BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐÌNH KHANG
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8083104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Tường Vy
Học viên
: Nguyễn Đình Khang
Lớp
: Cao học Luật, khóa 32
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi,
chưa được công bố ở các cơng trình nghiên cứu khác, việc sử dụng tài liệu tham
khảo của tác giả khác được sử dụng trích dẫn đúng quy định. Bản án được sử
dụng để bình luận là có thật, thực tiễn trong q trình xét xử và đã có hiệu lực
pháp luật trên cả nước. Nếu không đúng như đã nêu, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Người cam đoan
Nguyễn Đình Khang
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Viết tắt
1
Bộ luật hình sự
BLHS
2
Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTHS
11
Hội đồng xét xử
HĐXX
6
Hình sự phúc thẩm
HSPT
5
Hình sự sơ thẩm
HSST
7
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
LDTNCĐTS
4
Tòa án nhân dân
TAND
3
Tòa án nhân dân Tối Cao.
TANDTC
9
Trách nhiệm hình sự
TNHS
8
Thơng tư liên tịch
TTLT
10
Viện kiểm sát nhân dân
VKSND
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ .. 7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản......................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .................... 7
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .. 9
1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác trong Luật hình sự Việt Nam .................................................... 14
1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) ...................................................... 14
1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản và vi phạm giao dịch dân
sự .................................................................................................................... 15
1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS)
với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 355
BLHS) ............................................................................................................. 18
1.3. Khái quát về lịch sử hình thành, phát triển tội lạm dụng chiếm đoạt
tài sản trong luật hình sự Việt Nam .............................................................. 19
1.3.1. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản từ năm 1945 đến
trước năm 1985 .............................................................................................. 19
1.3.2. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1985 ....................................................................... 21
1.3.3. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999 ....................................................................... 22
1.3.4. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015 ....................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM
HỒN THIỆN QUY ĐỊNH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................... 29
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam .......................................... 29
2.1.1. Khái quát tình hình tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản từ năm 2016-2021
trên địa bàn cả nước ...................................................................................... 29
2.1.2. Một số bất cập trong việc quy định và áp dụng các quy định của BLHS
hiện hành về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản ............................................... 32
2.1.3. Nguyên nhân của những bất cập vướng mắc ...................................... 46
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ................................................................ 47
2.2.1. Nhu cầu, yêu cầu của hoàn thiện quy định của Luật hình sự Việt Nam
về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản ................................................................ 47
2.2.2. Một số kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ................................................................. 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 59
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các tội xâm phạm sở hữu là nhóm tội phạm khá phổ biến trên thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự, các vụ án chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tội phạm.
Đặc biệt khi nền kinh tế đất nước bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, các quan
hệ kinh tế được mở rộng thì nhóm tội phạm này càng gia tăng về số lượng và
tính chất nguy hiểm cho xã hội, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra gần đây đã gây nhiều
biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà Nước, tổ chức cũng như tài
sản của công dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội, mơi trường đầu tư,
cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, việc xử lý loại tội phạm này trong
thực tiễn còn rất nhiều sai sót như: trong điều tra thu thập chứng cứ, trong việc
xác định tội danh và quyết định hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ dân
sự, quan hệ kinh tế và "phi hình sự hóa" trong đấu tranh chống tội phạm…
Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là do chưa nhận thức đúng đắn quy định
của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dẫn đến việc các cơ
quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định tội danh, quyết
định hình phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được yêu cầu
đấu tranh phịng và chống tội phạm.
Mặt khác, trình độ năng lực của một số ít điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán còn hạn chế, chưa thật sự gắn trách nhiệm cá nhân với nhiệm vụ được
phân công; chưa thực hiện đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ đã quy định; lãnh đạo
một số cơ quan tố tụng còng buông lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, phân công cán
bộ chưa hợp với năng lực, sở trường. Những vướng mắc này đặt ra cho các nhà
nghiên cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt lý luận cũng như bản
chất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm cơ sở cho nhận thức
thống nhất về vấn đề này trong thực tiễn.
Từ những nhận thức trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là loại tội được quy định từ rất
sớm cho nên nó khơng phải là vấn đề mới và đã có nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu, các bài viết đề cập đến loại tội phạm này có thể kể đến những cơng
trình nghiên cứu như sau:
2.1. Sách chuyên khảo, giáo trình
- PGS.TS. Cao Thị Oanh chủ biên, “Các tội phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt tài sản”, năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Cơng trình đã nghiên
cứu, phân tích và đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về các tội phạm
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản trong đó có tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, đồng thời khảo sát thực tiễn xét xử qua các bản án
được thu thập ngẫu nhiên ở các địa phương khác nhau để tìm ra những sai sót để
từ đó đi đến hồn thiện pháp luật;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh, “Lí luận về định tội danh”, 2013, Nxb. Khoa
học xã hội nghiên cứu về lí luận, phương thức để định tội danh sao cho đúng với
các quy định của pháp luật. Cuôsn sách này cung cấp cho học viên những
phương pháp quan trọng trong việc định tội danh tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
- TS.Trần Văn Biên & TS.Đinh Thế Hưng, Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015, 2019, Nxb.Thế Giới. Trong cơng trình này đồng tác giả đã
phân tích và bình luận tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ quy
định của BLHS năm 2015.
Ngồi ra cịn kể đến các Giáo trình như :Trường Đại học luật Hà
Nội(2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội; Trường Đại học luật Tphcm, Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần các tội
phạm,(2020) NXB. Hồng Đức.
2.2. Các luận án, luận văn
- Luận án tiến sỹ luật học “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ
thực tiễn TPHCM” Dương Thị Hải Yến- Học viện KHXH, năm 2018. Luận án
đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực trạng định tội danh, quyết định hình phạt
3
đối với tội phạm này tại TP. Hồ Chí Minh từ năm 2006-2016 đồng thời đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố xét xử tội lạm dụng chiếm
đoạt tài sản từ thực tiễn TPHCM.
- Luận văn thạc sỹ của Vũ Thị Oanh Kiều, “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”,
năm 2017, Học viện Khoa học xã hơi ; Hồng Thị Kim Chi(2017), Định tội danh
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Hai luận
văn này các tác giả đã phân tích những vấn đề về lý luận cũng như những quy
định của BLHS năm 1999 của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trên
cơ sở khảo sát thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của tội này trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, tác giả đã phân tích những hạn chế
vướng mắc đối với hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ đó tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội này.
2.3. Các bài báo khoa học
Ngoài các cơng trình nghiên cứu nêu trên, cịn rất nhiều bài viết trên các
tạp chí
chuyên ngành, như Tạp chí Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao,
Tạp chí Tịa Án nhân dân, trên rất nhiều số đã đề cập đến loại tội này trên nhiều
góc độ, khía cạnh khác nhau như:Trần Duy Bình(2002), “Tội Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản- một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hồn
thiện” Tạp Chí Tồ án nhân dân, số 22/2012, Hà Nôi; Đinh Văn Quế, Những
điểm mới của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định trong Bộ
luật hình sự, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 8/2016, Tr15-16; bài viết của tác giả
Lê Văn Luật “Bà Phạm Thị D có phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS hay
khơng?”, tạp chí TAND số 3 (2/2004); tác giả Võ Hồng Sơn có bài “Xử lý hành
vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi có sự kiện chủ nợ bãi nại cho con
nợ”, Tạp chí Kiểm sát số 7/2004; bài viết của tác giả Nguyễn Mai Hương “Định
tội danh đối với hành vi “Làm giả hồ sơ bảo hiểm chiếm đoạt tài sản”, đăng trên
tạp chí Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số13/2014;…
4
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đạt được những thành tựu nhất định
trong công cuộc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá,
nhận xét những điểm mà nhà làm luật đã làm được trong thời gian vừa qua để
từ đó có thể đi đến việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng;
đánh giá những bất cập, hạn chế mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa làm được;
hay những quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc
áp dụng pháp luật…đây là những vấn đề mà luận văn của tác giả tiếp thu và
kế thừa.
Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ
khái qt, hoặc có những cơng trình chỉ nghiên cứu trong phạm vi một địa
phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Giang…hoặc có một số cơng trình
nghiên cứu tại thời điểm BLHS cũ đã hết hiệu lực. Vì vậy, trong luận văn này tác
giả cần nghiên cứu bổ sung những vấn đề lý luận, pháp luật cũng như thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
quy định của BLHS năm 2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục đích nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo đảm
định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, bảo đảm tăng cường hiệu quả hoạt động phòng, chống tội phạm nói
chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã được xác định như trên, đề tài cần phải thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, pháp luật về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích làm rõ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước giai đoạn 20162020, từ đó làm rõ những hạn chế, vướng mắc, bất cập, cũng như nguyên nhân
của những hạn chế, vướng mắc, bất cập này.
5
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt
đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu về lí luận là làm rõ tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 BLHS 2015, như
vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
- Về mặt thực tiễn, đề tài giới hạn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm
vi cả nước giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.
Luận văn cũng giới hạn việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật ở hai
hoạt động chính là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, lịch sử.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tiến hành phân tích
và tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu nhằm tìm hiểu cụ
thể quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đồng thời, Luận văn
tiến hành tổng hợp từng vấn đề lý luận đã phân tích, nhằm xây dựng một số lý
luận mới đầy đủ và cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
6
- Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập và tổng hợp các số liệu
về thực trạng áp dụng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhằm đánh
giá tình hình tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và
khác nhau trong quy định của BLHS hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản với một số tội phạm khác có liên quan, để từ đó rút ra được những
ưu điểm và hạn chế trong quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu tiến trình hình thành và
phát triển qua từng thời kỳ của quy định pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài này có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn áp dụng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong hoạt động giải
quyết các vụ án hình sự. Đối với các nhà lập pháp, các cơ quan thực thi pháp luật
thì những phát hiện của đề tài về những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự
hiện hành cũng như trong quá trình thực hiện và các kiến nghị nêu ra đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể được xem xét, góp phần hồn thiện
pháp luật . Kết quả nghiên cứu đề tài cũng là một nguồn tài liệu tham khảo cho
người đọc khi học tập, nghiên cứu hoặc đơn thuần là tìm hiểu tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn gồm hai chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự
Chương 2. Thực tiễn áp dụng và những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “lạm dụng” được hiểu là “dùng, sử
dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định”1
Trong Thông tư số 03/BTP/TT năm 1976 lần đầu cụm từ lạm dụng được
định nghĩa về mặt pháp lý khi giải thích hành vi bội tín “Bội tín (hoặc lạm dụng
tín nhiệm) khác lừa đảo… sau khi nhận được một cơng việc nào đó( qua thoả
thuận miệng hoặc quá ký kết hợp đồng..) kẻ được giao tài sản đã không thực
hiện được nghĩa vụ cam kết, lại lợi dụng sự tín nhiệm nào đó để chiếm đoạt một
phần hoặc toàn bộ tài sản”2
Đối với thuật ngữ tín nhiệm được hiểu là “tin tưởng mà giao phó, trơng
cậy vào nhiệm vụ, sự việc cụ thể nào đó”3. Chiếm đoạt được định nghĩa “là hành
vi cố ý (trực tiếp) làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực tế thực hiện quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản của mình và tạo ra
cho người phạm tội khả năng thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái
pháp luật tài sản đó.
Các tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng có quan điểm: Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê
tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình
thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
khơng trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có
khả năng trả lại tài sản. 4
Hồng Phê (2005), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngơn Học, NXB. Văn Lang, Hà Nội
Bộ tư pháp, Thông tư số 03/BTT-TT
3
Hoàng Phê (2005), tlđd (1), tr.109
4
Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017, Nxb Thế Giới, Hà Nội.
1
2
8
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại
học luật Tp. Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về tội LDTNCĐTS như sau: “Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
giá trị từ ....”5
Khái niệm của tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng và của Trường
Đại học Luật Hà Nội hay Giáo trình của Trường Đại học luật Tp. HCM đều đã
nêu được bản chất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (LDTNCĐTS )
là hành vi chiếm đoạt tài sản với các thủ đoạn đặc trưng của tội này. Tuy nhiên,
các khái niệm này vẫn chưa nêu lên được yếu tố chủ thể, khách thể và lỗi của tội
này. Tác giả cho rằng các quan điểm nêu trên đều có những nhân tố hợp lý, đã
nêu lên được bản chất và các thủ đoạn của của hành vi LDTN CĐTS là tiếp cận
tài sản bằng các hình thức hợp pháp như vay, mượn rồi sau đó dùng các thủ đoạn
gian dối nhằm CĐTS.
Trong BLHS năm 2015 thì tội LDTN CĐTS được quy định tại Điều 175
thuộc chương XVI, thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, là
“hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở
hữu tài sản thành tài sản của mình”
Tuy nhiên, để xây dựng khái niệm hồn chỉnh về tội LDTN CĐTS thì theo
tác giả khái niệm cần phản ánh được các dấu hiệu chủ thể, khách thể, các yếu tố
đặc trưng của mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm này.Trên cơ sở kế
thừa về mặt lý luận cũng như những quan điểm của các nhà khoa học và quy
định tại Điều 175 BLHS năm 2015, tác giả đưa ra khái niệm tội LDTN CĐTS
như sau: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi của người có
năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi luật định, thực hiện một cách cố ý
chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của người khác thành tài
sản của mình bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian
dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc
dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
5
Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình luật hình sự Phần các tội phạm, Nxb. Hồng Đức.
9
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1.Các dấu hiệu định tội
* Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại tới.6 Mỗi tội phạm xâm hại khách thể chung, khách thể loại,
khách thể trực tiếp. Tội LDTN CĐTS được quy định tại Điều 175 Chương XVI,
thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu. Khách thể trực tiếp của tội này là quyền sở
hữu tài sản của người khác. Theo Bộ luật dân sự( BLDS) năm 2015 thì “Quyền
sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo quy định của luật”7. Như vậy, hành vi LDTN CĐTS đã làm cho
người quản lý tài sản hợp pháp mất khả năng chiếm hữu (nắm giữ, chi phối tài
sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp), sử dụng (khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản), định đoạt (quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ
quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản).
Tuy nhiên, không phải tất cả các tài sản theo quy định tại Điều 105 BLDS
năm 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” đều là đối tượng
của tội LDTN CĐTS. Các loại đối tượng đặc biệt như vũ khí quân dụng, tàu bay,
tàu biển, đất đai... là đối tượng tác động của tội phạm khác (xâm phạm khách thể
khác được luật hình sự bảo vệ như chế độ quản lý của nhà nước về vũ khí...).
Ngồi ra, đối với tài sản là giấy tờ có giá phải là giấy tớ có giá vơ danh như séc, cổ
phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, cơng trái...các loại giấy tờ này khi bị chiếm
đoạt thì quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởngvà có khả năng xác lập
quyền sở hữu cho người phạm tội. Mặt khác, đối với tài sản là quyền tài sản (là
quyền trị giá được bằng tiền có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự) như quyền
sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất...không phải là đối tượng tác động của tội này.
* Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới
khách quan của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ giữa hành vi và
hậu quả cũng như các yếu tố công cụ, phương tiện phạm tội.
6
7
Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình luật hình sự Phần Chung, Nxb. Hồng Đức
Quốc Hội, Bộ Luật dân sự năm 2015, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2016
10
- Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi khách quan của tội LDTN CĐTS được thể hiện dưới dạng hành
động, đó là hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi này được hiểu là người phạm tội
cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của
chủ thể khác thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng
nhiều phương pháp, thủ đoạn khác, những thủ đoạn mà người phạm tội dùng để
chiếm đoạt tài sản được thực hiện chủ yếu bằng hình thức:
+ Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó; hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình khơng trả.
+ Vay, mượn, th tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
Trong quá trình xác định hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội
được thưc hiện bởi các thủ đoạn gian dối cần lưu ý một số vấn đề:
Thứ nhất, đối với hành vi bỏ trốn của người phạm tội cần phải xem xét một
cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khách quan như lo sợ chủ nợ uy hiếp,
thay đổi nghề nghiệp… thì khơng coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên,
trường hợp “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” vẫn chưa được các cơ quan có thẩm
quyền giải thích, hướng dẫn. Trong thực tiễn, một người sau khi vay, mượn, thuê
tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn, nhưng để chứng minh họ có bỏ
trốn, nhằm chiếm đoạt tài sản hay khơng là vấn đề cịn nhiều vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho
rằng, chỉ cần xác định được tình tiết một người nào đó sau khi nhận được tài sản
bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn không trả tài sản cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp là đủ cơ sở kết luận người đó phạm tội LDTN CĐTS,
khơng phụ thuộc vào lý do bỏ trốn của họ là nhằm mục đích gì. Đa số các chun
gia cho rằng, “bỏ trốn” quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015 không nhất thiết
phải là trốn khỏi địa phương, cũng không cần Cơ quan điều tra phải truy nã, mà
11
chỉ trốn tránh chủ nợ như: Bỏ ra khỏi nhà, không nghe điện thoại, không trả lời tin
nhắn, thay số điện thoại, thay đổi chỗ ở mà không thông báo cho chủ nợ biết…
miễn sao tránh mặt được chủ nợ8 Trong khi đó, thực tế đã chứng minh, khơng phải
tất cả mọi trường hợp bỏ trốn đều có ý thức chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, tình tiết “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình khơng trả”. Hành vi “cố tình khơng trả” là hành vi vi phạm
nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này làm cho
chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình trên thực tế và
tạo cho chủ thể (vay, mượn, thuê… tài sản) khả năng chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản đó như tài sản của mình. Như vậy, hành vi đó là hành vi chiếm đoạt
và mang bản chất của hành vi LDTN CĐTS.
Thứ ba, đối với trường hợp người phạm tội có được tài sản đã sử dụng
tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài
sản. Về quy định này, có ý kiến cho rằng, chỉ cần xác định người phạm tội sử
dụng tài sản đó vào mục đích khơng được pháp luật cho phép là bất hợp pháp
như: khi vay nói là để đầu tư ni tơm, nhưng lại đem trả nợ ngân hàng để
không bị chịu lãi quá hạn hoặc đem tiền vay được sử dụng vào mục đích
khơng đúng như lời hứa với chủ nợ là bất hợp pháp. Tuy nhiên, đa số ý kiến
cho rằng, cách hiểu bất hợp pháp như ý kiến trên là quá rộng và cũng khơng
phù hợp với dấu hiệu “chiếm đoạt”, vì người phạm tội khơng có ý định chiếm
đoạt, mà muốn dùng số tiền vay được trả nợ hoặc đầu tư, sản xuất rồi sẽ trả
người cho vay. Nhưng nếu dùng số tiền vay được sử dụng vào mục đích phạm
tội thì phải coi là bất hợp pháp như: Đánh bạc, bn lậu, đưa hối lộ… dẫn đến
khơng cịn khả năng trả nợ.9
Tuy nhiên, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản
đó vào “mục đích bất hợp pháp”, như: Buôn lậu, mua bán ma túy, đánh bạc…
dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản, mới bị coi là phạm tội. Còn đối với các
trường hợp vay, mượn tiền với số lượng lớn, sau đó sử dụng vào việc ăn chơi,
tiêu xài hoang phí dẫn đến khơng có khả năng trả nợ, lại khơng thể truy cứu
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “ Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát số 3/2021
9
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tạp chí kiểm sát. Số TCKS số 03/2021” Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
8
12
trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu
xài… tuy có trái với đạo đức xã hội nhưng lại không được xem là việc làm “bất
hợp pháp”. Thực tế hiện nay, các vụ vỡ nợ, hụi lên đến hàng tỷ đồng xảy ra phổ
biến ở nhiều địa phương đã làm cho bao người điêu đứng vì mất tiền, nhưng xử
lý hình sự các trường hợp này lại gặp nhiều khó khăn, chưa có sự thống nhất
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí, nếu xử lý sẽ bị quy kết là “Hình sự
hóa các quan hệ dân sự, kinh tế”.
- Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Hành vi LDTNCĐTS được cấu thành khi thuộc một trong các trường hợp
sau: (i) Giá trị của tài sản chiếm đoạt của người khác từ 4.000.000 đồng trở lên;
(ii) Giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc
về một trong các tội về xâm phạm sở hữu khác, như: tội Cướp tài sản, tội Bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản, tội Cưỡng đoạt tài sản, tội Cướp giật tài sản, tội Công
nhiên chiếm đoạt tài sản, tội Trộm cắp tài sản, tội Sử dụng mạng máy tính, mạng
Viễn thơng, phương tiện Điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng
chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
(iii) Tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống của chính người bị hại
hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với Người bị hại và gia đình họ.
- Mối quan hệ nhân quả
Hành vi chiếm đoạt trong tội LDTN CĐTS phải xảy ra trước hậu quả về mặt
thời gian. Hành vi chiếm đoạt tài sản phải chứa đựng khả năng thực tế, nguyên nhân
trực tiếp làm phát sinh hậu quả và hậu quả thiệt hại phải là sự hiện thực hóa khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi chiếm đoạt bằng các thủ đoạn vay,
mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các
hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
* Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm
tội10. Mặt chủ quan của tội LDTNCĐTS bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Đối
10
Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (6)
13
với tội LDTNCĐTS được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Theo đó, người phạm
tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình bằng thủ đoạn vay, mượn,
thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người khác thơng qua các hình thức hợp
đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối nhằm CĐTS hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản
đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản của
mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả tài sản của
người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó.
- Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội
đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội11 Mục đích chiếm đoạt tài
sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội LDTNCĐTS. Đối với tội LDTNCĐTS
thì mục đích của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt được tài sản. Mục đích
chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành
vi chiếm đoạt sản.
* Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chủ thể của tội phạm là người đủ năng lực TNHS và đủ độ tuổi theo quy
định của pháp luật. Đối chiếu với quy định tại Điều 12, Điều 21 BLHS năm 2015,
thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội
LDTN CĐTS quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015. Đồng thời, CTTP tội này
khơng địi hỏi người thực hiện hành vi phạm tội phải có những dấu hiệu đặc biệt,
nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.Như vậy, chủ thể của tội
LDTN CĐTS là bất kì người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS.
1.1.2.2. Các dấu hiệu định khung hình phạt
Trong Điều 175 BLHS năm 2015, tội LDTN CĐTS, ngoài khung cơ bản ở
Khoản 1, các dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định ở các Khoản 2,3,4.
- Khung tăng nặng thứ nhất quy định tại Khoản 2 Điều 175, có mức phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm, được áp dụng cho những trường hợp phạm tội khi có
một trong các tình tiết sau: Có tổ chức; có tính chất chun nghiệp; chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn
hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm.
11
Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (6)
14
- Khung tăng nặng thứ hai được quy định tại Khoản 3 Điều 175 BLHS
năm 2015, có mức phạt tù từ 05 năm đến 12 năm được áp dụng cho trường hợp
phạm tội gây thiệt hại từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
-Khung tăng nặng thứ ba được quy định tại Khoản 4 Điều 175 BLHS năm
2015, có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được áp cho trường hợp phạm tội
gây thiệt hại có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên.
1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác trong Luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174 BLHS năm
2015 và tội LDTN CĐTS được quy định tại điều 175 BLHS năm 2015. Tuy
nhiên, trong thực tiễn xét xử thường có sự nhầm lẫn giữa hai tội này, đặc biệt là
đối với các trường hợp vay nợ đến thời hạn khơng thanh tốn. Sở dĩ có sự nhầm
lẫn này vì ở cả hai tội đều có hành vi gian dối khi thực hiện tội phạm và đều có
thể thực hiện qua hợp đồng. Vì vậy, để phân biệt sự khác nhau giữa hai tội này ta
có thể dựa vào những căn cứ sau:
Một là, mặc dù đều có thủ đoạn gian dối nhưng bản chất của nó ở mỡi tội
phạm lại khác nhau. Thủ đoạn gian dối khơng những có ở tội lừa đảo mà cịn có ở
tội lạm dụng tín nhiệm, tham ơ tài sản…Điều khác nhau là ở mối quan hệ pháp lý
vốn có giữa tài sản bị chiếm đoạt với người phạm tội hoặc ở ý nghĩa của sự gian
dối. Điều luật mô tả về tội lừa đảo quy định: “người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản…” như vậy, Tội lừa đảo gồm hai hành vi: gian dối và chiếm
đoạt tài sản. Trong đó gian dối là tiền đề, là điều kiện cho việc chiếm đoạt tài sản,
vì thế, gian dối là thủ đoạn chiếm đoạt của tội lừa đảo, là bản chất đồng thời cũng
là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của CTTP. Tất cả mọi trường hợp cấu
thành tội lừa đảo đều phải được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối.
Ở tội lạm dụng tín nhiệm, mặc dù điều luật không mô tả nhưng được hiểu
là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lợi dụng tín nhiệm của chủ tài sản với nhiều
cách, có thể bỏ trốn, giả mạo bị mất hàng, bị người khác chiếm đoạt, đánh tráo,
rút bớt tài sản….Như vậy, thủ đoạn gian dối không phải là duy nhất để chiếm
15
đoạt tài sản của tội lạm dụng tín nhiệm nên nó khơng phải là dấu hiệu bắt buộc
của CTTP. Đây là sự khác biệt giữa tội Lừa đảo và tội lạm dụng tín nhiệm.
Hai là, về thời điểm của thủ đoạn gian dối ở tội lừa đảo phải xảy ra trước
khi chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối được tạo ra bởi các thông tin sai sự
thật làm cho người bị hại lầm tưởng tự nguyện trao tài sản, ý định chiếm đoạt tài
sản của người phạm tội có trước khi thực hiện hành vi gian dối. Trái lại, ở tội
lạm dụng tín nhiệm người phạm tội nhận tài sản một cách ngay thẳng hợp pháp
thông qua một hợp đồng dân sự, kinh tế. Trước và trong khi nhận tài sản người
phạm tội khơng có ý định chiếm đoạt tài sản. Chỉ sau đó, trong q trình thực
hiện hợp đồng mới xuất hiện ý định chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối.
Thực tiễn có trường hợp ở tội lạm dụng tín nhiệm trước khi nhận tài sản cũng có
thể có hành vi gian dối nhưng khơng phải với mục đích chiếm đoạt tài sản mà
chỉ nhằm mục đích ký kết được hợp đồng vay, mượn tài sản.
Ba là, về thời điểm hoàn thành tội phạm, ở Tội lừa đảo, thời điểm hồn
thành khi người phạm tội có được tài sản do người bị hại tự nguyện trao tài sản
vì bị lầm tưởng. Cịn ở tội lạm dụng tín nhiệm, thời điểm hồn thành khi người
phạm tội có hành vi chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm đoạt này xảy ra sau khi
người phạm tội nhận tài sản ngay thẳng hợp pháp, muộn hơn so với thời điểm
hoàn thành của tội lừa đảo- khi nhận được tài sản của người bị hại.
Bốn là, về mức tối thiểu giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong cấu thành cơ
bản: Theo quy định tại Điều 174 BLHS, mức tối thiểu về giá trị tài sản bị chiếm
đoạt để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là
từ 2 triệu đồng trở lên, nhưng tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” lại
quy định từ 4 triệu đồng trở lên.
1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản và vi phạm giao dịch
dân sự
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
với xu hướng tồn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến các giao
dịch dân sự, kinh doanh, thương mại phát sinh ngày càng phong phú và đa dạng.
Do đó, ranh giới giữa các quan hệ này với hành vi phạm tội chiếm đoạt tài sản
rất mong manh, có những trường hợp xác định không đúng ranh giới giữa hành
16
vi chiếm đoạt và vi phạm giao dịch dân sự dẫn đến tình trạng “hình sự hóa” các
giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại hay “dân sự hóa” các hành vi phạm
tội, cũng như sự nhầm lẫn giữa một số tội phạm có cấu thành giống nhau.Thực
tiễn xét xử cho thấy có những vụ án xét xử có hiệu lực pháp luật nhưng bị tòa án
cấp trên hủy án và tuyên bố hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm mà
thực chất là khơng có hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, để làm sáng tỏ nội dung và
những biểu hiện của hành vi chiếm đoạt ở các hình thức chiếm đoạt là hết sức
cần thiết. Qua nghiên cứu chúng tơi có những nhận xét sau:
Tội lạm dụng tín nhiệm hay xảy ra sự nhầm lẫn giữa điều kiện phải chịu
TNHS với việc phải thực hiện nghĩa vụ dân sự, kinh tế như : vay mượn, cho thuê
tài sản, góp vốn liên doanh, đấu thầu….Sự nhầm lẫn này dẫn đến việc truy cứu
TNHS oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Theo quy định của Luật hình sự, Tội LDTNCĐTS được thực hiện bởi
hành vi gian dối, bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Trong số các thủ đoạn của tội
lạm dụng có thủ đoạn gian dối thực hiện thông qua một hợp đồng dân sự hay
kinh tế. Bằng thủ đoạn này người phạm tội nhận được tài sản ngay thẳng, hợp
pháp thơng qua hợp đồng, sau khi có tài sản mới lợi dụng tín nhiệm đó để chiếm
đoạt tài sản. Như vậy, những hành vi phạm tội này đều liên quan đến một hợp
đồng dân sự hay kinh tế, nên phân biệt các tội phạm này với vi phạm dân sự hay
kinh tế là vấn đề quan trọng.Theo quy định tại điều 394 BLDS năm 2015 và Luật
thương mại năm 2015 thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Việc vi phạm cam kết trong
hợp đồng phải chịu trách nhiệm dân sự hoặc kinh tế như: Chấm dứt hành vi vi
phạm, hoàn trả lại tài sản đã chiếm hữu trái pháp luật, bồi thường thiệt hại hoặc
bị phạt tiền. Sẽ bị coi là các vi phạm khi không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về vi
phạm đó. Trên một phương diện rộng thì hành vi chiếm đoạt tài sản cũng là sự vi
phạm cam kết trong hợp đồng nhưng có điểm khác là hợp đồng dân sự, kinh tế
cũng như vi phạm các hợp đồng đó chỉ là phương tiện, thủ đoạn để người phạm
tội chiếm đoạt được tài sản. Vì vậy, TNHS chỉ đặt ra khi có sự lợi dụng hợp
đồng để chiếm đoạt tài sản của người khác, khơng có yếu tố này thì khơng thể
cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
17
Xác định yếu tố lợi dụng hợp đồng để chiếm đoạt tài sản là vấn đề khó,
phải đánh giá một cách toàn diện của từng trường hợp cụ thể, phải xem xét đầy
đủ các yếu tố khách quan và chủ quan của các bên tham gia hợp đồng, đồng thời
cũng phải đặt sự việc trong mối quan hệ kinh tế xã hội khi nó xảy ra thì mới có
thể xác định chính xác.
Qua nghiên cứu, chúng tơi thấy có thể dựa vào những căn cứ sau để xác
đinh có yếu tố lợi dụng hợp đồng để chiếm đoạt tài sản hay không:
Một là, trước và trong khi ký kết hợp đồng có gian dối hay khơng: nếu bản
hợp đồng dân sự, kinh tế là kết quả gian dối của một bên tham gia thì có thể
khẳng định rằng đã có dấu hiệu của hành vi chiếm đoạt tài sản. Sự gian dối này
được biểu hiện bằng việc khơng có khả năng để thực hiện những cam kết trong
hợp đồng nhưng vẫn cố tạo ra cho đối tác thấy được mình hồn tồn có khả năng
thực hiện các nghĩa vụ như trong cam kết của hợp đồng.(ví dụ làm giấy tờ giả
mạo để thế chấp khi vay tiền)
Hai là, trong quá trình thực hiện hợp đồng có sử dụng tiền hoặc tài sản do
vay, mượn, th, gia cơng, vận chuyển….có đúng mục đích đã thỏa thuận trong
hợp đồng hay khơng? Đây là dấu hiệu quan trọng để xác định có hay khơng có
hành vi chiếm đoạt tài sản. Việc sử dụng tiền hoặc tài sản sai mục đích phần nào
thể hiện ý đồ chiếm đoạt, nó là sự kế tục và là hậu quả của việc gian dối để ký
kết hợp đồng. Những biểu hiện của việc sử dụng tiền và tài sản sai mục đích có
thể như dùng tiền để ăn chơi, xây nhà, mua sắm trang thiết bị, trả nợ sử dụng vào
mục đích phạm tội như bn lậu, buôn bán hàng cấm, chơi số đề…
Ba là, không thực hiện các cam kết về nghĩa vụ tài sản đã ghi trong hợp
đồng, biểu hiện của căn cứ này là đến thời hạn trả nợ nhưng khơng thanh tốn
hoặc khơng có khả năng thanh tốn, cịn trong trường hợp khơng thực hiện các
cam kết trong hợp đồng nhưng đã trả lại tài sản thì khơng thể coi là có hành vi
chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, như vậy khơng có nghĩa là tất cả mọi trường hợp đến hạn thanh
toán mà khơng thanh tốn được nợ theo nghĩa vụ hợp đồng đều coi là chiếm đoạt tài
sản. Vì vậy, việc khơng thanh toán được khi đến thời hạn cam kết chỉ là một trong
các căn cứ chứ không phải là căn cứ duy nhất để xác định có yếu tố lợi dụng hợp
18
đồng để chiếm đoạt tài sản. Nếu chỉ dựa vào căn cứ này để xác định có hành vi
chiếm đoạt thì “đã đồng nhất” giữa hai khái niệm vi phạm nghĩa vụ giao (trả) tài sản
trong các quan hệ kinh tế với khái niệm chiếm đoạt tài sản quy định trong pháp luật
hình sự . Cho nên căn cứ này cần phải xem xét cùng với những căn cứ khác mới có
thể xác định đúng được. Chẳng hạn trường hợp đã đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ
nhưng không thực hiện được do tài sản vay bị người khác chiếm đoạt, do thiên tai,
làm ăn thua lỗ… nên không trả được nợ thì khơng thể kết luận là họ có hành vi
chiếm đoạt. “Người vay, mượn, nhận tài sản không có thủ đoạn gian dối khi vay,
mượn, nhận tài sản mà khơng trả được vì những lý do chính đáng, khơng có biểu
hiện chây ỳ, hoặc trốn tránh việc trả nợ, thì chỉ chịu trách nhiệm dân sự”
Bốn là, có hành vi trốn tránh hoặc chây ỳ để chiếm đoạt tài sản. Việc trốn
tránh không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đến nơi khác ngồi nơi mình cư
trú làm cho các chủ nợ khơng tìm được nơi trốn là biểu hiện của việc chiếm đoạt
tài sản. Nhưng cũng cần phân biệt với trường hợp trốn không phải để chiếm đoạt
tài sản mà để tránh mặt chủ nợ do bị hành hung hoặc để khất nợ.
Như vậy, để phân biệt hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LDTNCĐTS
với các vi phạm khác, chúng ta cần đánh giá tổng hợp những căn cứ trên để có
thể xác định yếu tố lợi dụng hợp đồng để chiếm đoạt tài sản một cách đúng đắn.
1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS)
với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS)
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá giới hạn cho phép. Giới
hạn cho phép chính là quyền hạn mà người có chức vụ có; quyền hạn này do
pháp luật quy định, thường là do luật tổ chức cơ quan, tổ chức quy định; trong
một số trường hợp quyền hạn này do một ngành luật đặc trưng cho nghề nghiệp
quy định.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và lạm dụng chức vụ, quyền hạn
cùng là hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản, người thực hiện các hành vi này
với lỗi cố ý trực tiếp và đều có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, với tội LDTNCĐTS thì người phạm tội chiếm đoạt tài sản do
chính họ đang quản lý còn đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản thì tài sản do người khác quản lý.
19
Điểm khác nhau rõ nét nhất đó là về chủ thể của hai tội danh này. Nếu tội
LDTN CĐTS thì chủ thể là người được chủ tài sản tín nhiệm giao quản lý tài
sản, là chủ thể thường, có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Đối với tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản thì ngồi các dấu hiệu trên
thì chủ thể của tội phạm này phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Tội LDTN CĐTS, người phạm tội đã thực hiện hành vi lạm dụng sự “tín
nhiệm” của chủ tài sản, chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản trong hợp
đồng. Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, người phạm
tội đã lạm dụng “chức vụ, quyền hạn” uy hiếp tinh thần chủ tài sản hoặc gian dối
hoặc dung thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản. cùng là lợi dụng sự tín nhiệm
của người khác để chiếm đoạt tài sản nhưng nguồn gốc của sự lợi dụng này là
khác nhau. Ở tội LDTN CĐTS thì sự tín nhiệm có được từ uy tín của người
phạm phạm tội, trong khi đó ở tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản sự tín nhiệm lại bắt nguồn từ chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có
được. Vì vậy, khi xác định một người có lạm dụng chức vụ, quyền hạn hay
không, trước hết phải căn cứ vào chức vụ họ đang giữ và theo pháp luật thì họ có
những quyền gì ? Nếu trong khi thi hành công vụ họ đã thực hiện vượt quá giới
hạn cho phép là lạm dụng chức vụ, quyền hạn.
Như vậy, tội LDTN CĐTS thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản mình
được giao trên cơ sở hợp đồng (lạm dụng tín nhiệm của chủ tài sản). Tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài
sản bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình (chức vụ, quyền hạn
được sử dụng như phương tiện để chiếm đoạt).
1.3. Khái quát về lịch sử hình thành, phát triển tội lạm dụng chiếm
đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản từ năm 1945
đến trước năm 1985
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hịa ra đời. Để bảo vệ chính quyền non trẻ, Nhà nước ta đã rất chú trọng đến
việc xây dựng hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội mới phát sinh, và
điều chỉnh những quan hệ tàn dư của chế độ cũ, trong đó có việc bảo vệ chế độ sở