vay tái cấp
vốn. Để chủ động có đủ vốn mua tín phiếu NHNN bắt buộc vào thời điểm
đó thì ngay từ bây giờ các NHTM phải  đẩy mạnh huy động vốn trên thị
trường, bởi vì muốn có đủ 20.300 tỷ đồng mua tín phiếu NHNN thì phải huy
động ít nhất là 23.000 tỷ đồng vì phải nộp dự trữ bắt buộc 11%. 
Do đó TTCK có phản ứng tức thì về việc gần 23.000 tỷ đồng bị rút
khỏi lưu thơng. Chưa kể trước đó 3 tuần, gần 10.000 tỷ đồng các nhà đầu tư
phải lo để nộp tiền mua cổ phiếu IPO của Vietcombank đấu thầu cuối năm
2007. Từ tháng 2/2008 các NHTM phải nộp thêm gần 10.000 tỷ đồng dự trữ
bắt buộc. Vậy thì chỉ trong thời gian ngắn thử hỏi thị trường tiền tệ lấy đâu
ra gần 50.000 tỷ đồng chui vào kho ngân hàng?
Cũng với phản ứng tức thì trên thị trường tiền tệ, hàng loạt ngân hàng
thương mại hạn chế cho vay vốn nói chung, vay vốn đầu tư chứng khốn lại
càng không thể. Thực tế hiện nay một số ngân hàng đã hạn chế cho vay, tập
trung thu nợ. Một số NHTM chỉ cho khách hàng truyền thống, cho dự án tốt
vay vốn, cịn khơng cho vay đối với khách hàng mới. Thậm chí có trường
hợp chào lãi suất cho vay lên tới 2.0%/tháng.
Như vậy cùng với việc TTCK phản ứng tiêu cực với Quyết định số
03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng
khốn. Bởi vì Quyết định 03 cịn thắt chặt cho vay chứng khốn hơn so với
thị 03 trước đây.
12


Một nguồn vốn khác đầu tư vào TTCK cũng bị chặn lại đó là nghiệp
vụ Repo và cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố chứng khốn,... của các cơng
ty chứng khốn đối với khách hàng. Bởi vì với Chỉ thị 03 và Quyết định 03,

nguồn vốn vay ngân hàng đầu tư vào chứng khốn chặn lại thì cịn có cửa
ngách khác đó là cơng ty chứng khốn. Song nguồn vốn để cho vay của các
cơng ty chứng khốn lại được tài trợ bởi ngân hàng thương mại. Nhưng nay
do tình hình thị trường tiền tệ nóng lên, tiền đồng Việt Nam khan hiếm,
thanh khoản căng thẳng, nên các ngân hàng thương mại cũng hạn chế, thậm
chí là tạm dừng hỗ trợ vốn cho các cơng ty chứng khốn theo hợp đồng cam
kết trước đây, nên các cơng ty chứng khốn khơng cịn tìm đâu ra nguồn vốn
để cho khách hàng của mình thực hiện nghiệp vụ Repo, cầm cố để đầu tư
chứng khốn.
Cũng do chính sách tiền tệ thắt chặt nên nguồn vốn ngoại tệ của các
nhà đầu tư nước ngồi đưa vào Việt Nam rất khó chuyển sang VND vì Ngân
hàng Nhà nước khơng mua vào hay hạn chế mua vào, tỷ giá VND/USD liên
tục xuống thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài thiếu vốn đầu tư trên TTCK.

13



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×