BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HỒNG OANH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC CÔNG CHỨNG
BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC CÔNG CHỨNG
BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Lê Minh Hùng
Học viên
: Nguyễn Thị Hồng Oanh
Lớp
: Cao học Luật, Phú n Khố 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan rằng tồn bộ nội dung luận văn “Trách nhiệm bồi thường
của tổ chức hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị
tuyên bố vô hiệu” là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên cứu của bản thân tơi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Lê Minh Hùng. Những phần sử dụng tài
liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong phần trích dẫn tài liệu tham
khảo. Các bản án, thông tin được nêu trong luận văn là trung thực và hồn tồn
chính xác, đúng sự thật.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoàng Oanh
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
TỪ VIẾT TẮT
TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT
1
BLDS
Bộ luật dân sự
2
BTTH
Bồi thường thiệt hại
3
CCV
Công chứng viên
4
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
5
TAND
Tịa án nhân dân
6
TCHNCC
Tổ chức hành nghề cơng chứng
7
TNDS
Trách nhiệm dân sự
8
VPCC
Văn phịng cơng chứng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA
TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC
CÔNG CHỨNG BỊ TUYÊN BỐ VƠ HIỆU........................................................... 8
1.1. Việc cơng chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự vô
hiệu, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác .. 9
1.1.1. Việc công chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự được
công chứng bị tuyên bố vô hiệu............................................................................ 9
1.1.2. Giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại cho
người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác........................................ 16
1.2. Có lỗi của cơng chứng viên, nhân viên, người phiên dịch là cộng tác viên
của tổ chức hành nghề công chứng................................................................... 24
1.2.1. Lỗi của công chứng viên.......................................................................... 25
1.2.2. Lỗi của nhân viên, người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành
nghề công chứng................................................................................................ 28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1....................................................................................... 33
CHƯƠNG 2. XÁC ĐỊNH MỨC BỒI THƯỜNG VÀ NGƯỜI CHỊU TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC CÔNG CHỨNG
BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU...................................................................................... 34
2.1. Xác định mức bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao
dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vơ hiệu.......................................... 34
2.1.1. Trường hợp bồi thường tồn bộ............................................................... 34
2.1.2. Trường hợp bồi thường một phần............................................................ 35
2.2. Người chịu trách nhiệm bồi thường khi giao dịch dân sự được cơng
chứng bị tun bố vơ hiệu.................................................................................. 36
2.2.1. Có căn cứ xác định tổ chức hành nghề công chứng là bên có trách nhiệm
bồi thường.......................................................................................................... 37
2.2.2. Trách nhiệm hồn lại của công chứng viên, nhân viên, người phiên dịch
là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng......................................... 41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2....................................................................................... 45
KẾT LUẬN............................................................................................................. 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, các giao dịch dân sự mà
đối tượng giao dịch là đất đai, nhà ở, liên quan đến bất động sản ngày càng nhiều.
Theo quy định của BLDS năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014
thì hầu hết các giao dịch dân sự mà đối tượng là đất đai, nhà ở, liên quan đến bất
động sản cần phải được cơng chứng. Thực tiễn có khơng ít giao dịch dân sự được
cơng chứng bị Tịa án tun bố vô hiệu. Và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vơ
1
hiệu là “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” . Như vậy, khi hợp đồng, giao
dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu có thể đặt ra trách nhiệm BTTH
đối với TCHNCC.
Luật Công chứng năm 2014 quy định công chứng là việc cơng chứng viên của
một TCHNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
2
nguyện yêu cầu công chứng . Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 quy định quyền và
nghĩa vụ của CCV, trong đó tại điểm g, điểm k khoản 2 quy định CCV chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản cơng chứng của
mình và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan. Bên cạnh đó, tại Điều 38 Luật Cơng chứng năm 2014 cũng quy
định về bồi thường, bồi hồn trong hoạt động cơng chứng. Theo đó, (1) TCHNCC phải
BTTH cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà CCV, nhân
viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong q trình
cơng chứng; (2) CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại
phải hoàn trả lại một khoản tiền cho TCHNCC đã chi trả khoản tiền bồi thường cho
người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp khơng hồn trả thì TCHNCC
có quyền u cầu Tòa án giải quyết.
Như vậy, BLDS năm 2015 và Luật Cơng chứng năm 2014 đã quy định mang
tính ngun tắc về trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự được
cơng chứng bị vơ hiệu. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra trong vấn đề
bồi thường của TCHNCC như khi nào thì phát sinh trách nhiệm bồi thường của
TCHNCC, nội dung bồi thường như thế nào, mức bồi thường và việc hoàn trả của
1 Khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015.
2 Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014.
2
CCV như thế nào cho TCHNCC sau khi bồi thường. Thực tiễn xét xử có Tịa đề cập
đến trách nhiệm BTTH của TCHNCC, tuy nhiên chưa xác định rõ căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường, chủ thể được bồi thường là người yêu cầu công chứng hay
bên thứ ba trong giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu.
Xuất phát từ những những lý do trên, tác giả nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành để làm rõ nội dung liên quan đến “Trách nhiệm bồi
thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị
tuyên bố vô hiệu” với mong muốn góp phần hồn thiện các vấn đề về lý luận và
thực tiễn đối với quy định này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu xảy ra khá nhiều
trong thực tiễn xét xử hiện nay, đã đặt ra vấn đề là phải xác định rõ TNDS mà cụ thể
là trách nhiệm BTTH của TCHNCC, đây là nội dung quan trọng để giải quyết hậu
quả pháp lý khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu. Qua tìm hiểu các quy định
pháp luật cũng như thực tiễn xét xử cho thấy “Trách nhiệm bồi thường của tổ chức
hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu”
là một nội dung khá phức tạp trong pháp luật dân sự Việt Nam, đến nay đã có một
số cơng trình nghiên cứu với các cấp độ khác nhau, trong đó, các cơng trình nổi bật
có thể kể đến như:
* Về giáo trình
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức - Hội luật gia
Việt Nam. Giáo trình đã trình bày các vấn đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm
BTTH như: khái niệm và đặc điểm TNDS, các loại TNDS… làm nền tảng lý luận
để tác giả nghiên cứu đề tài này.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập
2), NXB Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình phân tích các vấn đề lý luận chung
và các trường hợp cụ thể về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng về phương diện lý
luận (Chương X), nhưng chưa đi sâu phân tích các vấn đề có liên quan đến trách
nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô
hiệu.
* Về sách chuyên khảo, bình luận khoa học, tài liệu tham khảo khác
- Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân
sự năm 2015, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Cơng trình khoa học này
3
giới thiệu và bình luận chuyên sâu những điểm mới của BLDS năm 2015 so với
BLDS năm 2005, theo đó có những điểm mới trong các quy định chung về giao
dịch dân sự, hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu; TNDS; căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc BTTH cũng như năng lực BTTH và những
điểm mới có liên quan đến những trường hợp bồi thường cụ thể. Đây là cơ sở hướng
dẫn tác giả nghiên cứu pháp luật thực định khi nghiên cứu và giải quyết vấn đề của
đề tài.
- Đỗ Văn Đại (xuất bản lần thứ tư), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án, tập 1 và 2, NXB Hồng Đức - Hội Luật
gia Việt Nam. Thơng qua bình luận các bản án, tác giả Đỗ Văn Đại đã chỉ ra những
khó khăn, vướng mắc khi giải quyết BTTH do công chứng viên gây ra, phân tích
các khía cạnh pháp lý của vấn đề BTTH ngồi hợp đồng, có đối chiếu so sánh với
pháp luật nước ngoài để làm sáng tỏ sự thuyết phục hay khơng thuyết phục khi áp
dụng pháp luật BTTH ngồi hợp đồng ở Việt Nam. Tác giả đã có những phân tích,
bình luận về căn cứ áp dụng pháp luật, điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do
CCV gây ra, đối chiếu, so sánh với pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, tác giả Đỗ Văn
Đại chủ yếu đi sâu vào phân tích trách nhiệm bồi thường do
CCV gây ra đối với người thứ ba, chứ khơng phân tích trách nhiệm bồi thường của
CCV đối với người yêu cầu công chứng, đồng thời cũng chưa đi sâu phân tích làm
rõ bản chất pháp lý quan hệ BTTH do công chứng viên gây ra trong hoạt động cơng
chứng. Chính vì vậy, đề tài sẽ có những nghiên cứu bổ sung thêm về những vấn đề
còn chưa được nghiên cứu.
- Lê Minh Hùng (2015), Hình thức của hợp đồng, NXB Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam: Sách chuyên khảo đặc biệt chỉ riêng duy nhất một vấn đề về
hình thức của hợp đồng, với sự chuyên sâu về nội dung liên quan tới các hình thức
của hợp đồng theo quy định của pháp luật nói chung và các trường hợp hợp đồng
phải tn thủ theo quy định về hình thức cơng chứng, chứng thực nói riêng, chỉ ra
những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề hình thức bắt buộc của
hợp đồng, xử lý hậu quả pháp lý khi hợp đồng vi phạm về hình thức luật định. Sách
cơng bố trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và khơng có nội dung liên quan tới
trách nhiệm của TCHNCC khi công chứng các hợp đồng không đúng quy định của
pháp luật, dẫn tới bị tuyên bố vô hiệu. Luận văn của tác giả nghiên cứu chuyên biệt
vấn đề trách nhiệm của tổ chức công chứng khi hợp đồng có cơng chứng bị tun bố
vơ hiệu, nên khơng trùng lặp với nội dung của quyển sách,
4
nhưng các nội dung liên quan tới lý do pháp luật quy định hợp đồng phải tuân theo
hình thức “bắt buộc”, căn cứ tuyên bố hợp đồng vô hiệu, xử lý hậu quả khi hợp
đồng bị tuyên bố vô hiệu nói chung trong sách này là tiền đề lý luận và những gợi
ý rất quan trọng để tác giả hoàn thành việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
- Tuấn Đạo Thanh (2013), Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự
trong hoạt động công chứng, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác giả Tuấn Đạo Thanh đã
có những phân tích, luận giải về trách nhiệm BTTH của CCV, của TCHNCC trên
cơ sở quy định của pháp luật, từ đó đã có những đề xuất kiến nghị nhằm hồn thiện
các quy định của pháp luật về vấn đề BTTH của CCV, TCHNCC. Mặc dù đã phát
hiện được hầu hết các vấn đề vướng mắc, bất cập về vấn đề TNDS của hoạt động
công chứng trong các quy định pháp luật hiện hành, nhưng tác giả Tuấn Đạo Thanh
cũng mới chỉ nghiên cứu về mặt lý luận mà khơng có những thực tiễn về bồi thường
của CCV, của TCHNCC nên tính thuyết phục chưa cao.
* Một số luận văn cao học nghiên cứu các đề tài có liên quan đến vấn đề
này như:
- Luận văn Thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Tổ
chức và hoạt động của TCHNCC (từ thực tiễn Tiền Giang và Bến Tre)” của tác giả
Bùi Thị Ngọc Điệp (năm 2011). Tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận
và thực tiễn cho việc hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở Việt Nam;
cung cấp một số cơ sở thực tiễn để ngành Tư pháp và cơ quan có thẩm quyền ở các
tỉnh, thành phố nói chung, tỉnh Tiền Giang và Bến Tre nói riêng định hướng xây
dựng quy hoạch phát triển TCHNCC, tạo điều kiện thuận lợi cho các Phịng Cơng
chứng và Văn phịng Cơng chứng cạnh tranh lành mạnh và hoạt động có hiệu quả.
- Luận văn Thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Bồi
thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng” của tác
giả Đỗ Quốc Dũng (năm 2016). Tác giả Đỗ Quốc Dũng tập trung nghiên cứu những
vấn đề cơ bản về BTTH do CCV gây ra trong hoạt động công chứng, đưa ra luận cứ
khoa học để xác định bản chất pháp lý của vấn đề BTTH do CCV gây ra. Phân tích
cơ sở pháp lý và thực tiễn giải quyết BTTH, điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH
của CCV. Giúp nắm bắt và hiểu được các quy định của pháp luật về BTTH do CCV
gây ra một cách hệ thống... Những vấn đề được nêu trong luận văn của tác giả Đỗ
Quốc Dũng có giá trị tham khảo, bổ sung cho tác giả khi nghiên cứu về vấn đề mà
đề tài đã giải quyết.
5
* Các bài viết của nhiều tác giả khác nhau được đăng trên các tạp chí
khoa học pháp lý chuyên ngành
- Đỗ Văn Đại (2011), “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra”,
Nghiên cứu lập pháp, (14), tr.44-52. Tác giả Đỗ Văn Đại đã phân tích cơ sở pháp lý,
giải quyết BTTH và điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do cơng chứng viên gây
ra. Từ đó, tác giả cho rằng khi giải quyết yêu cầu BTTH do CCV gây ra cần phân
biệt người bị thiệt hại là người yêu cầu công chứng hay không yêu cầu công chứng
và tuỳ trường hợp thì áp dụng Luật Cơng chứng năm 2006 hay BLDS và không nên
áp dụng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để tạo sự công bằng giữa các
cơng chứng viên của Phịng cơng chứng và Văn phịng cơng chứng. Tác giả Đỗ Văn
Đại chưa phân tích sâu về xác định thiệt hại do CCV gây ra trong hoạt động công
chứng, hơn nữa Luật Công chứng năm 2014 đã có sự điều chỉnh về vấn
đề BTTH cho nên bài viết vẫn còn những vấn đề tồn tại nhất định.
- Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân (7). Tác giả phân tích về khái
niệm lỗi, các yếu tố của lỗi được quy định trong pháp luật nước ngoài và pháp luật
Việt Nam. Đây là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do
TCHNCC gây ra, cần được lưu tâm trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ chủ yếu tập trung về vấn đề BTTH ngồi
hợp đồng nói chung, về vấn đề nghiên cứu trách nhiệm liên đới mới chỉ dừng lại ở
khía cạnh nghiên cứu mang tính chất tổng thể, chỉ ra những vấn đề chung nhất.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Trách nhiệm bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao
dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu” được nghiên cứu nhằm góp phần
làm sáng tỏ những quy định về trách nhiệm bồi thường của TCHNCC và các bên có
lỗi trong giao dịch dân sự. Trong đề tài luận văn thạc sĩ này, tác giả sẽ làm rõ thêm
những vấn đề có liên quan, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật trong vấn đề Luận văn đang nghiên cứu, bảo đảm cho việc
nhận thức và áp dụng các quy định một cách thống nhất trong thực tiễn.
Tác giả nghiên cứu đề tài này để làm rõ những vấn đề sau:
- Căn cứ làm phát sinh TNDS cụ thể là trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi
giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.
- Xác định nội dung của trách nhiệm, phạm vi BTTH đối với TCHNCC khi
giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.
6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng
pháp luật về trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự được công
chứng bị tuyên bố vô hiệu.
- Làm rõ các nội dung pháp lý quan trọng về căn cứ phát sinh trách nhiệm đối
với TCHNCC và nội dung, phạm vi của trách nhiệm khi giao dịch dân sự được công
chứng bị tuyên bố vô hiệu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm BTTH là một loại TNDS và chịu sự điều chỉnh của pháp luật
dân sự. Trong thực tiễn xét xử, xác định TNDS của TCHNCC khi giao dịch dân sự
bị tun bố vơ hiệu là trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng do CCV gây ra trong hoạt
động công chứng. Do đó, Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu vấn đề trách nhiệm
BTTH của TCHNCC được thành lập theo quy định của Luật Công chứng năm 2014
khi giao dịch dân sự được CCV thuộc TCHNCC này công chứng bị tun bố vơ
hiệu. Trách nhiệm đó được quy định như thế nào trong pháp luật thực định, từ đó
đối chiếu với thực tiễn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm
ở Việt Nam. Đề tài không nghiên cứu so sánh với pháp luật nước ngồi.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng để xác định nền tảng cho lý luận nhận thức liên quan
đến đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu chính được tác giả sử dụng là
phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh. Phương pháp phân tích,
tổng hợp được sử dụng chung cho cả luận văn; phương pháp so sánh là giúp cho
người đọc có cách nhìn tổng quát, rõ ràng về nội dung của đề tài và các nội dung
liên quan. Tác giả áp dụng khi nghiên cứu, đánh giá pháp luật thực định và so sánh
những điểm mới của BLDS năm 2015 với BLDS năm 2005, Luật Công chứng năm
2014 chủ yếu sử dụng ở phần đầu của các chương 1, 2.
Bên cạnh đó, phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp bình luận án sử
dụng chủ yếu ở phần cuối các chương 1, 2 khi đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật,
bình luận các bản án trong thực tiễn,... để từ đó đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện
và áp dụng thống nhất pháp luật.
Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp khác như: quy nạp, thống
kê các phương pháp này đều được vận dụng một cách linh hoạt, góp phần đảm bảo
7
về lý luận và thực tiễn trong xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài. Phương
pháp khảo sát thực tiễn và phương pháp logic pháp lý được sử dụng để phân tích
các bất cập của pháp luật về trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự
được công chứng bị tun bố vơ hiệu, từ đó đưa ra kiến nghị.
6. Bố cục luận văn
Ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phần mở đầu, phần kết luận, bố
cục luận văn được chia thành 02 (hai) chương:
- Chương 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường của tổ chức hành
nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.
- Chương 2: Xác định mức bồi thường và người chịu trách nhiệm bồi thường
khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.
8
CHƯƠNG 1
ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ
ĐƯỢC CÔNG CHỨNG BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử, khi xác định trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng để xác định trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại, thì phải
căn cứ vào các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường. Điều kiện phát sinh
trách nhiệm BTTH nói chung được quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015, bao
gồm 03 căn cứ: (i) có thiệt hại thực tế; (ii) việc gây thiệt hại không phụ thuộc trường
hợp được pháp luật cho phép hoặc hồn tồn do lỗi của bên có quyền; (iii) có quan
hệ nhân quả giữa việc gây thiệt hại với thiệt hại thực tế. Và BTTH của TCHNCC
khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu cũng cần đáp ứng các điều kiện trên.
Theo quy định của BLDS năm 2015 thì “căn cứ làm phát sinh trách nhiệm
BTTH do người gây ra chỉ cần tồn tại yếu tố có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có
hành vi trái pháp luật (xâm phạm tới lợi ích của người khác mà không thuộc trường
hợp không chịu trách nhiệm bồi thường) và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra thì đã làm phát sinh trách nhiệm BTTH,
3
không cần xem xét người gây thiệt hại có lỗi hay khơng có lỗi” .
Theo quy định của Luật Cơng chứng năm 2014 thì TCHNCC phải BTTH
trong các trường hợp: “do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch
4
là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình cơng chứng” ; “vi phạm
quy định của Luật này thì bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại phải bồi
5
thường theo quy định của pháp luật” ; “không đủ điều kiện hành nghề công chứng
mà hành nghề cơng chứng dưới bất kỳ hình thức nào thì phải chấm dứt hành vi vi
phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
6
định của pháp luật” . Qua đó có thể đánh giá trách nhiệm BTTH của TCHNCC
phát sinh khi: (1) Việc công chứng sai quy định làm cho giao dịch dân sự được công
chứng bị tuyên bố vô hiệu dẫn đến thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá
nhân, tổ chức khác; (2) Có lỗi của cơng chứng viên, nhân viên, người phiên dịch là
cộng tác viên của TCHNCC.
3 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, (Sách chuyên khảo, xuất
bản lần thứ 2, có bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.475.
4 Điều 38 Luật Công chứng năm 2014.
5 Điều 72 Luật Công chứng năm 2014.
6 Điều 74 Luật Công chứng năm 2014.
9
1.1. Việc công chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự vô
hiệu, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác
1.1.1. Việc công chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự được
công chứng bị tuyên bố vô hiệu
Xác định việc công chứng là không đúng quy định của pháp luật phải xác định
từ hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong hoạt động công chứng là vi phạm
pháp luật về công chứng, bao gồm các quy định của pháp luật có liên quan đến hình
thức, nội dung giao dịch dân sự như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở… hay
quy trình tiếp nhận hồ sơ thực hiện cơng chứng hợp đồng, giao dịch được quy định
trong pháp luật của công chứng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của CCV.
Điểm đ khoản 1 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 thừa nhận CCV có
quyền “được từ chối cơng chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật,
trái đạo đức xã hội”. Nếu thực hiện công chứng trong trường hợp này đồng nghĩa
với việc có căn cứ xác định việc công chứng là không đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, những trường hợp nào là công chứng không đúng quy định của pháp luật.
Tác giả đưa ra các trường hợp sau:
(1) Trường hợp việc công chứng thuộc các hành vi bị cấm
Các trường hợp CCV không được công chứng theo điểm b, c khoản 1 Điều 7
Luật Công chứng năm 2014:
(i) Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng,
giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều
kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành vi
gian dối khác. BLDS năm 2015 quy định hợp đồng, giao dịch, bản dịch khi có mục
đích và nội dung trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hay giả tạo thì dù trước hay sau khi
cơng chứng đều khơng có giá trị pháp lý. Các hành vi gian dối có thể đến từ chính
người u cầu cơng chứng mặc dù Luật Công chứng năm 2014 đã nghiêm cấm theo
quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 7: “người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin,
tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái
pháp luật để yêu cầu công chứng” hay “người làm chứng, người phiên dịch có hành vi
gian dối, khơng trung thực”. Hay các hành vi gian dối cịn có thể có sự tham gia của
chính các CCV, do vậy Luật Cơng chứng năm 2014 quy định đây là hành vi bị cấm nếu
vi phạm, TCHNCC sẽ phải BTTH cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức
khác do lỗi mà CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức
mình gây ra trong q trình cơng chứng.
10
(ii) Cơng chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi
ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ
đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con
dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là
con của con đẻ, con nuôi. Trường hợp này sẽ không đảm bảo tính khách quan vì văn
bản được u cầu cơng chứng có nội dung liên quan đến quyền lợi của bản thân
CCV hoặc những người thân thích trong gia đình của CCV.
(2) Trường hợp công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn
Khoản 5, 6 Điều 40 Luật Công chứng năm 2014 quy định hai trường hợp
CCV có quyền từ chối cơng chứng:
(i) Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ u cầu cơng chứng có
vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép,
có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối
tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mơ tả cụ thể thì CCV đề nghị người yêu
cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, CCV tiến
hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền
từ chối cơng chứng. Hồ sơ yêu cầu công chứng bao gồm các giấy tờ, tài liệu liên
quan đến văn bản được yêu cầu công chứng, chính vì vậy, việc CCV xem xét các
giấy tờ này chính là đang đánh giá tính hợp pháp của văn bản được yêu cầu công
chứng. Nếu đánh giá không cẩn thận, khơng chính xác thì sẽ có rủi ro xảy ra.
(ii) CCV kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng,
giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp
đồng, giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật thì CCV phải chỉ rõ cho
người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người u cầu cơng chứng
khơng sửa chữa thì CCV có quyền từ chối công chứng. Thực tế, các hợp đồng, giao
dịch đã được soạn thảo sẵn có thể được soạn bởi nhiều chủ thể, không tránh khỏi
trường hợp người soạn thảo thiếu kiến thức pháp luật, thiếu trình độ chun mơn.
CCV qua quá trình kiểm tra sẽ phát hiện và hỗ trợ người yêu cầu công chứng sửa
đổi, bổ sung các vấn đề này và CCV có quyền từ chối cơng chứng nếu người yêu
cầu công chứng không làm rõ các nghi vấn có liên quan.
(3) Trường hợp cơng chứng di chúc
Khoản 2 Điều 56 Luật Công chứng năm 2014 quy định:
(i) Trường hợp CCV nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn
11
cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì CCV
đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ
chối cơng chứng di chúc đó.
(ii) Trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe dọa thì người u cầu cơng
chứng khơng phải xuất trình đầy đủ giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng nhưng
phải ghi rõ trong văn bản công chứng, gồm:
- Phiếu yêu cầu công chứng;
- Dự thảo hợp đồng, giao dịch;
- Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ
thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến
tài sản đó;
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy
định phải có.
Thực tế hiện nay, việc để lại di chúc khá phổ biến và thường liên quan đến
những tài sản có giá trị lớn. Tuy nhiên khơng phải di chúc nào cũng được công nhận
là hợp pháp, đặc biệt là trường hợp người thừa kế lợi dụng quy định này để làm giả
di chúc nhằm mục đích chiếm đoạt phần tài sản. Một bản di chúc hợp pháp là bản di
chúc được lập tại thời điểm mà người để lại di chúc minh mẫn sáng suốt, việc lập di
chúc và phân chia di sản theo ý chí của họ không bị lừa dối hay bị ai cưỡng ép. Nội
dung di chúc không trái quy định của pháp luật và đạo đức xã hội và bảo đảm đúng
về hình thức của di chúc. Chính vì thế, khi nghi ngờ tính hợp pháp của di chúc,
CCV phải đề nghị người lập di chúc làm rõ nếu không làm rõ được thì có quyền từ
chối cơng chứng di chúc đó bởi khi di chúc bị giả mạo không chỉ ảnh hưởng đến
bản thân người lập di chúc mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các đồng thừa kế còn lại, gây áp lực lên ngành Tòa án khi phải giải quyết các tranh
chấp thừa kế phát sinh.
(4) Trường hợp công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản
Khoản 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 quy định CCV phải kiểm tra để
xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy
chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng
pháp luật thì từ chối u cầu cơng chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công
12
chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. TCHNCC có trách nhiệm
niêm yết việc thụ lý cơng chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực
hiện việc công chứng.
Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các
căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản. Chính vì thế, CCV phải có trách
nhiệm làm rõ tính hợp pháp của loại văn bản này, ví dụ: trường hợp thừa kế theo
pháp luật, thì trong hồ sơ u cầu cơng chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ
giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về
thừa kế. trường hợp thừa kế theo di chúc thì phải có bản sao di chúc, các giấy tờ
chứng minh được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (giấy
chứng nhận kết hôn, khai sinh, giấy chứng nhận mất khả năng lao động (nếu có)…
(5) Trường hợp cơng chứng bản dịch
Khoản 4 Điều 61 Luật Công chứng năm 2014 quy định CCV không được
nhận và công chứng bản dịch trong các trường hợp CCV biết hoặc phải biết bản
chính được cấp sai thẩm quyền hoặc khơng hợp lệ; bản chính giả; giấy tờ, văn bản
được yêu cầu dịch đã bị tẩy xoá, sửa chữa, thêm, bớt hoặc bị hư hỏng, cũ nát không
thể xác định rõ nội dung; giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch thuộc bí mật nhà nước;
giấy tờ, văn bản bị cấm phổ biến theo quy định của pháp luật. Và khoản 3 Điều 61
Luật Công chứng năm 2014 quy định lời chứng của CCV đối với bản dịch phải ghi
rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên CCV, tên TCHNCC; họ tên người phiên
dịch; chứng nhận chữ ký trong bản dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch; chứng
nhận nội dung bản dịch là chính xác, khơng vi phạm pháp luật, khơng trái đạo đức
xã hội; có chữ ký của CCV và đóng dấu của TCHNCC. Như vậy, nội dung của điều
luật này đưa ra trách nhiệm của CCV phải đảm bảo nội dung bản dịch là chính xác,
khơng vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Luật Công chứng năm 2014 đã có quy định rõ ràng về các trường hợp từ chối
công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội
theo quy định của pháp luật. Nếu hoạt động công chứng nào rơi vào các hành vi
trong các trường hợp nêu trên được xem là có căn cứ xác định việc cơng chứng là
không đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử còn khá lúng túng trong việc xác định hành vi của
CCV trong trường hợp người yêu cầu công chứng sử dụng giấy tờ, tài liệu giả mạo.
Hiện nay, việc làm giấy tờ giả ngày càng tinh vi, rất khó phát hiện bằng mắt thường,
13
gây khó khăn cho CCV trong thực hiện hoạt động công chứng. Mặc dù, cơ sở dữ
liệu công chứng đã được triển khai thực hiện trên cả nước, là công cụ hỗ trợ CCV
trong việc phát hiện các giấy tờ, tài liệu giả mạo, sai lệch sự thật; tuy nhiên, một số
địa phương chưa đủ điều kiện áp dụng hoặc đã thực hiện nhưng chưa liên kết với cơ
sở dữ liệu hộ tịch, đăng ký giao dịch bảo đảm,… dẫn đến nhiều hệ lụy khi có sai
phạm xảy ra.
Tình huống thứ nhất: Ngày 21/6/2019, Phịng Cơng chứng X tiếp nhận yêu
cầu chứng nhận hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn
7
nhà số 247 đường T, phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh . Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Phước H, bà Đặng Thị Kim O tuyên bố
hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với căn nhà trên
được ký giữa ông H, bà O do bà Trần Phượng L đại diện theo ủy quyền (theo hợp
đồng ủy quyền số công chứng 846 ngày 31/05/2019 tại VPCC L) với ông Phạm Văn
T là vơ hiệu.
Tịa án cấp phúc thẩm nhận định: Căn nhà số 247 đường T, phường M, quận N,
Thành phố Hồ chí Minh thuộc quyền sở hữu của ơng Nguyễn Phước H và bà Đặng Thị
Kim O khi chào bán nhà đã bị đối tượng không rõ thân nhân lai lịch đánh tráo Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, sau đó các đối tượng giả chữ
ký tên và viết tên chủ sở hữu là ông H và bà O ủy quyền cho bà Trần Phượng L theo
hợp đồng ủy quyền trên. Sau đó bà L dùng hợp đồng ủy quyền này bán căn nhà trên
cho ông T theo hợp đồng mua bán này 21/6/2019 tại Phịng Cơng chứng X. Xét hợp
đồng ủy quyền, chủ sở hữu là ông H, bà O không ủy quyền cho bà L, chữ ký, chữ viết
tên trong hợp đồng ủy quyền không phải của ông H và bà O (Thể hiện tại bản kết luận
giám định số 1369/KLGĐ ngày 14/8/2019 của Phịng Kỹ thuật Hình sự Cơng an Thành
phố Hồ Chí Minh). Theo quy định tại Điều 123, 131 BLDS năm 2015, hợp đồng ủy
quyền này vô hiệu do vi phạm điều cấm. Vì hợp đồng ủy quyền vô hiệu nên hợp đồng
mua bán nhà cũng vô hiệu theo. Phịng Cơng chứng X, Thành phố Hồ Chí Minh khơng
có lỗi khi cơng chứng hợp đồng mua bán nhà.
Tồ án cấp phúc thẩm nhận định Phịng Cơng chứng X khơng có lỗi nhưng hành
vi cơng chứng của CCV có được xem là khơng đúng quy định của pháp luật hay
không? Theo tác giả, trong trường hợp này, CCV có thể từ chối cơng chứng hợp đồng
nếu nhận thấy có dấu hiệu vi phạm. Mặc dù Luật Cơng chứng năm 2014 quy định có
7 Bản án dân sự phúc thẩm số 233/2021/DS-PT ngày 16/3/2021 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh u cầu
tun bố văn bản cơng chứng vơ hiệu.
14
căn cứ xác định việc công chứng là không đúng quy định của pháp luật nếu rơi vào
trường hợp này. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ hành vi này để xác định trách nhiệm BTTH
của TCHNCC là chưa phù hợp. Bởi vì, có trường hợp xuất phát từ lý do giấy tờ, tài liệu
được làm giả quá tinh vi, cũng có trường hợp CCV thiếu kỹ năng, trách nhiệm trong
việc nhận định, xem xét các tài liệu, giấy tờ kèm theo hồ sơ công chứng, dẫn đến hợp
đồng công chứng bị tuyên bố vô hiệu. Nếu đưa ra một cách giải quyết chung cho các
trường hợp có thể xảy ra là không đảm bảo công bằng cho TCHNCC cũng như quyền
lợi của bên bị thiệt hại. Để hạn chế rủi ro xảy ra trong những tình huống tương tự cho
CCV và TCHNCC cũng như để công tác xét xử được dễ dàng và giảm thiểu tình trạng
làm giả giấy tờ, tài liệu, tác giả kiến nghị như sau:
Kiến nghị thứ nhất: Luật Công chứng năm 2014 nên quy định cụ thể trường
hợp CCV “thấy rõ” hoặc “không thấy rõ” các dấu hiệu giấy tờ giả mạo, làm sai
lệch, sửa chữa trái pháp luật,…. Tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 7 Luật Công chứng theo hướng: “người yêu cầu công chứng cung
cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa,
sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng trừ trường hợp các dấu hiệu giả
mạo trên giấy tờ, tài liệu quá tinh vi, bằng mắt thường không thể nhận biết được”.
Đồng thời, để tăng sức răn đe, hạn chế những rủi ro xảy ra trong hoạt động công
chứng và tạo hành lang pháp lý an tồn, Chính phủ cần quy định rõ trường hợp nào cá
nhân, tổ chức có hành vi sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền cấp để được công chứng hợp đồng, giao dịch để từ đó
người có thẩm quyền căn cứ thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trên thực tế.
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP cần giải thích cụ thể thế nào là “sửa chữa làm sai lệch
nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để được công
chứng hợp đồng, giao dịch mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” nhằm phân định
rõ ràng giữa xử phạt hành chính và xử lý hình sự.
Tình huống thứ hai: Ông Tài khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên bán là vợ
chồng ông Tài và bà Phương bên mua là vợ chồng ơng Tình và bà Lan, hợp đồng
được cơng chứng ngày tại Phịng cơng chứng số 2 tỉnh Đăk Lăk với lý do ông
8
không biết về hợp đồng này, không ký hay điểm chỉ vào hợp đồng . Tòa án cấp sơ
thẩm khơng chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tài về việc
8 Quyết định giám đốc thẩm số 02/2021/DS-GĐT ngày 04/02/2021 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
15
yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Tịa án cấp phúc thẩm khơng chấp
nhận nội dung đơn kháng cáo của ông Tài. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm nêu
trên. Tại Quyết định giám đốc thẩm, Tịa án quyết định khơng chấp quyết định
kháng nghị, giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm với nhận định: Xét thấy, Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/3/2014 vi phạm cả về nội dung và
hình thức. Vì, hợp đồng có 02 tờ, 03 trang nhưng khơng có chữ ký của người
chuyển nhượng là ông Tài, bà Phương tại trang 1 và trang 2 của hợp đồng là vi
phạm khoản 6 Điều 35 Luật công chứng năm 2006 “… Trường hợp người u cầu
cơng chứng đồng ý tồn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào
từng trang của hợp đồng, giao dịch …”. Phịng kỹ thuật hình sự Cơng an tỉnh Đăk
Lăk, kết luận: “Chữ ký, chữ viết mang tên ơng Hồng Văn Tài dưới mục “Bên A,
bên chuyển nhượng” ở trang 3 trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(ký hiệu A1) so với chữ ký, chữ viết đứng tên Hoàng Văn Tài trong các tài liệu mẫu
so sánh ký hiệu M1, M2, M3, M4 là không phải do cùng một người ký ra”. Bà
Phương thừa nhận chữ ký trong hợp đồng là của bà. Chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
là chi trả số tiền nêu trên, trả quỹ tín dụng nợ chung 490 triệu đồng, trả nợ cũ bà Lan
470 triệu đồng, bà Phương nhận lại số tiền 130 triệu đồng.
Như vậy, tuy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/3/2014
chỉ có bà Phương ký hợp đồng chuyển nhượng cho ơng Tình, bà Lan; vợ chồng bà
Lan đã giao đủ tiền chuyển nhượng cho bà Phương; ơng Tài có biết nhưng khơng
phản đối. Tịa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm, Ủy ban Thẩm phán TAND
cấp cao tại Đà Nẵng áp dụng Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 để khơng chấp
nhận u cầu địi nhà của ơng Tài đối với bà Lan, ơng Tình là có cơ sở.
Tác giả thấy rằng, Án lệ số 04/2016/AL là cơ sở để áp dụng pháp luật tương
tự, tuy nhiên, tình huống trên CCV vẫn có những sai sót khi cơng chứng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng do văn bản công chứng không vô hiệu
nên không phát sinh trách nhiệm BTTH của TCHNCC. Mặc dù ông Tài biết mà
không phản đối, nhưng về mặt pháp lý vẫn có sự sai sót trong hoạt động cơng
chứng. Để hạn chế sự vô hiệu của hợp đồng công chứng, TAND tối cao đã có án lệ
số 04/2016/AL nhằm thống nhất trong công tác xét xử, nhưng nếu hợp đồng có q
nhiều sai sót thì nên xem xét lại có nên áp dụng án lệ hay khơng. Án lệ là cơ sở
quan trọng để áp dụng tương tự pháp luật, nhưng theo quan điểm của tác giả, vẫn có
những ngoại lệ, bất cập nếu áp dụng án lệ một cách cứng nhắc mà khơng xem xét
một cách tồn diện về nội dung và hình thức của hợp đồng.