TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
PHẠM KIM CHI
QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TỪ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH QUA MẠNG XÃ HỘI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TỪ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH QUA MẠNG XÃ HỘI
SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM KIM CHI
KHÓA: 42
MSSV: 1753801011018
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN THỊ HỒI THU
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ths. Nguyễn Thị Hồi Thu, đảm bảo tính
trung thực và tn thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin
chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Phạm Kim Chi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
TNCN
NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
Thu nhập cá nhân
Nghị định 126/2020/NĐ-CP
Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều của Luật Quản
lý thuế
Thông tư 92/2015/TT-BTC
Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng
dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế
thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú
có hoạt động kinh doanh; hướng dẫn
thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ
sung về thuế thu nhập cá nhân quy định
tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
các luật về thuế số 71/2014/QH13 và
Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày
12/5/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
các luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một
số điều của nghị định về thuế
Thông tư 40/2021/TT-BTC
Thông tư 40/2021/TT-BTC hướng
dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá
nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh, cá nhân kinh doanh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN VỀ KINH DOANH QUA MẠNG XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUA MẠNG XÃ
HỘI................................................................................................................................ 5
1.1 Tổng quan về kinh doanh qua mạng xã hội..........................................................5
1.1.1 Khái niệm kinh doanh qua mạng xã hội........................................................5
1.1.2 Đặc điểm kinh doanh qua mạng xã hội..........................................................6
1.2 Một số vấn đề lý luận về quản lý thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động kinh doanh
qua mạng xã hội.........................................................................................................9
1.2.1 Cơ sở hình thành nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân đối với kinh doanh qua mạng
xã hội...................................................................................................................... 9
1.2.2 Sự cần thiết của việc quản lý thuế thu nhập cá nhân từ kinh doanh qua mạng
xã hội.................................................................................................................... 11
1.2.3 Những lưu ý khi quản lý thuế thu nhập cá nhân từ kinh doanh qua mạng xã
hội......................................................................................................................... 13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................................. 16
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUA MẠNG XÃ HỘI – THỰC TRẠNG VÀ KIẾN
NGHỊ............................................................................................................................ 18
2.1 Quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động kinh doanh qua
mạng xã hội.............................................................................................................. 18
2.1.1 Quy định về trình tự, thủ tục kê khai, nộp thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt
động kinh doanh qua mạng xã hội........................................................................ 18
2.1.2 Quy định về giám sát việc tuân thủ nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân phát sinh
từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội............................................................ 24
2.2 Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân từ hoạt
động kinh doanh qua mạng xã hội............................................................................ 32
2.3 Kiến nghị............................................................................................................ 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................................. 40
KẾT LUẬN CHUNG................................................................................................... 41
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mạng xã hội là nền tảng trực tuyến cho phép người dùng xây dựng các mối quan hệ
với người khác từ bất cứ nơi đâu. Với tính chất tương tác cao, kết nối rộng, kinh doanh
trực tuyến thông qua mạng xã hội như Facebook, Zalo…ngày càng trở nên sơi động và dần
hình thành xu hướng tiêu dùng mới. Theo khảo sát của Sapo, mạng xã hội Facebook được
xếp thứ hai trong các kênh bán hàng online hiệu quả tại Việt Nam vào năm 2018 (80% cửa
1
hàng đánh giá) và từ 2019 trở đi đã vươn lên trở thành kênh bán hàng online được sử
2
dụng nhiều nhất (96% cửa hàng đánh giá) . Trước đây các cá nhân chỉ sử dụng mạng xã
hội như một kênh bán hàng, cung ứng dịch vụ để kiếm thêm thu nhập trong thời gian nhàn
rỗi, việc kinh doanh qua mạng xã hội chỉ mang tính chất như một nghề “tay trái”. Song
những năm trở lại đây, kinh doanh qua mạng xã hội đã dần trở thành một nghề được nhiều
cá nhân, đặc biệt là giới trẻ lựa chọn để khởi nghiệp vì chi phí thấp và khả năng tạo mức
thu nhập cao. Theo Bizweb, các chủ thể kinh doanh qua mạng xã hội có doanh thu một
3
năm trung bình từ 1,5 tỷ đồng . Đây là mức doanh thu khơng hề nhỏ, đóng góp lớn vào
giải quyết công ăn việc làm và phát triển kinh tế.
Trước hiện trạng hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội ngày càng phát triển, nguồn
thu vào ngân sách từ hoạt động này hiện nay lại không đáng kể và chưa tương xứng với
quy mô hoạt động kinh doanh. Điều này tạo nên tính cấp thiết của việc nâng cao hiệu quả
quản lý thuế đối với kinh doanh qua mạng xã hội, trong đó đặc biệt là quản lý thuế TNCN.
Bởi lẽ, nhóm đối tượng phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng
xã hội là các hộ, cá nhân kinh doanh, nhóm đối tượng chiếm số lượng kinh doanh qua
mạng xã hội đông đảo nhưng ý thức pháp luật và ý thức tuân thủ nghĩa vụ thuế còn hạn
chế. Việc thiếu hành lang pháp lý chặt chẽ dẫn đến việc thu thuế nói chung, thuế TNCN
nói riêng từ nhóm đối tượng này chưa thật sự hiệu quả.
1 Lưu Đức Huy, “Quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội”, Tạp chí Tài chính, số 688 tháng
9/2018, tr 18.
2 “Tổng hợp các kênh bán hàng online hiệu quả”, truy cập ngày 2/7/2021.
3 Phạm Văn Tuấn, “Một số vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh từ hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ trên mạng
xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, truy cập ngày 2/7/2021.
1
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Quản lý
thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội” để nghiên cứu và hồn
thành khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo tìm hiểu của tác giả, hiện chưa có đề tài nghiên cứu trực tiếp về “Quản lý
thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội”. Dù vậy trong quá trình nghiên
cứu, tác giả tìm thấy một số bài viết, đề tài có liên quan, điển hình là:
- Vũ Ngọc Minh (2020), “Thách thức về thuế trong nền kinh tế số tại Việt Nam”,
khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả đưa ra phân tích
tác động của những mơ hình kinh doanh mới xuất hiện dựa trên nền tảng số lên hoạt
động quản lý và thu thuế. Đồng thời đối chiếu thực trạng pháp luật điều chỉnh với
những yêu cầu đặt ra khi quản lý thuế trong nền kinh tế số để xem xét pháp luật Việt
Nam đã có đầy đủ cơ sở pháp lý điều chỉnh phục vụ cho hoạt động thu đúng, đủ số thuế
phát sinh từ các mơ hình kinh doanh mới đó hay chưa. Từ đó, đề ra các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thu thuế phát sinh từ các mơ hình kinh doanh đó.
- Lê Phan Hiếu (trưởng nhóm) (2019), “Pháp luật về thu thuế đối với kinh doanh
trên mạng xã hội”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh. Tác giả tìm hiểu các quy định trong nước cũng như pháp luật một số
nước trên thế giới, cụ thể là Hoa Kỳ và EU về thu thuế giá trị gia tăng đối với thương
mại điện tử. Sau đó, đánh giá các thực trạng pháp luật về nghĩa vụ thuế của chủ thể
kinh doanh trên mạng xã hội tại Việt Nam. Đồng thời, từ việc nghiên cứu pháp luật của
Hoa Kỳ và EU trong việc quản lý thu thuế thương mại điện tử, tác giả chọn lọc, đề xuất
những giải pháp mà Việt Nam có thể học hỏi.
- Phạm Nữ Mai Anh (2019), “Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử”,
Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính. Tác giả phân tích thực trạng quản lý thuế đối với hoạt
động thương mại điện tử từ năm 2012 đến năm 2018 dựa trên số liệu thứ cấp thu nhập
được, kết hợp thực hiện khảo sát các cán bộ thuế công tác ở các cơ quan thuế hiện hành có
triển khai quản lý thuế đối với hoạt động để lấy được các số liệu sơ cấp. Trên cơ sở những
luận giải khoa học và thực tiễn, luận án cũng đưa ra một số giải pháp hồn thiện, trong đó
một số đề xuất tiêu biểu có tính mới là: (1) xây dựng nguồn dữ liệu lớn trong quản lý
thông tin người nộp thuế phục vụ cho phân tích dữ liệu lớn nhằm phát hiện các rủi ro, gian
lận trong hoạt động quản lý thuế; (2) thiết lập quy trình quản lý nội bộ ngành thuế đối với
doanh nghiệp hoạt động thương mại điện tử trên cơ sở có sự thống
2
nhất với quy trình quản lý thuế đối với hoạt động thương mại truyền thống nhưng có
bổ sung một số quy định tạo cơ sở cho công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương
mại điện tử.
- Lưu Đức Huy, “Quản lý thuế đối với các hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội”,
tạp chí Tài chính, Bộ Tài chính, 2018, số 688, tr 16-19. Bài viết này đưa cái nhìn tổng
quan về tình hình phát triển hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội hiện nay, thực trạng
quản lý thuế đối với loại hình kinh doanh này (trong đó đưa ra những khó khăn mà cơ
quan thuế đang gặp phải và những biện pháp mà cơ quan nhà nước đang thực hiện).
Thông qua đánh giá về thực trạng, tác giả đề xuất một số biện pháp về thể chế, chính
sách pháp luật và về cách thức tổ chức ngành thuế.
Nhìn chung các nghiên cứu, bài viết này đều đã phân tích và làm nổi bật những
khó khăn mà Việt Nam đang phải đối mặt để xóa bỏ hiện tượng gian lận thuế, trốn thuế
trong bối cảnh hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng xã hội tăng trưởng
nhanh chóng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu vào phân tích việc quản lý thuế
TNCN với nhóm đối tượng hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh qua mạng xã hội, vốn là
nhóm có nguy cơ trốn thuế, gian lận thuế cao. Cùng với đó, hệ thống văn bản quản lý
thuế thời gian qua cũng có sự thay đổi, điển hình là Luật Quản lý thuế 2019 ra đời thay
thế Luật Quản lý thuế 2006 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế
2012, Nghị định 126/2020/NĐ-CP, Thông tư 40/2021/TT-BTC đã thông qua và sắp có
hiệu lực, chứa đựng những quy định mới hướng đến giải quyết những vấn đề tồn đọng
trong quản lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội, điều mà các
nghiên cứu trước đó chưa đi vào nghiên cứu, đánh giá.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Với đề tài “Quản lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội”, tác
giả hướng đến những mục tiêu sau:
- Phân tích các quy định pháp luật trong nước về quản lý thuế TNCN đối với hoạt
động kinh doanh qua mạng xã hội dựa trên nền tảng pháp luật về quản lý thuế TNCN
đối với hoạt động thương mại điện tử.
- Chỉ ra những điểm thiếu sót, vướng mặt trong các quy định về pháp luật dựa
trên thực tiễn hoạt động quản lý thuế TNCN của nước ta hiện nay đối với hình thức
kinh doanh này.
- Đưa ra phương hướng và kiến nghị những giải pháp thiết thực, phù hợp với nhu
cầu của thực tiễn hiện nay nhằm hồn thiện những vấn đề cịn thiếu sót.
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, quy định pháp luật về
hoạt động quản lý thuế TNCN phát sinh từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội của
nhóm đối tượng hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và thực tiễn áp dụng các quy định
trên.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: chú trọng nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn các vụ
việc trong nước liên quan đến lĩnh vực quản lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh
qua mạng xã hội.
- Về thời gian: các văn bản liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu đang cịn hiệu lực
và sắp có hiệu lực trong thời gian tới.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong đề tài này, tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp. Trong đó có
phương pháp tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu tham khảo kết hợp với phương pháp
phân tích, so sánh, và đối chiếu với các quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề quản
lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội.
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của Khóa luận
được chia thành 2 chương, có kết luận cho từng chương:
- Chương 1: Khái luận về kinh doanh qua mạng xã hội và quản lý thuế TNCN từ
hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội.
- Chương 2: Quy định pháp luật về quản lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh
qua mạng xã hội – thực trạng và kiến nghị.
4
CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN VỀ KINH DOANH QUA MẠNG XÃ HỘI VÀ
QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUA MẠNG XÃ HỘI
1.1 Tổng quan về kinh doanh qua mạng xã hội
1.1.1 Khái niệm kinh doanh qua mạng xã hội
Mạng xã hội ngày càng trở nên phổ biến và được nhiều người Việt Nam sử dụng,
theo báo cáo của Digital 2021 for Vietnam của We are social và Hootsuite, số lượng
người dùng mạng xã hội thường xuyên ở Việt Nam tính đến tháng 01/2021 chiếm
4
73.7% tổng dân số . Cùng với sự phát triển của mạng xã hội, các hoạt động kinh doanh
qua mạng xã hội cũng ngày càng đa dạng, phong phú.
Về mặt pháp lý, chưa có khái niệm thế nào là “kinh doanh qua mạng xã hội”. Dù
vậy, theo quy định tại khoản 22 Điều 3 Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng: “Mạng xã hội là hệ thống thông
tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử
dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thơng tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang
thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm
thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác”. Các mạng xã hội phổ biến
hiện nay có thể kể đến như: Facebook, Zalo, Youtube, Tiktok, Instagram…
Bên cạnh đó, khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 định nghĩa: “kinh doanh
là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư,
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận”. Như vậy, “kinh doanh qua mạng xã hội” có thể hiểu là việc thực
hiện tất cả các hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận trên nền tảng mạng xã hội.
Chủ thể có thể kinh doanh qua mạng xã hội rất đa dạng, bao gồm tổ chức, doanh
nghiệp trong và ngoài nước, hộ, cá nhân kinh doanh. Theo báo cáo của Phịng Thương
mại và Cơng nghiệp Việt Nam về thương mại điện tử trên mạng xã hội, hiện nay hai
5
hình thức kinh doanh qua nền tảng này chủ yếu là :
4 We are social and Hootsuite (2021), “Digital for Vietnam 2021”, truy cập ngày 3/7/2021.
5 VCCI – Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (2021), Báo cáo nghiên cứu thương mại điện tử trên
mạng xã hội tại Việt Nam: Một số vấn đề pháp lý, Hà Nội, tr 10.
5
- B2C: hình thức kinh doanh giữa các thương nhân là tổ chức trong và ngoài nước
và người tiêu dùng, trong đó các tổ chức này sử dụng mạng xã hội để tiếp thị, quảng
cáo, có thể kết hợp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- C2C: hình thức kinh doanh giữa cá nhân và cá nhân, trong đó, các cá nhân
(được hiểu theo nghĩa rộng), bao gồm hộ kinh doanh và cá nhân sử dụng mạng xã hội
để tiếp thị, quảng cáo sản phẩm, có thể kết hợp bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Ngồi ra, hình thức C2B cũng dần trở nên phổ biến, đây là hình thức cá nhân sử
dụng mạng xã hội cung cấp dịch vụ cho các tổ chức, cụ thể là cá nhân cung cấp các
dịch vụ quảng cáo cho chính các nền tảng mạng xã hội hoặc doanh nghiệp đối tác kinh
doanh của các trang mạng xã hội đó.
So với hoạt động kinh doanh truyền thống, kinh doanh qua mạng xã hội vẫn giữ
ngun bản chất “nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận” của mình. Thơng qua hoạt động
này, hàng hóa, dịch vụ vẫn được cung ứng trên thị trường và mang lại thu nhập cho
người thực hiện hoạt động. Vì thế, các nghĩa vụ thuế vẫn sẽ phát sinh tương tự như
trong kinh doanh truyền thống, bao gồm nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh
nghiệp, TNCN… Song, do được tiến hành chủ yếu trên các nền tảng mạng xã hội, việc
quản lý thuế phát sinh trong trường hợp này sẽ thêm phần khó khăn.
1.1.2 Đặc điểm kinh doanh qua mạng xã hội
Mặc dù giống nhau về bản chất, kinh doanh qua mạng xã hội vẫn mang nhiều đặc
trưng so với hoạt động kinh doanh truyền thống. Điển hình có thể kể đến: tính linh
động cao; khó xác thực các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh; và tính biến
động cao.
1.1.2.1 Tính linh động cao
Tính linh động cao của kinh doanh qua mạng xã hội được hiểu là việc hoạt động
kinh doanh có thể mở rộng ra những khu vực địa lý khác nhau nhưng không ràng buộc
chủ thể kinh doanh phải có địa điểm kinh doanh cố định ở từng khu vực đó. Tính linh
động cao này được thể hiện ở 2 yếu tố: đối tượng khách hàng và địa điểm kinh doanh.
* Về đối tượng khách hàng
Việc ứng dụng mạng xã hội với vai trò hỗ trợ kinh doanh đã giúp mở rộng đối tượng
khách hàng hơn so với hình thức kinh doanh truyền thống. Mạng xã hội cho phép thông tin
của người đăng được hiển thị cho những người dùng khác nên các chủ thể kinh doanh
thường ứng dụng đặc điểm này để quảng bá sản phẩm nhằm thu hút khách hàng
6
cả ở trong và ngoài nước. Việc ứng dụng phương tiện điện tử - mạng xã hội vào trong
kinh doanh cũng cho phép họ giao dịch với khách hàng để thực hiện việc giao dịch
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà không cần phải gặp nhau trực tiếp hay biết
nhau từ trước. Như vậy, khách hàng của các chủ thể kinh doanh theo hình thức này có
thể là bất kỳ mọi đối tượng đang sống ở những địa giới hành chính khác nhau trong
một nước, hoặc thậm chí đang sinh sống ở nước ngoài và sử dụng đơn vị tiền tệ thanh
toán khác nhau.
* Về địa điểm kinh doanh
Trong kinh doanh truyền thống, chủ thể kinh doanh luôn gắn liền với ít nhất một
cơ sở cố định phục vụ cho việc trưng bày, giới thiệu sản phẩm, giao dịch, và chỉ được
biết tới bởi một số đối tượng khách hàng tại một vài địa phương cụ thể. Tuy nhiên,
kinh doanh qua mạng xã hội đã thay đổi đặc điểm này bằng việc ứng dụng phương tiện
này vào quảng bá thương hiệu của mình, kết hợp với sự hỗ trợ của các cơng cụ trung
gian thanh tốn, dịch vụ vận chuyển… Hiện nay, nhiều chủ thể kinh doanh không cần
phải thành lập cơ sở kinh doanh cố định nào để trưng bày, giao dịch hàng hóa mà chỉ
cần một nơi chứa hàng, còn việc giao dịch, quảng bá được thực hiện thơng qua mạng
xã hội, thanh tốn thơng qua thẻ ngân hàng, ví điện tử hoặc đơn vị giao hàng thu hộ
(COD). Vì các chủ thể kinh doanh theo hình thức này khơng bị ràng buộc bởi một địa
điểm cụ thể nên họ có thể thường xuyên thay đổi địa chỉ cư trú của mình nhưng khơng
mất đi số lượng khách hàng hiện có của họ.
1.1.2.2 Khó xác thực được thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh qua
mạng xã hội
Nếu kinh doanh truyền thống thường có những yếu tố hữu hình để xác định một chủ
thể có thực hiện các hành vi kinh doanh hay không, quy mơ hoạt động của họ ra sao thì
kinh doanh qua mạng xã hội đa phần đều thiếu đi những yếu tố đó. Sự vắng bóng này tạo
ra đặc điểm khó xác thực thông tin liên quan đến việc kinh doanh qua mạng xã hội, đó là
các thơng tin về chủ thể và thông tin về giao dịch phát sinh từ hoạt động kinh doanh.
* Về thơng tin chủ thể có hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội
Về lý luận, mạng xã hội là các dịch vụ dựa trên nền tảng mạng lưới cho phép cá
nhân xây dựng hồ sơ hoặc công khai, hoặc bán công khai trong một hệ thống có giới
7
6
hạn . Đồng thời việc tạo lập tài khoản trên mạng xã hội chỉ cần có một địa chỉ email
hoặc một số điện thoại bất kỳ mà không cần biết địa chỉ email hoặc số điện thoại đó có
7
phải là chính chủ hay khơng . Vì vậy, có thể nói chủ thể trên mạng xã hội mang tính
“ảo”. Bên cạnh đó, hầu hết các mạng xã hội hiện nay vẫn chưa xây dựng các trường dữ
liệu đặc trưng cho hoạt động kinh doanh như tên sản phẩm, giá cả, số lượng… Các chủ
thể kinh doanh qua mạng xã hội hiện nay chủ yếu chỉ sử dụng các trường dữ liệu tiêu
đề, nội dung, hình ảnh, video để đăng tải thơng tin về sản phẩm của mình, nhưng hệ
8
thống sẽ khơng hình thành trường dữ liệu riêng cho các thơng tin này . Nghĩa là khơng
có sự phân định rõ ràng những thơng tin có mục đích thương mại và những thơng tin
phi thương mại.
Như vậy, dựa trên tính “ảo” của chủ thể và sự thiếu sự tách bạch giữa thông tin
thương mại và phi thương mại đã gây nên những khó khăn nhất định cho việc nhận
diện chủ thể đang có hoạt động kinh doanh trên nền tảng này.
* Về thông tin liên quan đến giao dịch kinh doanh
Trong kinh doanh truyền thống, hợp đồng bằng văn bản, hóa đơn, chứng từ, sổ
sách kế tốn có thể được sử dụng như các bằng chứng xác nhận giao dịch được xác lập,
thực hiện. Tuy nhiên, đối với hình thức kinh doanh qua mạng xã hội, việc nhận diện
các giao dịch không phải lúc nào cũng dễ dàng bởi đặc tính dễ thay đổi, dễ xóa bỏ. Ví
dụ, các đối tượng kinh doanh qua mạng xã hội có thể xóa các bình luận, cuộc hội thoại
mua hàng, các video phát trực tiếp việc bán hàng… Do đó, có rất ít cơ sở để xác minh
các giao dịch đã được xác lập, thực hiện nếu kinh doanh qua hình thức này.
1.1.2.3 Tính biến động cao
Hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội mang tính biến động cao về số lượng, vị
thế của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất phát từ các nguyên do
sau:
* Về tốc độ gia nhập và đào thải ra khỏi thị trường
Bên cạnh việc dễ dàng tham gia mạng xã hội, kinh doanh dưới hình thức này cũng
cịn có lợi thế là số vốn đầu tư ít nhưng lại chứa sẵn nguồn khách hàng tiềm năng. Như
6 Danah M. Boyd, Nicole B. Ellison (2007), “Social network sites: Definition, History and Scholarship”,
Journal of Computer – Mediated Comunication, vol 13, tr 213, 214.
7 “Làm cách nào để tạo tài khoản Facebook”, truy cập
25/6/2021.
8 VCCI – Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (2021), tlđd (5), tr 22.
8
vậy, nếu xem mạng xã hội là một thị trường thì có thể khẳng định tốc độ gia nhập thị
trường này sẽ có xu hướng cao hơn so với các thị trường khác. Song song đó, tốc độ
chủ thể kinh doanh bị đào thải ra khỏi thị trường cũng tỷ lệ thuận với tốc độ gia nhập
thị trường. Theo quy luật cạnh tranh, nếu không muốn bị đào thải ra khỏi thị trường thì
các chủ thể kinh doanh phải khơng ngừng nghiên cứu đổi mới, nâng cao sản phẩm của
mình sao cho tiệm cận với nhu cầu khách hàng. Trên thực tế, mạng xã hội với mong
muốn thu hút nhiều người sử dụng ln liên tục cập nhật các tính năng mới. Tuy nhiên,
không phải chủ thể nào cũng đủ nhanh nhạy để ứng dụng các tính năng mới này vào
hoạt động sinh lợi của mình. Do đó, tốc độ đào thải ra khỏi thị trường mạng xã hội
cũng nhanh không kém.
Như vậy, việc gia nhập và đào thải khỏi thị trường kinh doanh mạng xã hội diễn
ra liên tục đã tạo nên tính biến động của hình thức kinh doanh này.
* Về truyền thông mạng xã hội
Phản hồi về trải nghiệm mua sắm, sử dụng dịch vụ dưới hình thức bình luận có thể
tác động đến khách hàng tiềm năng khác. Những phản hồi này được chấp nhận như một
hình thức quảng cáo thiết yếu và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới người tiêu dùng. Dựa trên đặc
tính lan tỏa, tính tiếp cận, tính liên kết cộng đồng của mạng xã hội, một chủ thể sẽ kinh
doanh hiệu quả nếu hàng hóa, dịch vụ của họ nhận được nhiều phản hồi tích cực. Ngược
lại, một chủ thể sẽ bị hủy hoại danh tiếng bởi những phản hồi tiêu cực về sản phẩm mà họ
9
cung cấp . Như vậy, yếu tố truyền thơng mạng xã hội có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của một chủ thể và quyết định chủ thể đó có thể tiếp tục giữ vững vị thế của mình
trên thị trường hay khơng, có được tiếp tục kinh doanh hay không.
1.2 Một số vấn đề lý luận về quản lý thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động
kinh doanh qua mạng xã hội
1.2.1 Cơ sở hình thành nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân đối với kinh doanh
qua mạng xã hội
1.2.1.1 Thẩm quyền thu thuế thu nhập cá nhân của Nhà nước đối với các đối
tượng kinh doanh qua mạng xã hội
9 Nguyễn Thị Kiều Trang, Vũ Thị Quỳnh Anh, Văn Hùng Trọng, Nguyễn Vũ Như Quỳnh (2020), Xây dựng mơ
hình các nhân tổ ảnh hưởng đến ý định viết truyền miệng điện tử - EWOM của khách hàng sau khi mua sắm trực
tuyến, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia CITA 2020 “CNTT và ứng dụng trong các lĩnh vực”, tr 329, 330.
9
Nhà nước và thuế là hai phạm trù tồn tại song song không thể tách rời. Nhà nước
sử dụng quyền lực của mình quy định nghĩa vụ thuế cho cơng dân và sử dụng các công
cụ cưỡng chế để đảm bảo nghĩa vụ này được thực thi có hiệu quả. Mỗi quốc gia có thể
khẳng định quyền thu thuế của mình dựa trên nguyên tắc đánh thuế nhất định. Đối với
thuế thu nhập, trên thế giới có ba nguyên tắc đánh thuế chủ yếu là: đánh thuế theo yếu
tố quốc tịch, đánh thuế dựa vào nguồn phát sinh thu nhập và đánh thuế theo yếu tố cư
10
trú của đối tượng nộp thuế .
Với bản chất là sắc thuế điều tiết và động viên một phần thu nhập của cá nhân vào
ngân sách nhà nước, pháp luật thuế TNCN không căn cứ vào yếu tố quốc tịch của cá
nhân để xác định nghĩa vụ nộp thuế mà căn cứ vào nguồn phát sinh thu nhập và yếu tố
11
cư trú . Theo đó, đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế
phát sinh trong và ngồi lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu
thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Cá nhân được hiểu theo nghĩa rộng, là các chủ
thể không phải là tổ chức kinh doanh, bao gồm cá nhân, hộ kinh doanh, tổ hợp tác hay
hộ gia đình.
Như vậy, Nhà nước có thẩm quyền thu thuế TNCN đối với: (1) cá nhân cư trú thực
hiện hành vi kinh doanh phát sinh thu nhập chịu thuế trong và ngồi lãnh thổ Việt Nam và
(2) cá nhân khơng cư trú phát sinh thu nhập chịu thuế từ việc thực hiện hành vi kinh doanh
trên lãnh thổ Việt Nam. Như đã phân tích tại mục 1.1.1, kinh doanh qua mạng xã hội và
kinh doanh thông thường đều mang cùng một bản chất. Do đó, nếu Nhà nước có thẩm
quyền thu thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh thơng thường thì cũng có quyền thu thuế
TNCN đối với các đối tượng kinh doanh theo hình thức kinh doanh qua mạng xã hội. Đối
tượng nộp thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội bao gồm:
- Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh cư trú có địa điểm giao dịch cố định, sử
dụng mạng xã hội để quảng bá sản phẩm, khơng hoặc có kết hợp bán hàng, cung ứng
dịch vụ qua mạng xã hội.
- Cá nhân cư trú kinh doanh thơng qua mạng xã hội, khơng có địa điểm giao dịch
cố định.
10
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật Thuế Việt Nam (tái bản lần thứ 11, có sửa đổi
bổ sung), Nhà xuất bản Cơng an Nhân dân, tr 210.
11
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Thuế (tái bản có bổ sung), Nhà xuất
bản Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr 329, 330.
10
- Cá nhân kinh doanh không cư trú thực hiện việc kinh doanh qua mạng xã hội và
phát sinh thu nhập chịu thuế TNCN tại Việt Nam.
1.2.1.2 Sự xuất hiện các khoản thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của các
đối tượng kinh doanh qua mạng xã hội
Là sắc thuế thu trên thu nhập, người nộp thuế chỉ thực sự phải thực hiện nghĩa vụ
thuế TNCN với Nhà nước khi sở hữu các khoản thu nhập chịu thuế. Các khoản thu
nhập này theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm: thu nhập từ hoạt động kinh
doanh; tiền lương, tiền công; đầu tư vốn; chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động
sản; trúng thưởng; bản quyền; nhượng quyền thương mại; nhận thừa kế là chứng
khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản
khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng; thu nhập từ quà tặng là chứng khoán,
phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải
đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội của hộ, cá nhân kinh doanh từ việc cung ứng
hàng hóa, dịch vụ… làm phát sinh thu nhập từ kinh doanh. Đây là thu nhập chịu thuế
TNCN, đồng nghĩa, hộ, cá nhân sở hữu thu nhập có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế trung thực,
đầy đủ cho khoản thu nhập phát sinh của mình bất kể khoản thu nhập này có được khơng
dựa trên phương thức kinh doanh truyền thống mà thực hiện qua mạng xã hội.
Tóm lại, theo những phân tích trên có thể rút ra kết luận rằng các hộ, cá nhân kinh
doanh thực hiện việc kinh doanh qua mạng xã hội cũng phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN.
Theo đó, cơ sở hình thành nên nghĩa vụ thuế TNCN của nhóm đối tượng này dựa trên
tiền đề là thẩm quyền thu thuế TNCN theo 2 tiêu thức (nguồn phát sinh thu nhập và nơi
cư trú) của Nhà nước, kết hợp với cơ sở cụ thể là sự xuất hiện các khoản thu nhập chịu
thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội.
1.2.2 Sự cần thiết của việc quản lý thuế thu nhập cá nhân từ kinh doanh qua
mạng xã hội
“Quản lý thuế là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động
nhằm thu đúng, thu đủ số tiền thuế mà tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp vào ngân sách
12
nhà nước nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ”.
Quản lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội là cần thiết vì những
nguyên do cụ thể sau:
12
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (11), tr 439.
11
* Đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước
Đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước là vai trò quan trọng hàng đầu của việc
thu và quản lý thu thuế. Nếu nguồn thu ngân sách nhà nước được đảm bảo thì bộ máy
nhà nước sẽ được vận hành hiệu quả, đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ các chủ thể kinh
doanh, kích thích kinh tế phát triển, đồng thời cũng đảm bảo về mặt phúc lợi xã hội cho
người dân.
Theo báo cáo của Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số năm 2020, hoạt động
kinh doanh qua mạng xã hội có dấu hiệu tăng mạnh. Khoảng 57% người tiêu dùng
được khảo sát cho biết họ có thực hiện mua sắm qua diễn đàn, mạng xã hội, tương
đương với tỷ lệ mua sắm trên sàn giao dịch thương mại điện tử và cao hơn tỷ lệ mua
13
hàng trên website (52%) . Tuy nhiên, đa phần hộ kinh doanh thường không kê khai
phần doanh thu tính thuế TNCN phát sinh từ kinh doanh qua mạng xã hội và cơ quan
thuế cũng không thể sử dụng những phương pháp khảo sát doanh thu đối với hộ kinh
doanh truyền thống để xác định doanh thu với nhóm đối tượng này. Cá nhân kinh
doanh qua mạng xã hội thường không tự giác đăng ký thuế dẫn đến hiện tượng nhiều
cá nhân khơng phải đóng thuế dù đã phát sinh nghĩa vụ thuế TNCN. Qua thực tế trên,
có thể thấy việc quản lý thuế TNCN đối với kinh doanh qua mạng xã hội nếu không
hiệu quả dễ gây thất thoát nguồn thu ngân sách nhà nước. Vì vậy, cần phải nâng cao
hơn nữa hiệu quả quản lý thuế TNCN đối với hình thức kinh doanh này.
* Đảm bảo mơi trường kinh doanh bình đẳng
Bên cạnh yêu cầu đảm bảo nguồn thu, quản lý thuế TNCN đối với hoạt động kinh
doanh qua mạng xã hội còn cần thiết nhằm đảm bảo mơi trường kinh doanh bình đẳng,
cụ thể là bình đẳng giữa hoạt động làm phát sinh thuế TNCN theo hình thức kinh
doanh truyền thơng và kinh doanh qua mạng xã hội.
So với kinh doanh truyền thống, kinh doanh qua mạng xã hội sở hữu một số ưu
điểm. Chẳng hạn, các hộ, cá nhân kinh doanh qua mạng xã hội sử dụng chính nền tảng
này để trưng bày, quảng cáo hàng hóa, do đó họ khơng cần tốn nhiều chi phí mặt bằng
vì khơng cần đặt cửa hàng ở vị trí đẹp, được nhiều người để mắt. Hình thức này cũng
giúp người kinh doanh dễ qua mắt cơ quan thuế (không đăng ký kinh doanh, không có
địa điểm kinh doanh), dễ giấu doanh thu (khơng niêm yết công khai giá mà chỉ báo giá
13
Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (2020), Sách trắng TMĐT Việt Nam 2020, Hà Nội, tr 36.
12
qua inbox, giao hàng trực tiếp cho khách hàng thông qua các đơn vị vận chuyển
chuyên nghiệp, yêu cầu khách chuyển khoản trực tiếp, khơng có hóa đơn, chứng từ…).
Vừa giảm được chi phí đầu tư, vừa né tránh được thuế, hộ, cá nhân kinh doanh
qua mạng xã hội có điều kiện giảm sâu giá bán, tạo lợi thế cạnh tranh về giá so với mặt
hàng cùng loại trên thị trường đang được bán bởi những chủ thể kinh doanh truyền
thống. Vì lợi ích kép này, các hộ, cá nhân kinh doanh càng có động lực để trốn tránh
việc chấp hành nghĩa vụ thuế nói chung, nghĩa vụ thuế TNCN nói riêng từ hoạt động
kinh doanh qua mạng xã hội. Song song đó, việc giảm sâu giá bán cũng tạo ra mơi
trường cạnh tranh thiếu bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh đúng pháp luật, khiến họ
khó khăn hơn trong kinh doanh. Vì lẽ đó, cần phải nâng cao hiệu quả quản lý thuế
nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.3 Những lưu ý khi quản lý thuế thu nhập cá nhân từ kinh doanh qua
mạng xã hội
1.2.3.1 Dung hòa mục tiêu quản lý thuế và phát triển kinh doanh qua mạng xã
hội
Quản lý thuế là quan trọng và cần thiết, song không nên và không thể trở thành
rào cản cho sự phát triển các hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh qua mạng xã
hội nói riêng. Khi tiến hành nghiệp vụ quản lý thuế đối với hình thức kinh doanh này,
Nhà nước cần lưu ý cân bằng lợi ích thuế với lợi ích kinh tế mà hình thức này tạo ra.
Nghĩa là Nhà nước phải tính tốn nghĩa vụ thuế TNCN của các đối tượng kinh doanh
theo hình thức này một cách hợp lý, tránh tình trạng lạm thu, tận thu dẫn đến triệt tiêu
động lực kinh doanh qua mạng xã hội và tạo ra những nỗ lực để tránh thuế, trốn thuế.
Thay vào đó, cần có sự đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng những tác động của chính sách
quản lý thuế lên mọi mặt của hình thức kinh doanh qua mạng xã hội, giảm thiểu các
ảnh hưởng tiêu cực, đồng thời đảm bảo được sự phát triển trên cả hai phương diện
quản lý thuế và hiệu quả kinh tế.
Hiện nay, việc dung hòa mục tiêu quản lý thuế và phát triển kinh doanh qua mạng
xã hội được Nhà nước thực hiện thông qua nguyên tắc không tạo ra sự phân biệt đối xử
giữa hình thức thương mại điện tử với nhau, và giữa hình thức thương mại điện tử với
thương mại truyền thống. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc trung lập trong điều
kiện khung được đưa ra bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) tại Hội nghị
Ottawa tháng 10 năm 1998 với chủ đề “Một thế giới không biên giới – hiện thực hóa
13
14
tiềm năng thương mại điện tử” . Áp dụng tinh thần nguyên tắc trung lập, các chủ thể
kinh doanh qua mạng xã hội chỉ phải chịu mức độ điều tiết thuế, và nhận ưu đãi về thuế
TNCN tương tự như chủ thể kinh doanh truyền thống, để họ tiếp tục đầu tư, kinh doanh
một cách hiệu quả. Đồng thời khuyến khích các chủ thể kinh doanh khác ứng dụng
cơng nghệ thông tin, mạng xã hội để mở rộng quy mô kinh doanh, góp phần tăng
trưởng kinh tế đất nước.
1.2.3.2 Nhận diện chính xác các đối tượng nộp thuế và doanh thu tính thuế
thu nhập cá nhân từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội
Để tiến hành quản lý thuế hiệu quả thì trước tiên cơ quan thuế cần phải nhận diện
được ai là đối tượng nộp thuế, doanh thu phát sinh là bao nhiêu để yêu cầu họ thực hiện
đăng ký, kê khai và nộp thuế vào ngân sách quốc gia. Thực tế cho thấy rằng, việc xác
định đúng người nộp thuế và doanh thu tính thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua
mạng xã hội chưa bao giờ là một việc dễ dàng bởi những nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, các đối tượng kinh doanh qua mạng xã hội thường khơng có địa điểm
kinh doanh cố định để giao dịch với khách hàng và không tiến hành đăng ký thuế. Điều
này khác với các chủ thể kinh doanh truyền thống khi họ có các địa điểm giao dịch cụ thể
để cơ quan thuế có cơ sở nhận diện rõ ràng họ có phải là đối tượng nộp thuế khơng và quy
mơ doanh thu ra sao, từ đó tiến hành ấn định doanh thu tính thuế TNCN phù hợp. Trong
khi đó, các đối tượng kinh doanh qua mạng xã hội thường khơng cần có một cửa hàng, địa
điểm kinh doanh mà chỉ cần một phịng nhỏ chứa hàng hóa, một tài khoản mạng xã hội để
thực hiện việc quảng cáo và xác lập giao dịch. Ngoài ra, đối tượng kinh doanh qua mạng
xã hội là cá nhân thường là không kinh doanh thường xuyên, không thuộc đối tượng phải
đăng ký thuế, nhưng sau một thời gian hoạt động kinh doanh của họ trở nên thường xuyên,
liên tục nhưng họ vẫn khơng thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế.
Chính điều này đã tạo khó khăn cho cơng tác nhận diện trong quản lý thuế.
- Thứ hai, việc kinh doanh qua mạng xã hội được thực hiện phần lớn trên các trang
mạng xã hội nước ngoài nhưng vẫn thiếu đi cơ chế chia sẻ thông tin từ công ty cung cấp
dịch vụ mạng xã hội nước ngồi. Tính đến tháng 1/2021, trong bảng xếp hạng 16 mạng xã
hội được người Việt sử dụng nhiều nhất, chỉ có Zalo là mạng xã hội Việt Nam xếp ở vị trí
thứ 3. Trong khi đó, đứng đầu bảng xếp hạng các mạng xã hội và nền tảng chat được
người Việt sử dụng nhiều nhất là những nền tảng của thuộc các công ty nước ngoài
14
OECD (2003), Taxation and electronic commerce – Implementing the Ottawa taxation framework
conditions – The 2003 Report, tr 10.
14
như Youtube và Facebook. Sau mạng xã hội Zalo của Việt Nam đứng thứ 3 thì tiếp đó
15
vẫn là các mạng xã hội nước ngoài như Instagram, Tik Tok, Twitter, Skype ... Qua đó
có thể thấy các hoạt động kinh doanh thường diễn ra sôi nổi hơn ở các trang mạng xã
hội nước ngoài. Tuy nhiên, đa phần các trang mạng xã hội nước ngoài lại chưa đăng ký
tên miền Việt Nam hay đặt hiện diện thương mại tại Việt Nam nên không chịu sự ràng
buộc bởi các quy định pháp luật liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin về đối
tượng kinh doanh qua mạng xã hội cho cơ quan thuế. Điều này dẫn đến việc cơ quan
thuế thiếu đi nguồn thông tin quan trọng để nhận diện đối tượng nộp thuế, doanh thu
tính thuế TNCN phát sinh từ việc kinh doanh qua mạng xã hội.
Xuất phát từ các nguyên nhân nêu trên, khi xây dựng các quy định về quản lý
thơng tin người nộp thuế, cần có các quy định đặc thù với mục đích hỗ trợ cơ quan thuế
trong công tác nhận diện hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh qua mạng xã hội và doanh
thu thực tế phát sinh từ hình thức kinh doanh này là bao nhiêu. Khi xây dựng các quy
định này, nhà làm luật cũng phải chú ý đến việc phòng tránh sự lạm quyền của cơ quan
thuế và nghĩa vụ bảo mật thông tin liên quan đến người nộp thuế.
1.2.3.3 Tối thiểu hóa chi phí quản lý của nhà nước và chi phí tn thủ của
người nộp thuế
Thu thuế chỉ có hiệu quả khi tổng số thuế thu được nhiều nhất trên cơ sở chi phí mà
Nhà nước phải bỏ ra thấp nhất. Kinh doanh qua mạng xã hội lại mang tính chất đặc thù
riêng là ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giao dịch, khó nhận diện được người thực
hiện giao dịch và các thông tin trong giao dịch dễ bị che giấu. Để xác định cơ sở hình
thành nghĩa vụ thuế TNCN, bên cạnh cơ sở vật chất có sẵn của ngành thuế, bắt buộc cơ
quan thuế phải đầu tư cơ sở vật chất mới, ứng dụng công nghệ thơng tin vào trong hoạt
động quản lý.... Bên cạnh đó, trình độ chun mơn của cán bộ thuế cũng là một
trong những yếu tố quyết định việc quản lý thuế có hiệu quả hay khơng. Đối với các hình
thức kinh doanh có ứng dụng cơng nghệ thơng tin như mạng xã hội, cán bộ thuế phải có
trình độ cao về tin học, ngoại ngữ, phải giỏi về các ứng dụng, phần mềm hỗ trợ để truy lần
dấu vết giao dịch, kết xuất dữ liệu lịch sử giao dịch làm bằng chứng đấu tranh đối với các
hành vi vi phạm của người nộp thuế. Để làm được điều này bắt buộc Nhà nước phải bỏ ra
khá nhiều tiền từ ngân sách quốc gia để đào tạo cán bộ ngành thuế. Do đó, có thể khẳng
định cơng tác quản lý thuế TNCN từ hoạt động kinh doanh qua mạng xã hội
15
Mai Hạnh, “Vì sao mạng xã hội Việt Nam vẫn chưa phổ biến”, truy cập ngày 21/5/2021.
15