Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Luận văn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.49 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐÌNH KHANG

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8083104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Tường Vy
Học viên
: Nguyễn Đình Khang
Lớp
: Cao học Luật, khóa 32

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi,
chưa được công bố ở các cơng trình nghiên cứu khác, việc sử dụng tài liệu tham
khảo của tác giả khác được sử dụng trích dẫn đúng quy định. Bản án được sử
dụng để bình luận là có thật, thực tiễn trong q trình xét xử và đã có hiệu lực
pháp luật trên cả nước. Nếu không đúng như đã nêu, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Người cam đoan

Nguyễn Đình Khang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Viết tắt

1

Bộ luật hình sự

BLHS

2


Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS

11

Hội đồng xét xử

HĐXX

6

Hình sự phúc thẩm

HSPT

5

Hình sự sơ thẩm

HSST

7

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

LDTNCĐTS

4


Tòa án nhân dân

TAND

3

Tòa án nhân dân Tối Cao.

TANDTC

9

Trách nhiệm hình sự

TNHS

8

Thơng tư liên tịch

TTLT

10

Viện kiểm sát nhân dân

VKSND


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ .. 7

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.......................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản....................7
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .. 9

1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác trong Luật hình sự Việt Nam.................................................... 14
1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)..................................................... 14
1.2.2. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản và vi phạm giao dịch dân
sự.................................................................................................................. 15
1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS)
với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 355
BLHS)........................................................................................................... 18
1.3. Khái quát về lịch sử hình thành, phát triển tội lạm dụng chiếm đoạt
tài sản trong luật hình sự Việt Nam............................................................. 19
1.3.1. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản từ năm 1945 đến
trước năm 1985............................................................................................. 19
1.3.2. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1985...................................................................... 21
1.3.3. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999...................................................................... 22
1.3.4. Pháp luật hình sự về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015...................................................................... 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................. 28



CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM
HỒN THIỆN QUY ĐỊNH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................................................... 29
2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam.......................................... 29
2.1.1. Khái quát tình hình tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản từ năm 2016-2021
trên địa bàn cả nước..................................................................................... 29
2.1.2. Một số bất cập trong việc quy định và áp dụng các quy định của BLHS
hiện hành về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản.............................................. 32
2.1.3. Nguyên nhân của những bất cập vướng mắc...................................... 46
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật đối với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản............................................................... 47
2.2.1. Nhu cầu, u cầu của hồn thiện quy định của Luật hình sự Việt Nam
về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản............................................................... 47
2.2.2. Một số kiến nghị bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản................................................................ 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.................................................................................. 59
KẾT LUẬN........................................................................................................ 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các tội xâm phạm sở hữu là nhóm tội phạm khá phổ biến trên thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, các vụ án chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tội phạm. Đặc biệt
khi nền kinh tế đất nước bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, các quan hệ kinh tế
được mở rộng thì nhóm tội phạm này càng gia tăng về số lượng và tính chất
nguy hiểm cho xã hội, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra gần đây đã gây nhiều
biến động trong xã hội, làm thiệt hại đến tài sản Nhà Nước, tổ chức cũng như tài
sản của công dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội, mơi trường đầu tư,
cản trở sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, việc xử lý loại tội phạm này trong
thực tiễn còn rất nhiều sai sót như: trong điều tra thu thập chứng cứ, trong việc
xác định tội danh và quyết định hình phạt, vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ dân
sự, quan hệ kinh tế và "phi hình sự hóa" trong đấu tranh chống tội phạm…
Những vấn đề trên còn tồn tại một phần là do chưa nhận thức đúng đắn quy định
của pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dẫn đến việc các cơ
quan áp dụng pháp luật còn tỏ ra lúng túng trong việc xác định tội danh, quyết
định hình phạt làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, chưa đáp ứng được u cầu
đấu tranh phịng và chống tội phạm.
Mặt khác, trình độ năng lực của một số ít điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán còn hạn chế, chưa thật sự gắn trách nhiệm cá nhân với nhiệm vụ được phân
công; chưa thực hiện đầy đủ các yêu cầu nghiệp vụ đã quy định; lãnh đạo một số
cơ quan tố tụng cịng bng lỏng quản lý, thiếu kiểm tra, phân cơng cán bộ chưa
hợp với năng lực, sở trường. Những vướng mắc này đặt ra cho các nhà nghiên
cứu luật hình sự nhiệm vụ là phải làm rõ về mặt lý luận cũng như bản chất của
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm cơ sở cho nhận thức thống nhất về
vấn đề này trong thực tiễn.
Từ những nhận thức trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là loại tội được quy định từ rất
sớm cho nên nó khơng phải là vấn đề mới và đã có nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu, các bài viết đề cập đến loại tội phạm này có thể kể đến những cơng
trình nghiên cứu như sau:

2.1. Sách chuyên khảo, giáo trình
- PGS.TS. Cao Thị Oanh chủ biên, “Các tội phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt tài sản”, năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Cơng trình đã nghiên
cứu, phân tích và đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về các tội phạm
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản trong đó có tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản, đồng thời khảo sát thực tiễn xét xử qua các bản án
được thu thập ngẫu nhiên ở các địa phương khác nhau để tìm ra những sai sót để
từ đó đi đến hồn thiện pháp luật;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh, “Lí luận về định tội danh”, 2013, Nxb. Khoa
học xã hội nghiên cứu về lí luận, phương thức để định tội danh sao cho đúng với
các quy định của pháp luật. Cuôsn sách này cung cấp cho học viên những
phương pháp quan trọng trong việc định tội danh tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản.
- TS.Trần Văn Biên & TS.Đinh Thế Hưng, Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015, 2019, Nxb.Thế Giới. Trong cơng trình này đồng tác giả đã
phân tích và bình luận tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ quy
định của BLHS năm 2015.
Ngồi ra cịn kể đến các Giáo trình như :Trường Đại học luật Hà
Nội(2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà
Nội; Trường Đại học luật Tphcm, Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần các tội
phạm,(2020) NXB. Hồng Đức.
2.2. Các luận án, luận văn
- Luận án tiến sỹ luật học “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ
thực tiễn TPHCM” Dương Thị Hải Yến- Học viện KHXH, năm 2018. Luận án
đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực trạng định tội danh, quyết định hình phạt


3
đối với tội phạm này tại TP. Hồ Chí Minh từ năm 2006-2016 đồng thời đưa ra

các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố xét xử tội lạm dụng chiếm
đoạt tài sản từ thực tiễn TPHCM.
- Luận văn thạc sỹ của Vũ Thị Oanh Kiều, “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”,
năm 2017, Học viện Khoa học xã hơi ; Hồng Thị Kim Chi(2017), Định tội
danh
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội. Hai luận
văn này các tác giả đã phân tích những vấn đề về lý luận cũng như những quy
định của BLHS năm 1999 của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trên cơ
sở khảo sát thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của tội này trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, tác giả đã phân tích những hạn chế
vướng mắc đối với hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ đó tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội này.
2.3. Các bài báo khoa học
Ngồi các cơng trình nghiên cứu nêu trên, cịn rất nhiều bài viết trên các
tạp chí
chuyên ngành, như Tạp chí Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao,
Tạp chí Tịa Án nhân dân, trên rất nhiều số đã đề cập đến loại tội này trên nhiều
góc độ, khía cạnh khác nhau như:Trần Duy Bình(2002), “Tội Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản- một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hồn
thiện” Tạp Chí Tồ án nhân dân, số 22/2012, Hà Nôi; Đinh Văn Quế, Những
điểm mới của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định trong Bộ
luật hình sự, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 8/2016, Tr15-16; bài viết của tác giả
Lê Văn Luật “Bà Phạm Thị D có phạm tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS hay
khơng?”, tạp chí TAND số 3 (2/2004); tác giả Võ Hồng Sơn có bài “Xử lý hành
vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi có sự kiện chủ nợ bãi nại cho con
nợ”, Tạp chí Kiểm sát số 7/2004; bài viết của tác giả Nguyễn Mai Hương “Định
tội danh đối với hành vi “Làm giả hồ sơ bảo hiểm chiếm đoạt tài sản”, đăng trên

tạp chí Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số13/2014;…


4
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đạt được những thành tựu nhất định
trong công cuộc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành, đánh giá,
nhận xét những điểm mà nhà làm luật đã làm được trong thời gian vừa qua để từ
đó có thể đi đến việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng; đánh
giá những bất cập, hạn chế mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa làm được; hay
những quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc áp dụng
pháp luật…đây là những vấn đề mà luận văn của tác giả tiếp thu và kế thừa.
Tuy nhiên các cơng trình nghiên cứu này chủ yếu tiếp cận ở các góc độ
khái quát, hoặc có những cơng trình chỉ nghiên cứu trong phạm vi một địa
phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Giang…hoặc có một số cơng trình
nghiên cứu tại thời điểm BLHS cũ đã hết hiệu lực. Vì vậy, trong luận văn này tác
giả cần nghiên cứu bổ sung những vấn đề lý luận, pháp luật cũng như thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo
quy định của BLHS năm 2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục đích nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo đảm
định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản, bảo đảm tăng cường hiệu quả hoạt động phịng, chống tội phạm nói
chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã được xác định như trên, đề tài cần phải thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, pháp luật về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích làm rõ thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với

tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước giai đoạn 20162020, từ đó làm rõ những hạn chế, vướng mắc, bất cập, cũng như nguyên nhân
của những hạn chế, vướng mắc, bất cập này.


5
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt
đúng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu về lí luận là làm rõ tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 BLHS 2015, như
vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
- Về mặt thực tiễn, đề tài giới hạn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm
vi cả nước giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.
Luận văn cũng giới hạn việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật ở hai
hoạt động chính là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, lịch sử.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để tiến hành phân tích

và tổng hợp một cách khái quát các nội dung cần nghiên cứu nhằm tìm hiểu cụ
thể quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đồng thời, Luận văn
tiến hành tổng hợp từng vấn đề lý luận đã phân tích, nhằm xây dựng một số lý
luận mới đầy đủ và cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản


6
- Phương pháp thống kê được sử dụng để thu thập và tổng hợp các số liệu
về thực trạng áp dụng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhằm đánh
giá tình hình tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những điểm giống nhau và
khác nhau trong quy định của BLHS hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản với một số tội phạm khác có liên quan, để từ đó rút ra được những
ưu điểm và hạn chế trong quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu tiến trình hình thành và
phát triển qua từng thời kỳ của quy định pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài này có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực
tiễn áp dụng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong hoạt động giải
quyết các vụ án hình sự. Đối với các nhà lập pháp, các cơ quan thực thi pháp luật
thì những phát hiện của đề tài về những hạn chế, bất cập của pháp luật hình sự
hiện hành cũng như trong quá trình thực hiện và các kiến nghị nêu ra đối với tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể được xem xét, góp phần hồn thiện
pháp luật . Kết quả nghiên cứu đề tài cũng là một nguồn tài liệu tham khảo cho
người đọc khi học tập, nghiên cứu hoặc đơn thuần là tìm hiểu tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn gồm hai chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự
Chương 2. Thực tiễn áp dụng và những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam


7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI LẠM DỤNG
TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo Từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “lạm dụng” được hiểu là “dùng, sử
dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định”

1

Trong Thông tư số 03/BTP/TT năm 1976 lần đầu cụm từ lạm dụng được
định nghĩa về mặt pháp lý khi giải thích hành vi bội tín “Bội tín (hoặc lạm dụng
tín nhiệm) khác lừa đảo… sau khi nhận được một cơng việc nào đó( qua thoả
thuận miệng hoặc quá ký kết hợp đồng..) kẻ được giao tài sản đã không thực
hiện được nghĩa vụ cam kết, lại lợi dụng sự tín nhiệm nào đó để chiếm đoạt một
phần hoặc toàn bộ tài sản”

2

Đối với thuật ngữ tín nhiệm được hiểu là “tin tưởng mà giao phó, trơng
3


cậy vào nhiệm vụ, sự việc cụ thể nào đó” . Chiếm đoạt được định nghĩa “là hành
vi cố ý (trực tiếp) làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực tế thực hiện quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản của mình và tạo ra
cho người phạm tội khả năng thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái
pháp luật tài sản đó.
Các tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng có quan điểm: Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê
tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức
hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc
đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng
trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả
năng trả lại tài sản.

4

1 Hoàng Phê (2005), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn Học, NXB. Văn Lang, Hà Nội
2 Bộ tư pháp, Thơng tư số 03/BTT-TT
3 Hồng Phê (2005), tlđd (1), tr.109
4 Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung

năm 2017, Nxb Thế Giới, Hà Nội.


8
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại
học luật Tp. Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về tội LDTNCĐTS như sau: “Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
giá trị từ ....”

5


Khái niệm của tác giả Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng và của Trường
Đại học Luật Hà Nội hay Giáo trình của Trường Đại học luật Tp. HCM đều đã
nêu được bản chất của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (LDTNCĐTS )
là hành vi chiếm đoạt tài sản với các thủ đoạn đặc trưng của tội này. Tuy nhiên,
các khái niệm này vẫn chưa nêu lên được yếu tố chủ thể, khách thể và lỗi của tội
này. Tác giả cho rằng các quan điểm nêu trên đều có những nhân tố hợp lý, đã
nêu lên được bản chất và các thủ đoạn của của hành vi LDTN CĐTS là tiếp cận
tài sản bằng các hình thức hợp pháp như vay, mượn rồi sau đó dùng các thủ đoạn
gian dối nhằm CĐTS.
Trong BLHS năm 2015 thì tội LDTN CĐTS được quy định tại Điều 175
thuộc chương XVI, thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, là
“hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ sở
hữu tài sản thành tài sản của mình”
Tuy nhiên, để xây dựng khái niệm hồn chỉnh về tội LDTN CĐTS thì theo
tác giả khái niệm cần phản ánh được các dấu hiệu chủ thể, khách thể, các yếu tố
đặc trưng của mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm này.Trên cơ sở kế
thừa về mặt lý luận cũng như những quan điểm của các nhà khoa học và quy
định tại Điều 175 BLHS năm 2015, tác giả đưa ra khái niệm tội LDTN CĐTS
như sau: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi của người có
năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi luật định, thực hiện một cách cố ý
chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của người khác thành
tài sản của mình bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn
gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản
mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình khơng trả; hoặc sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
5Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình luật hình sự Phần các tội phạm, Nxb. Hồng Đức.



9
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1.Các dấu hiệu định tội
* Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
6

tội phạm xâm hại tới. Mỗi tội phạm xâm hại khách thể chung, khách thể loại,
khách thể trực tiếp. Tội LDTN CĐTS được quy định tại Điều 175 Chương XVI,
thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu. Khách thể trực tiếp của tội này là quyền sở
hữu tài sản của người khác. Theo Bộ luật dân sự( BLDS) năm 2015 thì “Quyền
sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
7

chủ sở hữu theo quy định của luật” . Như vậy, hành vi LDTN CĐTS đã làm cho
người quản lý tài sản hợp pháp mất khả năng chiếm hữu (nắm giữ, chi phối tài
sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp), sử dụng (khai thác công dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản), định đoạt (quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ
quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản).
Tuy nhiên, không phải tất cả các tài sản theo quy định tại Điều 105 BLDS
năm 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” đều là đối tượng của
tội LDTN CĐTS. Các loại đối tượng đặc biệt như vũ khí quân dụng, tàu bay, tàu
biển, đất đai... là đối tượng tác động của tội phạm khác (xâm phạm khách thể khác
được luật hình sự bảo vệ như chế độ quản lý của nhà nước về vũ khí...). Ngồi ra,
đối với tài sản là giấy tờ có giá phải là giấy tớ có giá vơ danh như séc, cổ phiếu, tín
phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, cơng trái...các loại giấy tờ này khi bị chiếm đoạt thì
quyền sở hữu của chủ sở hữu mới bị ảnh hưởngvà có khả năng xác lập quyền sở
hữu cho người phạm tội. Mặt khác, đối với tài sản là quyền tài sản (là quyền trị giá
được bằng tiền có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự) như quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất...không phải là đối tượng tác động của tội này.


* Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới
khách quan của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ giữa hành vi và
hậu quả cũng như các yếu tố công cụ, phương tiện phạm tội.
6 Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình luật hình sự Phần Chung, Nxb. Hồng Đức
7 Quốc Hội, Bộ Luật dân sự năm 2015, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2016


10
- Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi khách quan của tội LDTN CĐTS được thể hiện dưới dạng hành
động, đó là hành vi chiếm đoạt tài sản, hành vi này được hiểu là người phạm tội
cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của
chủ thể khác thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng
nhiều phương pháp, thủ đoạn khác, những thủ đoạn mà người phạm tội dùng để
chiếm đoạt tài sản được thực hiện chủ yếu bằng hình thức:
+ Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó; hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình khơng trả.
+ Vay, mượn, th tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.
Trong quá trình xác định hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội
được thưc hiện bởi các thủ đoạn gian dối cần lưu ý một số vấn đề:
Thứ nhất, đối với hành vi bỏ trốn của người phạm tội cần phải xem xét một
cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu
hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khách quan như lo sợ chủ nợ uy hiếp,
thay đổi nghề nghiệp… thì khơng coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên,

trường hợp “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” vẫn chưa được các cơ quan có thẩm
quyền giải thích, hướng dẫn. Trong thực tiễn, một người sau khi vay, mượn, thuê tài
sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn, nhưng để chứng minh họ có bỏ trốn,
nhằm chiếm đoạt tài sản hay khơng là vấn đề cịn nhiều vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, chỉ
cần xác định được tình tiết một người nào đó sau khi nhận được tài sản bằng các
hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn không trả tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp là đủ cơ sở kết luận người đó phạm tội LDTN CĐTS, khơng phụ thuộc
vào lý do bỏ trốn của họ là nhằm mục đích gì. Đa số các chun gia cho rằng, “bỏ
trốn” quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015 không nhất thiết phải là trốn khỏi địa
phương, cũng không cần Cơ quan điều tra phải truy nã, mà


11
chỉ trốn tránh chủ nợ như: Bỏ ra khỏi nhà, không nghe điện thoại, không trả lời
tin nhắn, thay số điện thoại, thay đổi chỗ ở mà không thông báo cho chủ nợ
8

biết… miễn sao tránh mặt được chủ nợ Trong khi đó, thực tế đã chứng minh,
khơng phải tất cả mọi trường hợp bỏ trốn đều có ý thức chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, tình tiết “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình khơng trả”. Hành vi “cố tình khơng trả” là hành vi vi phạm
nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này làm cho
chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình trên thực tế và
tạo cho chủ thể (vay, mượn, thuê… tài sản) khả năng chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản đó như tài sản của mình. Như vậy, hành vi đó là hành vi chiếm đoạt
và mang bản chất của hành vi LDTN CĐTS.
Thứ ba, đối với trường hợp người phạm tội có được tài sản đã sử dụng tài
sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản. Về
quy định này, có ý kiến cho rằng, chỉ cần xác định người phạm tội sử dụng tài

sản đó vào mục đích khơng được pháp luật cho phép là bất hợp pháp như: khi
vay nói là để đầu tư ni tơm, nhưng lại đem trả nợ ngân hàng để không bị chịu
lãi quá hạn hoặc đem tiền vay được sử dụng vào mục đích không đúng như lời
hứa với chủ nợ là bất hợp pháp. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng, cách hiểu bất
hợp pháp như ý kiến trên là quá rộng và cũng khơng phù hợp với dấu hiệu
“chiếm đoạt”, vì người phạm tội khơng có ý định chiếm đoạt, mà muốn dùng số
tiền vay được trả nợ hoặc đầu tư, sản xuất rồi sẽ trả người cho vay. Nhưng nếu
dùng số tiền vay được sử dụng vào mục đích phạm tội thì phải coi là bất hợp
pháp như: Đánh bạc, bn lậu, đưa hối lộ… dẫn đến khơng cịn khả năng trả nợ.

9

Tuy nhiên, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản
đó vào “mục đích bất hợp pháp”, như: Bn lậu, mua bán ma túy, đánh bạc…
dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản, mới bị coi là phạm tội. Còn đối với các
trường hợp vay, mượn tiền với số lượng lớn, sau đó sử dụng vào việc ăn chơi,
tiêu xài hoang phí dẫn đến khơng có khả năng trả nợ, lại không thể truy cứu
8 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “ Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát số 3/2021
9 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tạp chí kiểm sát. Số TCKS số 03/2021” Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”


12
trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu
xài… tuy có trái với đạo đức xã hội nhưng lại không được xem là việc làm “bất
hợp pháp”. Thực tế hiện nay, các vụ vỡ nợ, hụi lên đến hàng tỷ đồng xảy ra phổ
biến ở nhiều địa phương đã làm cho bao người điêu đứng vì mất tiền, nhưng xử
lý hình sự các trường hợp này lại gặp nhiều khó khăn, chưa có sự thống nhất
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí, nếu xử lý sẽ bị quy kết là “Hình sự

hóa các quan hệ dân sự, kinh tế”.
- Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Hành vi LDTNCĐTS được cấu thành khi thuộc một trong các trường hợp
sau: (i) Giá trị của tài sản chiếm đoạt của người khác từ 4.000.000 đồng trở lên;
(ii) Giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc
về một trong các tội về xâm phạm sở hữu khác, như: tội Cướp tài sản, tội Bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản, tội Cưỡng đoạt tài sản, tội Cướp giật tài sản, tội Công
nhiên chiếm đoạt tài sản, tội Trộm cắp tài sản, tội Sử dụng mạng máy tính, mạng
Viễn thơng, phương tiện Điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng
chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
(iii) Tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống của chính người bị hại
hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với Người bị hại và gia đình họ.

- Mối quan hệ nhân quả
Hành vi chiếm đoạt trong tội LDTN CĐTS phải xảy ra trước hậu quả về mặt
thời gian. Hành vi chiếm đoạt tài sản phải chứa đựng khả năng thực tế, nguyên nhân
trực tiếp làm phát sinh hậu quả và hậu quả thiệt hại phải là sự hiện thực hóa khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi chiếm đoạt bằng các thủ đoạn vay,
mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các
hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản.

* Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm
10

tội . Mặt chủ quan của tội LDTNCĐTS bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Đối
10


Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (6)


13
với tội LDTNCĐTS được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Theo đó, người phạm
tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình bằng thủ đoạn vay, mượn,
thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người khác thơng qua các hình thức hợp
đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối nhằm CĐTS hoặc bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản
đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản của
mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả tài sản của
người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó.
- Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của người phạm tội
11

đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội Mục đích chiếm đoạt tài
sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội LDTNCĐTS. Đối với tội LDTNCĐTS
thì mục đích của người phạm tội là nhằm chiếm đoạt được tài sản. Mục đích
chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành
vi chiếm đoạt sản.
* Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chủ thể của tội phạm là người đủ năng lực TNHS và đủ độ tuổi theo quy định
của pháp luật. Đối chiếu với quy định tại Điều 12, Điều 21 BLHS năm 2015, thì
người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội
LDTN CĐTS quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015. Đồng thời, CTTP tội này
khơng địi hỏi người thực hiện hành vi phạm tội phải có những dấu hiệu đặc biệt,
nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.Như vậy, chủ thể của tội
LDTN CĐTS là bất kì người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS.

1.1.2.2. Các dấu hiệu định khung hình phạt
Trong Điều 175 BLHS năm 2015, tội LDTN CĐTS, ngoài khung cơ bản ở

Khoản 1, các dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định ở các Khoản 2,3,4.
- Khung tăng nặng thứ nhất quy định tại Khoản 2 Điều 175, có mức phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm, được áp dụng cho những trường hợp phạm tội khi có
một trong các tình tiết sau: Có tổ chức; có tính chất chun nghiệp; chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn
hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm.
11

Đại học luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (6)


14
- Khung tăng nặng thứ hai được quy định tại Khoản 3 Điều 175 BLHS
năm 2015, có mức phạt tù từ 05 năm đến 12 năm được áp dụng cho trường hợp
phạm tội gây thiệt hại từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
-Khung tăng nặng thứ ba được quy định tại Khoản 4 Điều 175 BLHS năm
2015, có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được áp cho trường hợp phạm tội
gây thiệt hại có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên.
1.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác trong Luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) và tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS)
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174 BLHS năm
2015 và tội LDTN CĐTS được quy định tại điều 175 BLHS năm 2015. Tuy
nhiên, trong thực tiễn xét xử thường có sự nhầm lẫn giữa hai tội này, đặc biệt là
đối với các trường hợp vay nợ đến thời hạn khơng thanh tốn. Sở dĩ có sự nhầm
lẫn này vì ở cả hai tội đều có hành vi gian dối khi thực hiện tội phạm và đều có
thể thực hiện qua hợp đồng. Vì vậy, để phân biệt sự khác nhau giữa hai tội này ta
có thể dựa vào những căn cứ sau:

Một là, mặc dù đều có thủ đoạn gian dối nhưng bản chất của nó ở mỡi tội
phạm lại khác nhau. Thủ đoạn gian dối khơng những có ở tội lừa đảo mà cịn có ở
tội lạm dụng tín nhiệm, tham ơ tài sản…Điều khác nhau là ở mối quan hệ pháp lý
vốn có giữa tài sản bị chiếm đoạt với người phạm tội hoặc ở ý nghĩa của sự gian
dối. Điều luật mô tả về tội lừa đảo quy định: “người nào bằng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản…” như vậy, Tội lừa đảo gồm hai hành vi: gian dối và chiếm đoạt
tài sản. Trong đó gian dối là tiền đề, là điều kiện cho việc chiếm đoạt tài sản, vì thế,
gian dối là thủ đoạn chiếm đoạt của tội lừa đảo, là bản chất đồng thời cũng là dấu
hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của CTTP. Tất cả mọi trường hợp cấu thành tội
lừa đảo đều phải được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối.

Ở tội lạm dụng tín nhiệm, mặc dù điều luật không mô tả nhưng được hiểu
là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lợi dụng tín nhiệm của chủ tài sản với nhiều
cách, có thể bỏ trốn, giả mạo bị mất hàng, bị người khác chiếm đoạt, đánh tráo,
rút bớt tài sản….Như vậy, thủ đoạn gian dối không phải là duy nhất để chiếm



×