Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.86 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ NGỌC TRINH

TRƢỜNG HỢP
KHƠNG ÁP DỤNG THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
THEO P
P UẬT DÂN SỰ V ỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

ĐỊNH

ƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG HỢP
KHƠNG ÁP DỤNG THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
THEO P
P UẬT DÂN SỰ V ỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 60380103



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
Học viên: Lê Thị Ngọc Trinh
Lớp: Cao Học Luật, An Giang Khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Lê Thị Ngọc Trinh, là học viên lớp Cao học Luật khoá 1 – An Giang,
chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự, mã số học viên: 17670320358.
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu khoa học của
bản thân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc Các
bản án và trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc, đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Luận văn khơng sao chép cơng trình nghiên cứu nào khác
dưới mọi hình thức.
Ngƣời thực hiện luận văn

Lê Thị Ngọc Trinh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NỘ DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

BLDS 1995

Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1995


BLDS 2005

Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005

BLDS 2015

Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2015

BLTTDS 2004

Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, được sửa đổi bổ sung năm 2011

BLTTDS 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

NQ

Nghị quyết

Nxb

Nhà xuất bản

Tr


Trang


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
C ƢƠNG 1. KHÔNG ÁP DỤNG THỜI HIỆU KHỞI KIỆN ĐỐI VỚI YÊU
CẦU BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN KHÔNG GẮN VỚI TÀI SẢN...............7
1.1. Quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu
bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản...................................................7
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi
kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản và giải
pháp hoàn thiện................................................................................................... 10
KẾT LUẬN C ƢƠNG 1....................................................................................... 16
C ƢƠNG 2. KHÔNG ÁP DỤNG THỜI HIỆU KHỞI KIỆN ĐỐI VỚI YÊU
CẦU BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU.......................................................................... 17
2.1. Quy định của pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu
cầu bảo vệ quyền sở hữu..................................................................................... 17
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi
kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu và giải pháp hoàn thiện................22
KẾT LUẬN C ƢƠNG 2....................................................................................... 34
C ƢƠNG 3. KHÔNG ÁP DỤNG THỜI HIỆU KHỞI KIỆN ĐỐI VỚI
TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT T EO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
ĐẤT ĐA................................................................................................................... 35
3.1 Quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh
chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai............................ 35
3.2 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi
kiện đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai
và giải pháp hoàn thiện....................................................................................... 39
KẾT LUẬN C ƢƠNG 3....................................................................................... 44

KẾT LUẬN.............................................................................................................. 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
P ẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
ổn định các quan hệ dân sự cũng như xác định chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của các
bên. Các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự một mặt nhằm bảo đảm quyền
khởi kiện, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân. Mặt khác hiện nay việc áp dụng
đúng quy định về thời hiệu khởi kiện là yếu tố quan trọng để xác định vụ án sẽ được
Tịa án có thẩm quyền giải quyết hay đình chỉ (trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã
hết) khi đương sự thực hiện quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu theo luật định. Có thể nói
việc quy định, nhận thức, áp dụng đúng và thống nhất về thời hiệu khởi kiện yêu cầu
Toà án giải quyết các tranh chấp dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
“Thời hiệu khởi kiện” - là một trong những nội dung có sửa đổi bổ sung căn
bản tại hai bộ luật quan trọng: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành
ngày 01/7/2016 và Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01/1/2017.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu là thời hạn mà chủ thể
được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và
1

lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện .
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền u cầu biết
hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 việc xác định thời hiệu

khởi kiện được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và Tòa án chỉ
áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các
bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản
án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu
có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, qua quá trình thi hành các quy định về thời hiệu, cách xác định và
vận dụng thời hiệu vẫn tồn tại những bất cập, vướng mắc nhất định. Trong đó quy
định “Khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện” cũng còn một số hạn chế, vướng mắc dẫn
đến có những quan điểm khác nhau khi áp dụng. Ở góc độ lập pháp, chưa có quy
1 Khoản 3 Điều 150 Bộ luật dân sự 2015


2
định cụ thể hướng dẫn áp dụng Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015 về không áp
dụng thời hiệu khởi kiện, trong khi Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
những quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, được sửa đổi bổ sung
năm 2011, Nghị quyết này đã hướng dẫn quy định về việc không áp dụng thời hiệu
khởi kiện, tuy nhiên đã hết hiệu lực nên khơng thể áp dụng. Ở góc độ nghiên cứu và
thực tiễn xét xử, quy định trên chưa khái quát hết những trường hợp xảy ra trên thực
tế, cách hiểu và áp dụng có sự khơng thống nhất. Do dó, vẫn cịn bộc lộ một số hạn
chế như:
Thứ nhất: Liên quan đến quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với
yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân khơng gắn với tài sản cịn nhiều khái niệm chưa
được quy định, hướng dẫn cụ thể rõ ràng để làm cơ sở xác định và phân biệt trong
quá trình áp dụng quy định về thời hiệu như “quyền nhân thân không gắn với tài
sản” và “quyền nhân thân gắn với tài sản”.
Thứ hai: Quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện tại khoản 2 Điều 155
Bộ luật dân sự 2015 cịn mang tính chung chung khó áp dụng trong quá trình giải

quyết tranh chấp - Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu không áp dụng thời hiệu khởi kiện
cần được xác định là như thế nào, có phải là yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu khi bị
chiếm đoạt khơng có căn cứ pháp luật khơng và có bao gồm cả u cầu địi tài sản
như quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, được
sửa đổi bổ sung năm 2011? Thực tiễn áp dụng quy định về thời hiệu để giải quyết
các tranh chấp đòi tài sản hiện nay còn thiếu nhất quán trong việc viện dẫn và áp
dụng căn cứ pháp luật.
Thứ ba: Việc xác định tranh chấp về quyền sử dụng đất không áp dụng thời
hiệu khởi kiện theo khoản 3 Điều 155 Bộ luật dân sự 2015, vẫn chưa được giải thích
rõ ràng tranh chấp này là như thế nào, có phải là tranh chấp về quyền của người sử
dụng đất theo Luật đất đai hay tranh chấp ai có quyền sử dụng đất.
Bên cạnh, ngay trong mỗi trường hợp quy định tại Điều 155 Bộ luật dân sự
năm 2015, vẫn còn nhiều tranh luận về việc xác định có hay khơng áp dụng thời
hiệu khởi kiện đối với các trường hợp tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, tranh chấp hợp đồng đặt cọc hay tranh chấp
xuất phát từ hợp đồng nhưng nội dung chính là u cầu địi lại tài sản.
Chính thực trạng trên đã đặt ra u cầu cần có cơng trình nghiên cứu một
cách chuyên sâu, toàn diện về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện để


3
góp phần đưa ra những kiến nghị, đề xuất khắc phục những hạn chế, tồn tại, hướng
tới hoàn thiện pháp luật.
Vì những lý do trên người viết chọn đề tài “Trường hợp không áp dụng thời
hiệu khởi kiện theo pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm kiếm tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, người viết
nhận thấy có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như:
Cụ thể dưới hình thức bình luận khoa học thì có cơng trình tiêu biểu như:

- Nguyễn Văn Cừ và Trần Thị Huệ (2015), Bình luận khoa học Bộ luật Dân
sự năm 2015. Nhà xuất bản công an nhân dân 2017.
Liên quan đến vấn đề thời hiệu được bình luận tại mục 2, Chương X của phần
thứ nhất về những quy định chung, các tác giả đã phân tích, bình luận những quy
định về thời hiệu và áp dụng thời hiệu cũng như phân tích các trường hợp khơng áp
dụng thời hiệu, những điểm mới của quy định về thời hiệu so với Bộ luật dân sự
năm 2005, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011.
Nội dung phân tích chủ yếu tập trung ở việc làm rõ nội hàm của quy định liên quan
đến thời hiệu chứ khơng có sự đề cập đến những tồn tại hay hạn chế trong thực tiễn
áp dụng.
- Bùi Thị Huyền (2015), Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nhà
xuất bản Lao động. Liên quan đến thời hiệu khởi kiện vụ án được bình luận tại
Chương XI của phần thứ nhất về thời hạn tố tụng và những quy định chung trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tác giả đã phân tích, so với những quy định về
thời hiệu khởi kiện của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi thì những quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 khơng cịn quy định những vấn đề cụ thể
liên quan đến thời hiệu mà thời hiệu được dẫn chiếu về Bộ luật dân sự năm 2015.
Do đó, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, khi có u cầu áp dụng thời
hiệu, Tịa án sẽ căn cứ vào các quy định về thời hiệu được quy định ở Bộ luật dân sự
năm 2015.
Ngoài ra, trên các Tạp chí chun ngành luật có các bài viết có nội dung liên
quan đến đề tài như:
- Đặng Thanh Hoa (2018), Bàn về không áp dụng thời hiệu khởi kiện u cầu
bảo vệ quyền sở hữu, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử. Bài viết tập trung phân tích
làm rõ nội dung yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trường hợp không áp dụng thời hiệu


4
khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu và phân biệt, chứng minh đây là quy
định có bổ sung mới và hoàn thiện hơn so với quy định trước đây về trường hợp

không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về quyền sở hữu và địi lại tài
sản. Do đó, việc “đánh đồng” các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối
với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật dân sự năm 2015 với
các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 3 Điều
159 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi 2011 và Nghị quyết 03/2012/NQHĐTP là không đúng và sẽ dẫn đến hệ quả là không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối
với một số trường hợp không phải là yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu và có những yêu
cầu bảo vệ quyền sở hữu thì lại áp dụng thời hiệu khởi kiện.
- Nguyễn Hải An (2016), Bàn một số nội dung mới của Bộ luật dân sự năm
2015 về Thời hạn và Thời hiệu, Tạp chí Tịa án nhân dân số 16.2016. Bài viết tập trung
phân tích các quy định: Tịa án chỉ áp dụng thời hiệu khởi kiện theo yêu cầu của đương
sự, qua đó nhìn nhận lại quy định “Khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện thừa kế” để so
sánh tính khả thi của quy định mới này trong Bộ luật dân sự; Phân tích quy định trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 và Nghị quyết số
03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao
về trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện để so sánh với quy định trong Bộ luật
dân sự 2015 và nêu lên điểm hạn chế cịn chung chung khó áp dụng của điều luật.

Vấn đề về thời hiệu khởi kiện tuy đã được phân tích, đề cập như đã chỉ ra
nhưng để tìm giải pháp cho những bất cập đã được tác giả xác định thì việc kế thừa,
tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng là việc làm cần thiết. Và
đây là lý do cho việc tác giả chọn “Trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
theo pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Bộ luật dân sự năm 2015 với nhiều quy định tiến bộ, khắc phục những bất
cập lớn của Bộ luật dân sự và tố tụng dân sự trước đó về thời hiệu. Tuy nhiên, trong
quy định về thời hiệu nói chung mà cụ thể là quy định về trường hợp không áp dụng
thời hiệu khởi kiện vẫn còn tồn tại những hạn chế và bất cập.
Với định hướng ứng dụng, khi lựa chọn nội dung này làm luận văn thạc sĩ
của mình, tác giả hướng tới mục đích phân tích nhằm làm rõ thực trạng áp dụng các
quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện nhằm chỉ ra những thiếu sót, chưa hợp

lý trong các quy định của pháp luật dân sự, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật.


5
Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nêu và phân tích quy định của pháp luật có liên quan về khơng áp dụng thời
hiệu khởi kiện.
- Phân tích và đánh giá việc áp dụng những quy định của pháp luật vào thực
tiễn xét xử trong những vụ án có liên quan đến trường hợp không áp dụng thời hiệu
khởi kiện.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu

- Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Khi nghiên cứu do giới hạn về thời gian và
tài liệu tham khảo bởi tính mới của đề tài nên tác giả khơng nghiên cứu sâu vào mọi
góc cạnh “Khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện” trong phạm vi rộng của Pháp luật
dân sự. Đề tài này tập trung nghiên cứu căn cứ không áp dụng thời hiệu khởi kiện
trong quy định của Bộ luật dân sự 2015 có so sánh đối chiếu với quy định tại Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011; Tiếp cận cách nhìn nhận
quy định khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện thông qua các bài viết chuyên khảo,
chuyên đề; Việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn xét xử, phân tích, đánh
giá một số bản án của Toà án về yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài
sản, yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, tranh chấp về quyền sử dụng đất. Từ những phân
tích đó tác giả sẽ chỉ ra những hạn chế cịn tồn tại và nêu ra những kiến nghị nhằm
hồn thiện quy định pháp luật về vấn đề đang nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu đề tài, tác giả
đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Dựa trên kết cấu của luận văn
được chia làm ba chương, tương ứng ba nội dung của đề tài là từng chương sẽ giải
quyết dứt điểm một vấn đề liên quan đến một trường hợp. Do vậy, ở mỗi chương tác
giả sẽ kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, cụ thể:

- Phương pháp phân tích bao gồm:
+ Phân tích các quy định của pháp luật. Cụ thể để làm rõ các quy định của
pháp luật, chỉ ra các quy định còn chưa rõ ràng, tác giả sử dụng phương pháp phân
tích điều luật. Trong luận văn, phương pháp này được sử dụng tại các mục 1.1, 2.1
và 3.1.
+ Phương pháp phân tích bản án, quyết định của Tòa án được sử dụng nhằm
làm rõ các vấn đề pháp lý trong các bản án, quyết định, có liên quan đến đề tài của
luận văn, đồng thời đánh giá việc áp dụng pháp luật trong các bản án, quyết định
của Tòa án, phương pháp này được sử dụng tại các mục 1.2, 2.2 và 3.2.


6
Phương pháp chứng minh được sử dụng để chứng minh cho từng nhận định
của tác giả. Khi nghiên cứu các nội dung đề tài, tác giả sẽ có những nhận định về
các vấn đề pháp lý, phương pháp chứng minh được sử dụng gồm các lý lẽ, lập luận
và dẫn chứng là các bản án, quyết định của Tòa án. Phương pháp này được sử dụng
tại các mục 1.1, 2.1 và 3.1.
Sử dụng phương pháp diễn giải khi trình bày các nội dung của luận văn được
sử dụng ở tất cả các chương của luận văn.
Phương pháp tổng hợp (quy nạp) được tác giả sử dụng để rút lại vấn đề, đưa
ra quan điểm cá nhân về từng vấn đề, phương pháp này được sử dụng ở các mục
1.2, 2.2, 3.2 và ở phần kết luận của từng chương và kết luận của luận văn.
5. Bố cục của uận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
văn gồm có 03 chương:
Chƣơng 1: Không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền
nhân thân không gắn với tài sản
Chƣơng 2: Không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền
sở hữu
Chƣơng 3: Không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về quyền

sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai


7
C

ƢƠNG 1

KHÔNG ÁP DỤNG T Ờ
ỆU K Ở K ỆN ĐỐ VỚ YÊU CẦU
BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN KHÔNG GẮN VỚ TÀI SẢN
1.1. Quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu
cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản
Thời hiệu khởi kiện là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong quy định
của pháp luật về dân sự, tố tụng dân sự. Việc xác định thời hiệu khởi kiện còn hay
hết, có thuộc trường hợp phải tính thời hiệu hay khơng sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể. Do đó, pháp luật về dân sự đã xác định các vấn đề này
để làm cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Trong đó, đối với yêu
cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản đã được quy định khơng thuộc
trường hợp phải tính thời hiệu khởi kiện.
“Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định
2

khác” . Nghiên cứu từ góc độ lịch sử, vấn đề khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện đối
với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không phải là quy định mới. Vấn đề này đã
được Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 quy định, theo đó Bộ
luật dân sự 2005 đã kế thừa nguyên vẹn quy định của Bộ luật dân sự năm 1995
“không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm
3


phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” . Theo quy định này thì tất cả
các trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân đều không áp dụng thời hiệu khởi
kiện mà không phân biệt quyền nhân thân đó có gắn với tài sản hay không gắn với
tài sản. Quy định này làm phát sinh vấn đề khi quyền nhân thân gắn với tài sản thì
áp dụng thời hiệu khởi kiện như thế nào khi có nhiều tranh chấp về tài sản pháp luật
lại có quy định về thời hiệu khởi kiện. Do đó, để khắc phục tình trạng này, Bộ luật
dân sự 2015 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với “yêu cầu bảo vệ
4

quyền nhân thân không gắn với tài sản” . Như vậy, kể từ ngày Bộ luật dân sự 2015
có hiệu lực pháp luật thì chỉ có yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài
sản sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện, đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân
2 Khoản 1 Điều 25 BLDS 2015.
3 Khoản 2 Điều 160 BLDS 2005 đã kế thừa quy định tại khoản 2 Điều 169 BLDS 1995: Thời hiệu khởi

kiện không áp dụng trong trường hợp“Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác”
4 Khoản 1 Điều 155 BLDS 2015


8
gắn với tài sản sẽ áp dụng quy định chung về thời hiệu khởi kiện. Nói cách khác, so
với quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì quy định
trên có sự thay đổi đó là chỉ khi những quyền nhân thân không gắn với tài sản bị
5

xâm phạm mới không áp dụng thời hiệu khởi kiện .
Về mặt lí luận, định nghĩa thế nào là quyền nhân thân và quyền nhân thân của
các chủ thể bao gồm những quyền nào đã được đã được Bộ luật dân sự năm 2015

6

quy định một cách cụ thể . Bộ luật này cũng có đề cập đến “quyền nhân thân gắn
với tài sản” và “quyền nhân thân không gắn với tài sản” khi liệt kê các nội dung
7

năng lực pháp luật dân sự của cá nhân . Qua nghiên cứu quy định tại khoản 1 Điều
155 Bộ luật dân sự 2015 như đã nêu trên, có thể thấy việc xác định và phân biệt 2
phạm trừu này là một yếu tố quan trọng và cần thiết khi xem xét về vấn đề thời hiệu
khởi kiện đối với các yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân, có thuộc trường hợp áp dụng
hay khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, pháp luật về dân sự lại chưa đưa
ra một khái niệm hay hướng dẫn cụ thể nào để làm cơ sở xác định hai đối tượng
này, vì vậy sẽ phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau khi xác định một quyền nhân
thân gắn với tài sản hay không gắn với tài sản cũng như dẫn đến khó khăn trong q
trình nhận diện và áp dụng quy định về thời hiệu.
Bên cạnh đó, về biện pháp bảo vệ quyền nhân thân. Trước đây, theo quy định
tại Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2005 khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm
thì người đó sẽ có quyền “Tự mình cải chính; u cầu người vi phạm hoặc yêu cầu
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin
lỗi, cải chính cơng khai; u cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có
5 Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB Công an nhân
dân, tr.297.
6 Các quyền nhân thân được quy định cụ thể từ Điều 26 đến Điều 39 Bộ luật dân sự 2015, bao gồm:
- Quyền có họ, tên
- Quyền thay đổi họ
- Quyền thay đổi tên
- Quyền xác định, xác định lại dân tộc
- Quyền được khai sinh, khai tử
- Quyền đối với quốc tịch
- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh

- Quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
- Quyền xác định lại giới tính
- Chuyển đổi giới tính
- Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
- Quyền nhân thân trong hơn nhân và đình
7 Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định: Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
gồm có “Quyền nhân thân không gắn với tài sản và Quyền nhân thân gắn với tài sản..”


9
thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại”. Hiện nay, mặc dù các biện
pháp bảo vệ quyền nhân thân được quy định tại Điều 25 Bộ luật dân sự năm 2005
8

đã không được đề cập trong Bộ luật dân sự 2015 . Tuy nhiên, theo quy định về các
quyền nhân thân tương ứng trong Bộ luật dân sự năm 2015 vẫn ghi nhận các chủ thể
quyền: “yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi
thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật” 9

Quyền của cá nhân đối với hình ảnh , hoặc “Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng
xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngồi quyền u cầu bác bỏ thơng tin đó cịn
có quyền u cầu người đưa ra thơng tin xin lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường
10

thiệt hại” – Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín .
Như vậy, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì ngồi việc thực
hiện các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân như “tự mình cải chính”, “yêu cầu người

vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai” thì người đó cịn có quyền u
cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm phải “bồi thường thiệt hại”
khi gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần. Đây là một trong những phương thức
pháp lý cần thiết mà người có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể lựa chọn thực
hiện để yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân của mình.
Về thời hiệu khởi kiện, vấn đề đặt ra khi có hành vi xâm phạm đến quyền
nhân thân không gắn với tài sản. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
theo quy định tại Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 thì cá nhân có thể khởi kiện u cầu
Tồ án buộc bên có hành vi xâm phạm quyền phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Đối
với yêu cầu khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản theo
như quy định tại khoản 1 Điều 155 BLDS 2015 thì khơng áp dụng thời hiệu khởi
kiện. Tuy nhiên, việc khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì lại
có thời hiệu và được quy định riêng trong Bộ luật dân sự, cụ thể: Theo quy
định của Bộ luật dân sự 2005 thời hiệu là: “02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp
11

pháp của cá nhân bị xâm phạm” và hiện nay theo Bộ luật dân sự 2015 thời hiệu
này là: “3 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích
8 Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015”, nhà xuất bản
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.207.
9 Khoản 3 Điều 32 BLDS 2015
10
11

Khoản 5 Điều 34 BLDS 2015
Điều 607 BLDS 2005


10

12

hợp pháp của mình bị xâm phạm” . Vậy trường trên có áp dụng thời hiệu khởi kiện
hay khơng? Về thời hiệu sẽ được giải quyết căn cứ theo quy định tại Điều 155 Bộ
luật dân sự 2015 – thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện hay Điều
588 Bộ luật dân sự 2015 – có thời hiệu khởi kiện là 03 năm? Qua tình huống vừa
nêu, có thể thấy trong cùng một quan hệ tranh chấp nhưng lại có 02 căn cứ pháp luật
có hậu quả pháp lý hồn tồn khác nhau đều có thể được viện dẫn áp dụng khi xem
xét về yếu tố thời hiệu.
Có thể thấy, pháp luật dân sự chỉ quy định chung nhất là “Không áp dụng
thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản”,
tuy nhiên các khái niệm liên quan như “quyền nhân thân không gắn với tài sản”
“quyền nhân thân gắn với tài sản” chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể rõ ràng
để làm cơ sở phân biệt trong quá trình áp dụng quy định về thời hiệu; Bên cạnh đó,
trường hợp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyền nhân thân không gắn
với tài sản bị xâm phạm tồn tại song trùng hai căn cứ pháp luật quy định về thời
hiệu điều chỉnh. Do đó, việc khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu bảo
vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLDS
2015 trong thực tiễn chưa thống nhất. Vấn đề này sẽ được trình bày khi xem xét
thực trạng áp dụng quy định pháp luật nêu trên.
1.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về không áp dụng thời hiệu
khởi kiện đối với yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản và giải
pháp hoàn thiện.
Quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ, không ai được xâm phạm đến quyền
nhân thân của người khác một cách trái pháp luật. Khi quyền này bị xâm phạm thì
người bị xâm phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ. Tuy nhiên, do
ý chí chủ quan, khách quan khác nhau mà yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân của
người bị xâm phạm không được thực hiện ngay mà họ yêu cầu một khoảng thời
gian sau đó. Khi đó vấn đề về thời hiệu và việc xác định yêu cầu bảo vệ là quyền
nhân thân không gắn với tài sản hay quyền nhân thân gắn với tài sản

được đặt ra.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín là nhóm quyền nhân thân
quan trọng của mỗi cá nhân. Khi danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trái pháp
luật và gây ra thiệt hại thì người có hành vi xâm phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại.
Như đã phân tích ở phần quy định của pháp luật, về mặt lí luận do các khái niệm
12

Điều 588 BLDS 2015


11
liên quan như “quyền nhân thân không gắn với tài sản” “quyền nhân thân gắn với
tài sản” chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể rõ ràng. Mặt khác, việc khởi kiện
yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm có sự xung
đột pháp luật về thời hiệu khi tồn tại song trùng hai quy định pháp luật về thời hiệu
có thể được xem xét điều chỉnh, chính vì vậy thực tiễn áp dụng pháp luật về thời
hiệu không thống nhất, cụ thể:
- Vụ án thứ nhất: Tranh chấp “Yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm” giữa bà Nguyễn Thị T, ông Hà Ngọc H với ông Lý
13

Minh B, Lý Minh A, Đỗ Ngọc C.
Ngày 05/11/2016 bà T và ơng H có Đơn khởi kiện ông A và ông C vì cho
rằng vào ngày 19/8/2014 ông A và ông C đã có hành vi xác nhận vào lý lịch của gia
đình bà những nội dung không đúng, đã xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân
phẩm và uy tín của vợ chồng ơng bà nên u cầu Tồ án giải quyết buộc ơng A và
ơng C phải bồi thường thiệt hại và xin lỗi công khai.
Tồ án cấp sơ thẩm xác định thời điểm ơng A và ông C xác nhận vào lý lịch
của gia đình bà T, ơng H ngày 19/8/2014 đến ngày bà T, ông H khởi kiện
07/11/2016 là quá thời hạn khởi kiện theo quy định tại Điều 159 BLTTDS 2004 sửa

đổi, bổ sung 2011 và Điều 607 BLDS 2005 (Quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại là 02 năm) và đã đình chỉ yêu cầu của bà T và ơng H.
Tuy nhiên, theo Tồ án cấp phúc thẩm lại cho rằng theo quy định tại Điều 24
BLDS 2005 (khoản 1 Điều 25 BLDS 2015) thì danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân
thuộc về quyền nhân thân, là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác. Do vậy, cần xác định đối tượng mà nguyên đơn yêu cầu được bảo
vệ là quyền nhân thân bị xâm phạm theo quy định tại Điều 25 BLDS năm 2005 (Điều
34 BLDS 2015), căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 184 BLTTDS 2015; khoản 2
Điều 160 BLDS 2005 (Khoản 1 Điều 155 BLDS 2015), đối với yêu cầu bảo vệ quyền
nhân thân bị xâm phạm thì khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

- Vụ án thứ hai: Tranh chấp “Đòi bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
14

xâm hại” giữa ơng Nguyễn Văn H với chị Hồng Thị L .
13Bản án 10/2018/DS-PT ngày 22/01/2018 của Tịa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về tranh chấp “Đòi bồi
thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm”, truy
cập ngày 15/3/2020
14
Bản án 05/2017/ST-DS ngày 17/8/2017 của Tịa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về
tranh chấp “Đòi bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm”,
205t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 15/3/2020


12
Ngày 05/6/2017 ơng H có Đơn khởi kiện chị L với nội dung: Vào ngày
08/02/2016 (ngày mùng 01 tết âm lịch) trong khi gia đình ơng khơng có ở nhà thì
chị L đến nhà chửi bới, xúc phạm đến tổ tiên gia đình, dọa giết ơng và gây mất trật
tự đồng thời có những lời lẽ chửi bới nói xấu làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín,
nhân phẩm của ông H và gia đình. Khi ông nhận được tin, ông đã về nhà và thấy chị

L nằm ngất trước cửa nhà, lúc này có nhiều người trong gia đình chị L có mặt vào
hùa nói xấu gia đình ơng. Cho rằng ngày mùng 1 tết có người đến chửi bới, xúc
phạm nói lảm nhảm là gia đình gặp xui xẻo, để mọi người xung quanh nghi ngờ
chuyện gia đình ông có bùa, ông H nhận thấy danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại
nên ơng u cầu Tịa án giải quyết buộc chị L phải bồi thường các khoản thiệt hại
gồm tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 15.000.000 đồng.
Về thời hiệu khởi kiện Tòa án đã nhận định: Yêu cầu khởi kiện trong thời hạn
luật định. Tịa án đã xác định tranh chấp giữa ơng H với chị L tính từ ngày
08/02/2016 (ơng H biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm) đến ngày
05/6/2017 (ơng H có Đơn khởi kiện) là vẫn còn trong thời hạn 03 năm theo quy
15

định chung về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
Qua hai vụ án nêu trên, cho thấy có sự xung đột về việc lựa chọn thời hiệu loại
nào để làm cơ sở giải quyết tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay
yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân đối với tranh chấp “Yêu cầu bồi thường thiệt hại do
danh dự nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm”, vấn đề này có các quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất: Đây là trường hợp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng có thời hiệu khởi kiện được áp dụng theo quy định riêng biệt về
thời hiệu đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Điều 588 Bộ luật
dân sự 2015 là 3 năm (Điều 607 BLDS 2005 là 02 năm) - Quan điểm của các Tòa
án cấp sơ thẩm trong hai vụ án nêu trên.
Quan điểm thứ hai: Ngược lại với quan điểm trên thì Tịa cấp phúc thẩm (Tịa án
tỉnh Bắc Giang) xem xét theo hướng đối tượng yêu cầu được bảo vệ trong tranh chấp
trên là quyền nhân thân, nên đây là trường hợp khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền nhân
thân không gắn với tài sản, do đó thuộc đối tượng khơng áp dụng thời hiệu khởi kiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLDS năm 2015 (khoản 2 Điều 160 BLDS 2005).
Quan điểm của tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi lẽ, danh dự nhân
phẩm, uy tín của cá nhân là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân là bất khả
xâm phạm, cần được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối. Khi có hành vi xâm phạm

15

Điều 588 Bộ luật Dân sự 2015


13
đến danh dự nhân phẩm của mình, theo các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân được
pháp luật quy định, ngồi quyền khởi kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết
buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai thì cá
nhân cịn có quyền u cầu “bồi thường thiệt hại”. u cầu bồi thường thiệt hại có
thể phát sinh cùng lúc với các yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân khác trong cùng một
vụ án, hoặc có thể phát sinh sau khi các hành vi xâm phạm quyền đã chấm dứt trong
một vụ án riêng biệt. Tuy nhiên, yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm phát sinh theo trường hợp nào trong hai trường hợp nêu
trên, về bản chất đều là yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản nên
thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Do đó, tác giả đồng tình với
hướng giải quyết của Tòa án tỉnh Bắc Giang.
- Kiến nghị:
Do pháp luật chưa định nghĩa rõ ràng thế nào là quyền nhân thân gắn với tài
sản, việc hiểu khác nhau về khái niệm này và sự mâu thuẫn trong quy định của pháp
luật đã dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Từ đó tác giả có những
kiến nghị sau nhằm góp phần làm rõ và thống nhất áp dụng pháp luật trên thực tế.
Thứ nhất là cần xác định rõ thế nào quyền nhân thân gắn với tài sản để phân biệt
với quyền nhân thân không gắn với tài sản, từ đó chúng ta sẽ xác định được yêu cầu
bảo vệ quyền nhân thân đó có thuộc trường hợp có tính thời hiệu khởi kiện hay khơng.

Khoản 1 Điều 25 BLDS 2015 định nghĩa “Quyền nhân thân được quy định
trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Đây là khái
niệm chung về quyền nhân thân, pháp luật về dân sự chưa phân định rõ ràng thế nào

là quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản.
Quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền tự nhiên của mỗi cá
nhân, nó thể hiện giá trị tinh thần đối với mỗi cá nhân, các quyền này được quy định
từ đều 26 đến đều 39 của BLDS 2015. “Các quyền nhân thân không gắn với tài sản
này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, khơng
phụ thuộc vào bất cứ hồn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó.
Các quyền nhân thân này thể hiện giá trị tinh thần của chủ thể đối với chính bản
thân mình, ln gắn với chính bản thân người đó và khơng dịch chuyển được sang
chủ thể khác”

16

16Bùi Đăng Hiếu, “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”, />/11/18/23/06/4086, truy cập ngày 09/11/2019


14
Quyền nhân thân gắn với tài sản chúng ta có thể hiểu là quyền này xuất phát
từ cá nhân tạo ra mà nó mang đến một giá trị, tạo ra tài sản vơ hình đối với cá nhân
đó. Theo quan điểm của Bùi Đăng Hiếu thì “Các quyền nhân thân gắn với tài sản
chỉ được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản vơ hình (như tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán
dẫn, giống cây trồng, …). Đây là quyền nhân thân của chủ thể đối với tài sản vơ
17

hình mà người đó sáng tạo ra” . Đây là những quyền có thể được chuyển giao
theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Từ đó, cho thấy rằng khái niệm về quyền
nhân thân theo quy định tại khoản 1 Điều 25 là quyền nhân thân khơng gắn với tài
sản vì theo khái niệm này thì quyền nhân thân có hai đặc điểm cơ bản là “gắn liền
với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác”.
Việc xác định quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn

với tài sản trên thực tế vẫn còn một số quan điểm khác nhau, từ đó dẫn đến việc áp
dụng thời hiệu khởi kiện khác nhau trên thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
của người dân. Do đó, việc nghiên cứu để hoàn thiện quy định này là cần thiết trong
thời gian tới.
Thứ hai là vấn đề xác định yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm có áp dụng thời hiệu khởi kiện hay khơng.
Hiện nay trên thực tế có các quan điểm khác nhau về việc xác định vấn này,
cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đây không phải là yêu cầu bảo vệ quyền nhân
thân mà đây là quyền tài sản, do đó vẫn phải áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều
588 BLDS 2015. Vì chủ thể bị xâm phạm có yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó
có thiệt hại về chất và thiệt hại về tinh thần, những thiệt hại được trị giá bằng tiền,
nên đây là quyền tài sản chứ không phải quyền nhân thân.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Đây là yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân gắn với
tài sản nên vẫn áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 588 BLDS 2015
là 3 năm. Vì danh dự nhân phẩm, uy tín là quyền nhân thân của mỗi cá nhân, khi bị
xâm phạm thì người bị xâm phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nên xác
định đây là quyền nhân thân gắn với tài sản.
Quan điểm thứ ba (cũng là quan điểm của tác giả) cho rằng: Như đã phân tích
thế nào là quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài
17Bùi Đăng Hiếu, “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân”, />/11/18/23/06/4086, truy cập ngày 09/11/2019


15
sản. Thì quyền nhân thân là quyền gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển
giao cho người khác. Danh dự, nhân phẩm, uy tín gắn liền với mỗi cá nhân và
không thể chuyển giao được cho chủ thể nào khác. Khi quyền này bị xâm cá nhân
đó có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ. “Cá nhân bị
thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngồi quyền u
cầu bác bỏ thơng tin đó cịn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải

18

chính cơng khai và bồi thường thiệt hại” .
Từ đó để thống nhất trong áp dụng pháp luật góp phần hoàn thiện pháp luật
tác giả kiến nghị:
Thứ nhất là cần xác định yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm là yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản
thuộc đối tượng không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Điều 155 BLDS 2015;
Thứ hai là cần sửa đổi quy định tại Điều 588 BLDS 2015 như sau: “Thời hiệu
khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu
cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường
hợp thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm”.
Thứ ba là trong thời gian BLDS 2015 chưa sửa đổi, bổ sung Tòa án nhân dân
tối cao nên có hướng dẫn, giải đáp để thống nhất áp dụng pháp luật nhằm hạn chế
việc hủy, sửa án trên thực tế.

18

Khoản 5 Điều 34 BLDS 2015



×