Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận cao học - những giá trị và những hạn chế trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ xix của xanhximông, s phuriê, r ôoen thông qua các tác phẩm được học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.61 KB, 18 trang )

Mở đầu
CNXH không tưởng là những lý luận, những học thuyết biểu hiện dưới dạng
chưa chín muồi, chưa đầy đủ, phản ánh dưới dạng chưa chín muồi những ước mơ,
nguyện vọng chủ quan của quần chúng nhân dân về một cuộc sống khơng có áp
bức, bóc lột, bất cơng, mong muốn có được một xã hội cơng bằng, bình đẳng, tự
do, hạnh phúc song không thực hiện bằng con đường cách mạng mà bằng con
đường giáo dục, thuyết phục và khun nhủ. Đó là một ước mơ chính đáng của
nhân loại cần lao và những ước mơ đó có chiều dài lịch sử cùng với lịch sử hình
thành và phát triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Chính từ những ước mơ,
khát vọng, những tư tưởng CNXH ấy đã thôi thúc bao thế hệ các nhà tư tưởng, các
nhà cách mạng ưu tú đã cống hiến, hy sinh cho lý tưởng nhân đạo, cho sự tiến bộ
của nhân loại. Từ những dự án sơ khai của Aghit, Cleomen thế kỷ thứ III tr.CN
đến những mơ hình, hệ thống, quan điểm ngày càng tiến bộ hơn của T.Mơrơ,
T.Campemela, G.Uyxtenly,G.Meliê, Ph.Morenly, G.Mably, G.Babơp và đến đầu
thế kỷ XIX các nhà tư tưởng của CNXH không tưởng đã phát triển đến mức độ
đến cùng của chúng, với sự xuất hiện của ba nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng
được gọi là ba nhà chủ nghĩa khơng tưởng vĩ đại, trong đó nước Pháp có
XanhXimơng, Phuriê, nước Anh có R.Ơoen.
Những ước nguyện, những nỗ lực cống hiến và hy sinh của các thế hệ nói trên
khơng chỉ phản ánh nguyện vọng chủ quan thuần t lý tưởng mà cịn là q trình
tìm tòi chân lý, mở ra con đường đi tới sự giải phóng nhân loại. Chính những tư
tưởng khơng tưởng của XanhXimơng, S.Phuriê, R.Ơoen đã trở thành một trong ba
tiền đề lý luận cho sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội khoa học do CácMác và Ănghen
sáng lập và Lênin đã đưa vào hiện thực cuộc sống. Ngày nay các Đảng Cộng sản
của các nước đi theo con đường CNXH trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam đang
tiếp tục vận dụng, phát triển và bảo vệ CHXH khoa học để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở đất nước mình. Vì vậy ở phạm vi bài tiểu luận này tơi sẽ đi sâu phân
tích “Những giá trị và những hạn chế trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ
XIX của. XanhXimơng, S.Phuriê, R.Ơoen” thơng qua các tác phẩm đã được học”

1




Tình hình nghiên cứu:
Cho đến nay những giá trị và hạn chế của lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa
trước Mác, các tác giả nghiên cứu tổng thể đánh giá chung chưa có cơng trình cụ
thể đi sâu nghiên cứu, những giá trị và hạn chế của ba nhà tư tưởng xã hội chủ
nghĩa không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX
1.

V.P. Vônghin, Lược khảo lịch sử tư tưởng XHCN (từ thời cổ đại đến

cuối thể kỷ XVIII), Nxb Sự thật Hà Nội, 1979
2.

GS Đỗ Tư, PTS Trịnh Quốc Tuấn, PTS Nguyễn Đức Bách đồng chủ

biên, Lược khảo lịch sử tư tưởng XHCN và CNCS tập I, thời kỳ trước C.Mác, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội 1994
3.

Viện chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Giáo trình lịch sử tư tưởng XHCN, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội năm
2002

2


Nội dung
I. Sơ lược tiểu sử XanhXimơng, S.Phuriê, R.Ơoen

Châu Âu đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản có bước phát triển mới bước
chuyển từ công trường thủ công sang công nghiệp hiện đại. Giai cấp tư sản đã
giành được những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên các phương diện: kinh tế,
chính trị, tư tưởng sau các cuộc cách mạng Tư sản ở Pháp, Mỹ. Cùng với đó mâu
thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa tư bản, giữa lực lượng sản xuất xã hội hoá với quan hệ
sản xuất TBCN, mà biểu hiện ra ở mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản
công nghiệp với tư sản công nghiệp đã bắt đầu nảy sinh, xung đột xã hội bùng nổ
và ngày càng gay gắt hơn. Trong số các nước TBCN phải kể đến Anh và Pháp.
Trong hoàn cảnh lịch sử ấy nảy sinh các tư tưởng xã hội của XanhXimông,
S.Phuriê người Pháp và R.Ooen người Anh.
1. Cơlôdơ Hăngri Đơ Xanh Ximông
Cơlôdơ Hăngri Đơ Xanh Ximông sinh năm 1760 mất năm 1825. ông xuất
thân trong một gia đình q tộc Pháp lâu đời. Từ nhỏ ơng đã là một cậu bé có
nhiều nét đặc biệt. Khi 13 tuổi vì khơng tham dự tiệc rước Thánh nên ơng bị bố
nhốt vào một pháo đài, nhưng ơng đã tìm cách trốn thoát. Theo truyền thống quý
tộc, năm 17 tuổi ông tham gia quân dịch, nhưng ông không quan tâm đến con
đường công danh trong binh nghiệp. Lẽ ra ông sớm được dời quân ngũ nhưng lúc
đó các thuộc địa của đế quốc Anh ở châu Mỹ đã bắt đầu những cuộc chiến tranh
giành độc lập nên ông đã đến Mỹ tham gia cuộc chiến đấu cho sự nghiệp cho sự
nghiệp giải phóng nhân dân nơi đó và được phong hàm cấp tá. Sau này ơng rất tự
hào coi mình “là một trong những người xây dựng nền tự do cho Hợp chủng
quốc”. Năm 1783 ông về Pháp. Gia sản khơng cịn gì, bố chết, anh chị em mỗi
người một ngả ông đành ở lại quân đội sống một thời gian, sống bằng đồng lương
cấp đại tá. Sau đó ơng chu du nhiều nước ở châu Âu như Hà Lan, Tây Ban Nha…
và bắt đầu đưa ra nhiều dự án chính trị, quân sự song chưa theo khuynh hướng nào
rõ rệt.
Mùa thu năm 1789 khi cách mạng Pháp bùng nổ, ông trở về nước và bắt đầu
say mê tuyên truyền tư tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Ông tự bác bỏ danh
hiệu Bá tước và đặt cho mình cái tên “Người cơng dân chất phác”. Tư tưởng của
3



Xanh Ximơng lúc này có nhiều mâu thuẫn, có lúc ủng hộ những hành động dân
chủ của cách mạng, có lúc lại tỏ ra hoang mang, dao động vì cảm thấy “ghê tởm
sự phá hoại”. Đến năm 1797 ông bắt đầu chú ý nghiên cứu khoa học. Năm 42 tuổi
ông cho xuất bản nhiều tác phẩm. ở vào thời kỳ này ơng đã gặp nhiều khó khăn
trong cuộc sống. Nhưng chính lúc này ơng tập trung viết nhiều tác phẩm nhất và
những tác phẩm đó rất có giá trị cho xã hội đương đại mà cả cho tương lai.
2. Phăngxoa Mariê Sáclơ Phuriê
Phăngxoa Mariê Sáclơ Phuriê sinh năm 1772 mất năm 1837. Ơng được sinh
ra ở thành phố Bơrăngđơng của nước Pháp, trong một gia đình bn bán nhỏ, sớm
phải theo bố học nghề bn bán. Ơng đã từng làm kế toán, thủ quỹ, văn thư, người
chào hàng và người theo dõi thị trường chứng khốn. Sống trong mơi trường
thương mại ông đã tận mắt chứng kiến những cảnh dối trá, lừa đảo, bịp bợp, tàn
nhẫn của những kẻ làm giàu trên lưng người khác. Vì vậy ơng căm ghét cực độ thế
giới con buôn, đầu cơ trục lợi và cho rằng tất cả mọi quan hệ giữa người với người
trong xã hội đương thời đều là thể hiện của sự mua bán phổ biến.
Lúc cịn trẻ Phuriê khơng được học nhiều ở nhà trường mà tự học là chính.
Trí tưởng tượng và sự đam mê của ông phát triển từ rất sớm. Ơng thích âm nhạc,
hội hoạ, say mê ngắm cảnh lộng lẫy trong vũ hội và sống giản dị, khiêm tốn với
mọi người. Không khoan nhượng trước những đối thủ tư tưởng đó là nét nổi bật
trong tính cách của ơng. Nhìn bề ngồi Phuriê là một người rất bình thường nhưng
trong thế giới nội tâm có nhiều nét khác thường. Mẹ ông, ông cho là người không
gặp may, cịn nhiều người xung quanh thì ơng coi là như một người điên. ông
thường bị người người chế diễu, thậm chí xúc phạm nhưng mọi người đều thừa
nhận ơng là con người sắc sảo, có trí nhớ tuyệt diệu. Ơng thích gọi mình là “nhà
phát minh” và thực tế ông để lại nhiều tư tưởng đặc sắc trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như tâm lý học, giáo dục học, triết học, xã hội học…
3. Rơbớc Ơoen
Rơbớc Ơoen sinh năm 1771 mất năm 1858. Ông sinh ra trong một gia đình

thủ cơng ở thị trấn nhỏ Nuitan (xứ Đenxơ). Lên 9 tuổi ông phải đi làm thuê trong
một quán hàng ở địa phương và sau đó ơng đi lang thang đến London để kiếm việc
4


làm. Từ năm 1787 ơng sống ở Mansettơ và chính tại đây ơng đã trở thành người
quản lý, sau đó trở thành giám đốc của một công ty kéo sợi cỡ lớn.
Ơng đã tiến hành cuộc thí nghiệm nổi tiếng ở Niulanac, là một thị trấn nhỏ,
là một công trường có gần 1,5 ngàn người sinh sống trong những túp lều chen chúc
quanh nhà máy. Đó là những thợ thủ cơng bị khánh kiệt, những cố nơng khơng có
việc làm, những người bị giam và tù khổ sai mãn hạn. ở đây say rượu, đánh nhau,
cãi nhau ầm ỹ là chuyện thường ngày. Đầu năm 1800, khi đã trở thành người làm
chủ và giám đốc nhà máy kéo bông sợi lớn ở NuiLanac, ông từng bước thực hiện
cuộc cãi tổ và hợp lý hoá về kỹ thuật cũng như những biện pháp xã hội mang tính
từ thiện: những khu nhà tiện lợi được xây dựng cho công nhân thay cho những túp
lều, việc cung cấp thực phẩm được cải tiến. Trường học và nhà trẻ xuất hiện, nhà
mẫu giáo mọc lên, quỹ bệnh viện được thành lập, ngày làm việc được rút ngắn.
Năm 1806, khi công việc xảy ra trong công việc bông vải sợi làm nhà máy
phải ngừng sản xuất trong 4 tháng nhưng lương vẫn được trả như trước. Nuilamac
trở thành một xóm kiểu mẫu với số dân tăng lên 2,5 nghìn người và ở đó khơng
cịn nạn say rượu, cảnh sát, tồ án hình sự, kiện cáo, tổ chức tế bần và hoạt động từ
thiện nữa” và ở đó trẻ em được giáo dục từ tuổi ở nhà giữ trẻ đến năm 17 tuổi, lao
động được kết hợp với lứa tuổi một cách thích hợp.
Ơoen đề xuất “Luật Công xưởng nhân đạo” và suốt 5 năm đấu tranh khơng
mệt mỏi cho Luật Cơng xưởng đó. Đến năm được Nghị viện thông qua sau khi cắt
xén nhiều nội dung quan trọng.
Năm 1824 Ooen sang châu Mỹ. Năm 1825, tại bang Indiana ơng lập Cơng
xã lao động “hồ hợp mới” và ông chi vào công việc hầu hết tài sản của ơng. Đến
năm 1829, ơng thất bại hồn tồn. Ông còn sống gần 30 năm tiếp theo và trong
những năm này ơng đã hoạt động rất tích cực.

Đánh giá cơng lao của Ơoen, Anghen viết “mọi phong trào xã hội vì lợi ích
của giai cấp cơng nhân ở nước Anh và mọi thành tựu của phong trào ấy đều gắn
với tên tuổi của Ôoen”.

5


II. Những giá trị trong tư tưởng của XanhXimông, S.Phuriê, R.Ôoen
Hầu hết những quan niệm, các luận điểm của các nhà tư tưởng CNXH đều
chứa đựng tinh thần nhân đạo cao cả. Về cơ bản những tư tưởng nhân đạo ấy chưa
vượt khỏi tinh thần nhân đạo tư sản. Tuy nhiên nhiều giá trị, luận điểm đã vượt lên
tinh thần nhân đạo tư sản, nhất là trong tư tưởng của các nhà tư tưởng đầu thế kỷ
XIX (gắn liền với tên tuổi của XanhXimơng, S.Phuriê, R.Ơoen) có một giá trị lịch
sử to lớn.
1. Phê phán chủ nghĩa tư bản, bênh vực người lao động
Các nhà XHCN không tưởng thế kỷ XIX đã phê phán CNTB một cách sâu
sắc và phần nào nói lên tiếng nói của những người lao động nghèo khổ, bênh vực
họ trước tình trạng bị đối xử bất công trong xã hội. Dưới con mắt quan sát của
những nhà không tưởng xã hội Tư bản hiện lên đầy biến động, sự kích thích
thường xuyên của cạnh tranh đã dẫn đến những xung đột làm cho của cải bị khánh
kiệt, đạo đức bị suy đồi.
XanhXimơng có thái độ phê phán đối với cách mạng Tư sản Pháp. Ông cho
rằng tai hoạ là ở chỗ cuộc cách mạng đã đưa một giai cấp vốn ở vị trí trung gian –
giai cấp tư sản lên nắm quyền thống trị thay thế giai cấp phong kiến và giai cấp
này đã lợi dụng địa vị đó để lái cuộc cách mạng về phía lợi ích của nó. ơng đã chỉ
ra tính hạn chế của cuộc cách mạng tư sản “Khi người ta tuyên bố rằng cuộc cách
mạng tư sản Pháp đã hoàn toàn phá huỷ các quyền lực phong kiến và thần quyền
thì đó là sự thổi phồng”; “nó khơng thủ tiêu chúng mà chỉ một phần đáng kể sự tin
cậy vào những nguyên tắc làm cơ sở cho chúng mà thôi”
Theo ông cuộc cách mạng ấy chưa thiết lập được một chế độ phù hợp với

quyền lợi của “giai cấp nghèo khổ nhất và đơng đảo nhất” do đó cần có và sẽ có
một cuộc cách mạng mới làm thay đổi xã hội theo hướng bảo đảm lợi ích cho xã
hội. Mọi sự thay đổi như vậy- theo ông “phải thực hiện một cách mãnh liệt và
ngay lập tức”. Với quan điểm biện chứng về lịch sử XanhXimông cho rằng cuộc
cách mạng trước chuẩn bị cho cuộc cách mạng sau, những “cuộc cách mạng cục
bộ” chuẩn bị cho cuộc “tổng cách mạng”, những cuộc cách mạng hạn chế chuẩn
bị cho cuộc cách mạng triệt để mai sau
6


“Cách mạng được phép bắt đầu ít nhất 5 năm sau khi xuất bản cuốn “Bách
khoa toàn thư”, dân đen nổi lên như bọt, giai cấp ngu dốt chiếm lấy chính quyền
vì khơng có năng lực mà dẫn đến nạn đói giữa cảnh thừa thãi”
Người thiên tài thực hiện nguyện vọng của người có học thức, cải cách chế
độ dân chủ và đem lại cho Thượng viện lập pháp với tư cách là những hạn chế
theo Hiến pháp” 1
Bên cạnh đó XanhXimơng cịn chỉ ra những cái bất hợp lý của xã hội: đó là
tình trạng vơ chính phủ dẫn đến các cuộc khủng hoảng và tàn phá cơ sở của xã hội,
làm cho các dân tộc phải chịu nhiều tiêu cực. Đó là xã hội đầy rẫy những đặc
quyền, đặc lợi sinh ra từ sự “bất bình đẳng trong sở hữu” và “đặc quyền theo
nguồn gốc xuất thân”. Đó là tình trạng trong xã hội “lộn ngược” như ơng viết
trong tác phẩm “Ngụ ngôn”.
Theo XanhXimông, xã hội TBCN là một “bức tranh lộn ngược”. Ông cho
rằng xã hội hiện nay thực sự là một bức tranh lộn ngược, vì dân tộc chấp nhận một
điều là nguyên tắc cơ bản là người nghèo khổ rộng lượng với người giàu, vì vập
những người kém sung túc hàng ngày thiếu một phần tư liệu cần thiết cho họ tăng
số dư thừa của những người sở hữu lớn, vì những kẻ phạm tội lớn nhất, bọn trộm
cướp cao cấp, cướp bóc của tồn thể cơng dân 300 hoặc 400 triệu mỗi năm, có
quyền trừng phạt cho những nỗi lầm nhỏ chống xã hội, vì sự dốt nát, sự mê tín, sự
lười biếng và sự ham muốn đều thích thú tốn kém là chức phận của những người

đứng đầu xã hội, còn những người có năng lực tiết kiệm và cần cù thì phục tùng họ
và được sử dụng làm cơng cụ, vì nói tóm lại tất cả mọi người khơng có năng lực
điều khiển những người có năng lực và những người vơ đạo đức có nhiệm vụ dạy
đức hạnh cho cơng dân, cho kẻ phạm tội lớn nhất có nhiệm vụ trừng phạt những
nỗi lầm nhỏ” 2
Phuriê, trong tác phẩm của mình ông đã phê phán và lên án xã hội tư sản
một cách sâu sắc. Theo ông xã hội tư sản là một “trạng thái vơ chính phủ của
cơng nghiệp”, trong đó người lao động được tiêu dùng q ít, cịn các tầng lớp ăn
bám thì được hưởng q nhiều. Đó là xã hội mà “sự nghèo khổ sinh ra từ chính
bản thân sự thừa thải”. Xã hội đó đang vận động trong “vịng luẩn quẩn”. Ơng
1
2

Các nhà tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10 tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10 tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10ởng XHCN trước Mác, q2, tr10ng XHCN trư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10ớc Mác, q2, tr10c Mác, q2, tr10
Sđd, tr 19-20d, tr 19-20

7


kịch liệt nên án tình trạng cạnh tranh trong nền thương nghiệp TBCN mà hậu quả
của nó là thị trường rối loạn và người lao động bị bần cùng hoá. Theo ông “rằng
cái ngược lại là sự cạnh tranh làm cho tiền công giảm sút và nhân dân bị bần
cùng do những thắng lợi của công nghiệp: công nghiệp càng phát triển thì người
cơng nhân càng phải chịu đựng cơng việc chán ngắt với cái giá rẻ mạt; nhưng mặt
khác số thương nhân tăng lên càng nhiều thì họ càng bị thu hút vào sự lừa bịp vì
khó kiếm lời”3 Ông phê phán đạo đức của xã hội Tư sản đương thời, ơng cho rằng
nó là sự hạn chế, bắt bẻ, phiền phức đối với những người nghèo, còn đối với người
nghèo thì đó lại là chiếc mặt nạ để chúng che đậy một âm mưu và hành động tội
ác. Do đó “suy cho cùng, đạo đức là những điều nhảm nhí khá buồn tẻ để những
kẻ ăn khơng ngồi rồi giải trí”. Trong xã hội đó, người nghèo chỉ được bình đẳng

trên danh nghĩa, cịn trên thực tế họ phải chịu đựng sự bất bình đẳng và rơi vào
cạm bẫy của người giàu”. Phuriê đã từng nêu ra một trong những tình huống rất
điển hình mà người nghèo là đối tượng hứng chịu mọi hậu quả của sự bất công:
người ta không từ chối trực tiếp cho họ quyền cơng lý: họ tự do đến tồ án kiện
nhưng họ khơng có gì để trang trải lệ phí tư pháp, hoặc giả nếu họ phát đơn kiện
hết sức chính đáng thì chẳng mấy chốc, họ bị kẻ cướp bóc xảo quyệt giàu có làm
cho khánh kiệt, chúng lơi họ nên trên để chống án đi, chống án lại, họ không đủ
sức chịu những phí tổn như vậy nên phải chịu nhượng bộ.
Phuriê phê phán gay gắt chế độ hôn nhân tư sản bị biến dạng thành giao kèo
buôn bán, hợp thức hoá sự sa đoạ làm cho phụ nữ bị vơ quyền. Ơng coi việc giải
phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do trong mọi xã hội. ông phê phán hệ thống
giáo dục tư sản làm què quặt trẻ em..
Trong nhiều trường hợp, các nhà chủ nghĩa không tưởng đã phê phán CNTB
trên lập trường bảo vệ, bênh vực những người nghèo khổ. Do đó nhiều tư tưởng
XHCN do họ nêu ra mang trong nó những yếu tố của chủ nghĩa nhân đạo và bản
thân họ đồng thời là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Nhiều nhà không tưởng xã hội chủ
nghĩa thế kỷ XIX đã lấy chính con người làm điểm xuất phát đi đưa ra những quan
điểm của mình về xã hội mới.
2. Dự đốn về xã hội tương lai và đặc điểm của xã hội đó
3

Sđd, tr 19-20d, tr 70

8


Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã nêu lên nhiều luận điểm có giá trị,
nhiều dự đốn tài tình về sự phát triển của xã hội và về một xã hội tương lai tốt đẹp
mà sau này các nhà sáng lập CNXH khoa học đã kế thừa một cách có phê phán và
thuyết minh chúng trên cơ sở khoa học.

XanhXimông mơ ước xây dựng một xã hội tốt đẹp đáp ứng được những nhu
cầu vật chất và tinh thần của mọi người. Theo ông muốn làm được việc ấy trước
tiên là phải giải quyết được vấn đề sở hữu “chế độ sở hữu phải được tổ chức như
thế nào để có lợi nhất cho tồn xã hội về mặt tự do và về mặt của cải”. Khác với
các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước đó, XanhXimơng đã đi đến một công thức
rõ hơn: các thiết chế xã hội phải thúc đẩy việc tăng thêm phúc lợi cho những người
vô sản. Tức là ông đã nhận ra lực lượng trong xã hội lúc đó là quần chúng nhân
dân lao động phải giải phóng cho họ trước hết là nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần. Cũng chính vấn đề này đã được VP.Vơnghin nhận xét “thế là những ưu sách
“hạnh phúc lớn nhất cho số người đông nhất” do các nhà khai sáng đưa ra, đã
được chi tiết hoá và bổ sung thêm trong học thuyết của XanhXimơng, do vậy mà
có một khuynh hướng giai cấp nào đấy, tuy chưa hoàn toàn xác định” 4
Tức là trong xã hội ấy, con người được sống trong hoà bình và các dân tộc
liên kết lại để bảo vệ lợi ích chung. Những nhà khoa học, nhà nghệ thuật và nhà
nghệ thuật phải đóng vai trị điều khiển và lãnh đạo xã hội, chỉ có họ mới điều
khiển và lãnh đạo xã hội, chỉ có họ mới có khả năng bảo đảm vật chất-tinh thần
cho mọi người.
Theo XanhXimông viết trong tác phẩm Lý luận về tổ chức xã hội: “Trong
một xã hội được tổ chức với một mục tiêu xác định – vươn tới phồn vinh nhờ khoa
học, nghệ thuật và nghề nghiêp, một hành động chính trị quan trọng nhất theo một
hướng xác định mà xã hội phải đi, khơng cịn do những người khác giữ các chức
vụ trong xã hội thực hiện nữa – nó do bản thân cơ thể xã hội tiến hành….” 5tức là
theo quan điểm của XanhXimơng, chính trị được ơng xem là “khoa học về sản
xuất, tức là khoa học nhằm mục tiêu thiết lập trật tự vận dụng cho cho loại hình
sản xuất diễn ra thuận lợi” tức là muốn nâng cao đời sống cho đông đảo nhân dân

4
5

VP Vônghin: Lư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10 c khảo lịch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461o lịch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461ch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461 các tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10 tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10ởng XHCN trước Mác, q2, tr10ng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461 thật, Hà nội 1979, tr 461t, Hà tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10 nội 1979, tr 461i 1979, tr 461

Sđd, tr 19-20d, tr 20

9


lao động thì phải giao nhiệm vụ lãnh đạo quản lý cho những người thực sự có năng
lực. Đây chính là tư tưởng xã hội chủ nghĩa tiến bộ của XanhXimông
Cũng giống như những nhà xã hội không tưởng trước đó, Phuriê đã phê
phán xã hội đương thời đầy bất công và ông mong muốn xây dựng mới như sau:
Trước hết Phurie xây dựng xã hội mới qua giai đoạn “xã hội bảo đảm” và
tiến tới giai đoạn “xã hội hài hồ”. Trong đó sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích tập thể được xác lập khi “mỗi con người riêng biệt chỉ tìm thấy đều có lợi…
trong cái lợi của toàn thể quần chúng”. So với các nhà khơng tưởng trước đó thì
Phurie đã có một xã hội tưởng tượng đến cụ thể từng giai đoạn xây dựng xã hội
mới.
Phurie là con người đầu tiên chỉ ra tính tất yếu và tính ưu việt của tổ chức
làm ăn tập thể trong các hiệp hội. ông viết “….những nhà triết học, các anh hồi
cơng chất đống các tủ sách để tìm hạnh phúc, chừng nào chưa nhổ sạch gốc rễ
của mọi tai hoạ xã hội tôi xin nói – từ bỏ tình trạng làm ăn rời rạc, trái ngược trực
tiếp với hình ảnh của chúa” và “….chúng sẽ trở thành người chứng kiến cảnh
tượng chỉ có thể thấy một lần ở hành tinh: bước chuyển đột ngột từ sự rời rạc sang
sự phối hợp chặt chẽ về mặt xã hội”. Tức là ơng cho rằng tính tập thể sẽ mạnh hơn
tính cá thể, do đó phải tập hợp lại làm ăn trong các hiệp hội.
Theo Phuriê, muốn xây dựng xã hội mới cần khám phá ra quy luật vận động
cơ bản của xã hội – những đam mê, dục vọng làm động lực cho hành vi. Quy luật
cơ bản của sự vận động xã hội là lôi cuốn của các đam mê, sự thoả mãn các dục
vọng… nhận thức được điều đó có thể khám phá ra quy luật xã hội phù hợp với
bản chất của con người.
Phuriê chia mỗi chế độ xã hội thành 4 giai đoạn tương ứng với 4 lứa tuổi
trong một đời người: 1. Thơ ấu, 2. Thanh niên, 3.Trưởng thành, 4. Tuổi già. ông

cho rằng xã hội tư bản Anh, Pháp đương thời “đang ở giai đoạn thứ ba nghiêng
sang giai đoạn thứ tư”. Vượt qua đoạn đường còn lại, tức là xã hội tư bản, kết thúc
cuộc đời của bản thân mình và xã hội bước vào kỷ nguyên mới, kỷ ngun bảo
đảm và hài hồ.
Theo quan điểm của Ơoen, phải thay chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu.
Nếu như trước đây chế độ tư hữu như một nhu cầu tất yếu hoặc có ích đến sự phát
10


triển của xã hội thì ngày nay, khi máy móc ra đời, nó hồn tồn khơng cần thiết
nữa và là một tệ nạn khơng gì biện bạch được. Nếu có một xã hội được tổ chức và
hợp lý, có khoa học, máy móc thì chế độ tư hữu hồn tồn khơng cần thiết nữa. ở
đây từ những người có địa vị cao nhất đến những người có địa vị thấp nhất trong
xã hội đều có thể tự đảm bảo được mọi nhu cầu vì hạnh phúc của mình, thậm chí
cịn đầy đủ hơn nhiều so với có thể đạt được bằng cạnh tranh để có tài sản sở hữu.
Tức là Ôoen đã xây dựng một xã hội mới rất tốt đẹp và ơng đã lý giải chế độ đó ưu
việt hơn chế độ chế độ tư hữu là điều tất yếu. Và ông cũng cho rằng nếu tổ chức
chế độ cơng hữu đúng đắn và có điều kiện sống như nhau thì sẽ khơng cịn những
cuộc hơn nhân dựa trên sự tính tốn bằng tiền, khơng cịn trẻ em hư hỏng, khơng
cịn mâu thuẫn giữa người với người về lợi ích. Đây chính là những tư tưởng xã
hội chủ nghĩa tốt đẹp mà Ơoen đã xây dựng.
Ơng có tư tưởng hết sức tiến bộ đó là coi việc thủ tiêu sự khác nhau về đẳng
cấp và giai cấp cho con người xa rời những quy luật tự nhiên là điều kiện cần thiết
của sự bình đẳng xã hội.
Ơoen xem cơng xã lao động là cơ sở tổ chức xã hội mới. ở đó các thành viên
sống như một gia đình, nghĩa là “mỗi thành viên sẽ hợp tác với thành viên khác”.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của công xã được xây dựng trên cơ sở lao động
tập thể, cộng đồng sở hữu, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các thành viên
trong công xã. Đây là ý tưởng rất gần với chủ nghĩa Mác sau này.
Khác với hiệp hội của Phuriê, công xã lao động của Ôoen là một tổ chức lao

động mở, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.ông cho rằng liên hiệp các
cơng xã sẽ là một tổ chức hồn toàn mới của xã hội loài người với tất các tính ưu
việt của nó. Sự liên kết thành những cơng xã lớn sẽ tiết kiệm được thời gian lao
động, vốn trong sản xuất và chi phí trong phân phối của cải, trong quản lý địa
phương. Sự tiết kiệm này sẽ phù hợp với sự tiết kiệm đạt được và thay thế lao động
chân tay bằng lao động máy móc hồn hảo. ở đây Ôoen đã tổ chức mọi mặt cho
lao động dựa trên chế độ công hữu sẽ đem lại năng suất cao cho lao động dựa trên
chế độ công hữu sẽ đem lại năng suất cao cho xã hội.
Ôoen đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự phát triển lực lượng sản xuất trong
thời đại cách mạng công nghiệp, ông cho rằng lực lượng vật chất đang chín muồi
11


trong lòng xã hội cuối cùng sẽ dẫn đến sự cải tạo xã hội. Trong quan niệm của ông
về xã hội tương lai, sự tiến bộ của công nghiệp và khoa học kỹ thuật là nét chủ yếu
và nổi bật nhất.
Những cống hiến của Ơoen là rất có ý nghĩa, đúng như Ănghen đã nhận xét,
đánh giá học thuyết của ông “…..Ôoen sống trong một nước mà sản xuất TBCN
phát triển nhất, bị ảnh hưởng bởi những đối lập do phương thức sản xuất ấy sinh
ra, nên đã xuất phát từ chủ nghĩa duy vật Pháp mà nêu ra một cách có hệ thống
những dự án xố bỏ những sự khác biệt giai cấp”.
3. Thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng
Trong mỗi giai đoạn lịch sử tương đối dài với những tư tưởng đã nêu ra
bằng hoạt động của mình, đã nhà tư tưởng đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu
tranh của quần chúng nghèo khổ và thúc đẩy lịch sử tiến lên, đặt một trong những
mốc ghi dấu sự phát triển tư tưởng loài người ở một giai đoạn nhất định.
Với những tư tưởng nêu trên, các tư tưởng XHCN không tưởng thế kỷ XIX
trước Mác và Ăngghen thừa nhận là một trong ba nguồn gốc của học thuyết mà
các ông sáng lập ra.
III. Những hạn chế trong tư tưởng XHCN của XanhXimông, S.Phuriê

và R.ôoen
Mặc dù những giá trị nêu trên là rất to lớn, nhưng do sự quy định của lịch
sử, các nhà tư tưởng CNXH khơng tưởng đầu thế kỷ XIX có những hạn chế sau
1. Chưa phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Các nhà tư tưởng CNXH không tưởng bênh vực những người nghèo khổ,
nhưng chưa ai trong số họ nhìn thấy nhân tố cách mạng trong những người nghèo
khổ, chưa ai phát hiện ra lực lượng xã hội có tiên phong có thể thực hiện cuộc
chuyển biến cách mạng từ TBCN lên CNCS. Lực lượng ấy đã được sinh ra và lớn
lên phát triển cùng với nền đại cơng nghiệp TBCN. Đó là sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp cơng nhân.
XanhXimơng giải thích ngun nhân hưởng ứng cách mạng, tham gia và
hiến thân cho cách mạng như sau: “nếu ai hỏi sự ham muốn nào đã gây nên cuộc
cách mạng Pháp và giai cấp nào cảm nhận nó mạnh hơn cả, thì tơi trả lời: sự ham
muốn bình đẳng và những người thuộc giai cấp dốt nát của họ cũng như do lợi
12


ích của họ”. Như vậy, quan niệm của XanhXimông rằng quần chúng hiến thân cho
cách mạng bởi vì sự dốt nát, tức là xem họ là vật hy sinh mù quáng cho cách mạng
là không đúng, không thấy được vai trò cách mạng to lớn của quần chúng.
2. Chưa thấy được sự cần thiết phải thực hiện cuộc cách mạng vô sản để
đi đến xã hội mới.
Các nhà XHCN không tưởng mong muốn một xã hội tốt đẹp nhưng họ chủ
trương đi đến xã hội công bằng bằng con đường cải cách dần dần, thuyết phục giáo
hoá bằng tư tưởng chứ không phải bằng con đường đấu tranh cách mạng, cải biến
cách mạng.
Để đi đến xố bỏ sự bất cơng và xây dựng một xã hội tốt đẹp, XanhXimông
đã chủ trương theo con đường hồ bình mới là những biện pháp duy nhất có thể
dùng nhằm mục đích xây dựng, sáng tạo nên những thể chế vững chắc. Đây chính
là hạn chế của XanhXimơng, khơng thể bằng con đường hồ bình mà xố bỏ được

áp bức, bất cơng trong xã hội. Nhưng ở đây XanhXimông chủ trương xây dựng xã
hội mới dựa trên chế độ tư hữu, nó chưa phải là chủ nghĩa xã hội theo nhận thức
của chúng ta ngày nay. Đó là một học thuyết chưa chín muồi, cịn mang tính chất
khơng tưởng và màu sắc tơn giáo. Nhưng có thể nhận thấy ở XanhXimơng là
người có cơng lớn với những tư tưởng bình đẳng xã hội và có nhiều dự kiến độc
đáo, đặc biệt là tấm lịng chân thành vì sự nghiệp mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại
cần lao vì thế mà ơng được lịch sử thừa nhận là một nhà XHCN khơng tưởng có vị
trí quan trọng vào đầu thế kỷ XIX.
Quan niệm của Phuriê về con đường và biện pháp xây dựng xã hội lý tưởng
cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Một mặt ông cho rằng trong các giai đoạn phát
triển nhất định của nhân loại, cách mạng là phù hợp quy luật “sự yên tĩnh chỉ là sự
tạm lắng của cách mạng”. Mặt khác, giống như XanhXimông, ông lại phản đối
bạo lực cách mạng vì cho rằng việc quá độ lên khối liên hiệp sẽ diễn ra một cách
hồ bình. Ơng hy vọng thực hiện kế hoạch của mình nhờ vào sự giúp đỡ của những
kẻ có quyền hành và tiền của. Thậm chí năm 1803, ơng đã thỉnh cầu tới “bàn tay
thánh” của Napơlng để hịng đưa nhân loại thốt khỏi cơn biến loạn xã hội. Tức
là trong tư tưởng xây dựng xã hội mới của Phuriê có nhiều tiến bộ nó biểu hiện
thông qua sự phân sự phát triển của xã hội những giai đoạn, yếu tố cách mạng.
13


Nhưng bên cạnh đó cịn những hạn chế, tư tưởng cịn nặng nề về tơn giáo, ơng tin
rằng có thánh, không dùng đến bạo lực để cải biến xã hội.
Theo Ôoen có thể chuyển sang một xã hội mới bằng con đường hồ bình,
rằng “sự biến đổi đó sẽ xảy ra mà phải dùng đến bạo lực, không đổ máu”. Tức là
bằng sự thuyết phục, tuyên truyền và ông đã chủ trương thuyết phục Chính phủ từ
bỏ con đường lầm lạc của mình, nhưng ơng đã bị thất bại vì họ khơng nghe theo
mà càng thuyết phục thì thái độ của họ càng lạnh đối với ông cuối cùng ông đã bỏ
rơi. Đây chính là sự xác định sai lầm của Ơoen muốn thay đổi chế độ bằng con
đường hồ bình, khơng dùng đến bạo lực hay nói một cách khác đấy chính là tư

tưởng xã hội khơng tưởng Ơoen đã không đưa lý thuyết cộng sản của ông vào
phong trào hiến chương đang diễn ra sơi nổi. Vì vậy cả phong trào hiến chương, cả
bản thân CNXH của oen đều không thể tiến xa được. Học thuyết của ooen vẫn
không thâm nhập và thúc đẩy được cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
Cho đến giới hạn cuối cùng, trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, các nhà XHCN
không tưởng đã khơng thể giải thốt mình khỏi vịng khơng tưởng. Bởi vì ngay cả
những luận điểm đúng đắn nhất mà họ nêu ra cũng mới chỉ là những dự đoán, chưa
được luận chứng dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Sự diệt vong của xã hội cũ,
sự ra đời của xã hội mới vẫn còn là những giấc mơ, nhưng mong muốn chủ quan
của con người chưa được bảo đảm bởi điều kiện vật chất nảy sinh và chín muồi
ngay trong q trình phát triển của xã hội.
Những hạn chế có tính chất lịch sử mà các nhà XHCN không tưởng đầu thế
kỷ XIX không thể vượt qua. Tuy nhiên với tất cả những nỗ lực không mệt mỏi, sự
cống hiến, hy sinh cho lý tưởng nhân đạo, vì sự tiến bộ của các nhà tư tưởng, các
tư tưởng và học thuyết XHCN thời kỳ này đã thực sự trở thành nền tảng lý luận
cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học.

14


III. ý nghĩa thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay.
Qua nghiên cứu tư tưởng XHCN của XanhXimông, S.Phuriê và R.ôen
cho chúng ta thấy rằng, mặc dù CNXH của các ông là khơng tưởng nhưng
nó được Mác và Ănghen xem là “những hệ thống XHCN và CSCN chính tơng” 6.
Hai ơng cịn tuyên bố rằng, học thuyết khoa học và cách mạng mà hai ông là người
sáng lập xuất hiện trên một cơ sở trong đó bao gồm các học thuyết XHCN không
tưởng của XanhXimông, S.Phuriê và R.ôen đã làm phong phú thêm cho sự phát
triển của tư tưởng XHCN trong lịch sử tiến bộ của nhân loại. Là một trong ba
nguồn gốc hợp thành chủ nghĩa Mác như như Anghen đã khẳng định “chủ nghĩa

xã hội lý luận Đức không bao giờ qn rằng nó là sự tiếp nối XanhXimơng,
S.Phuriê và R.ơen, ba nhà tư tưởng, mặc dầu tất cả tính chất ảo tưởng và không
tưởng trong học thuyết của họ – thuộc về những trí tuệ nhất vĩ đại nhất của tất cả
mọi thời đại và đã tiên đoán được một cách thiên tài vô số những chân lý mà ngày
nay chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn của chúng một cách khoa học”7.
Vì vậy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay cũng
phải nghiên cứu và tiếp tục kế thừa những tư tưởng tiến bộ của ba nhà XHCN
không tưởng đầu thế kỷ XIX. Các ông đã đi sâu vào nghiên cứu và đề cập một loạt
tư tưởng vô cùng quan trọng: về sự tiến bộ của lịch sử, coi lao động là nhu cầu đầu
tiên của con người, về giáo dục, về làm ăn có kế hoạch, về khắc phục sự đối lập
giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn, coi công
nghiệp cơ khí là cơ sở kỹ thuật của chế độ mới, bình đẳng xã hội, xố bỏ nạn
người bóc lột người và tất cả mọi hình thức bất bình đẳn trong xã hội. Đây là một
tư tưởng có giá trị rất to lớn mà chúng ta cần phải kế thừa để xây dựng xã hội mới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay chúng ta càng phải biết kế thừa giữa lý luận và
thực tiễn, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy tại Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ IX Đảng ta đã khẳng định “con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đước dưới chế độ tư
6
7

CácMác, nghen toà tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10n tật, Hà nội 1979, tr 461p, Nxb Chính trịch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461 quốc gia Hà Nội, 1995, tr 19, tr 278c gia Hà tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10 Nội 1979, tr 461i, 1995, tr 19, tr 278
Sđd, tr 19-20d, tr 18, rt 698, 699

15


bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng

sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”8. Để xây dựng xã hội tốt đẹp, đem lại ấm
no, tự do, hạnh phúc thật sự cho đa số nhân dân lao động, thì một đòi hỏi cấp thiết
đối với Đảng ta là phải chăm lo thực sự đến hạnh phúc của nhân dân. Đảng phải
thực sự trong sạch, vững mạnh, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực,
lệch lạc, tham nhũng. Thực hiện sự bình đẳng phải trên thực tế, chứ khơng phải
chung chung bằng những lý thuyết suông.

V n ki n Đ i hội 1979, tr 461i đd, tr 19-20 i bi u toà tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10n quốc gia Hà Nội, 1995, tr 19, tr 278c l n thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà a Đảo lịch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461ng Cội 1979, tr 461ng sảo lịch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461n Vi t Nam, Nxb Chính trịch sử các tư tưởng XHCN, Nxb Sự thật, Hà nội 1979, tr 461 quốc gia Hà Nội, 1995, tr 19, tr 278c gia Hà tư tưởng XHCN trước Mác, q2, tr10
Nội 1979, tr 461i, 2001, tr 54
8

16


Kết luận
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của XanhXimông, Phuriê và Ôoen phê phán xã
hội tư bản gay gắt, quyết liệt, mang tính phủ định nó, với nền tảng của nó là chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng người bóc lột người, phần nào
phản ánh được tiếng nói của nhân dân lao động trước tình trạng bị đối xử bất cơng
và áp bức trong xã hội. Sự phê phán không chỉ dừng lại ở việc miêu tả chi tiết
những hiện tượng tội ác phơi bày trên bề nổi của xã hội mà còn bắt đầu khám phá
bí ẩn trong xã hội và đi tới phủ nhận sự tồn tại của xã hội đó.
Thơng qua sự phê phán của XanhXimơng, Phuriê và Ơoen chế độ tư bản
hiện ra với đầy đủ tính chất xấu xa của nó như bóc lột, bất bình đẳng. Sự phê phán
đó thể hiện tinh thần nhân đạo chủ nghĩa,tuy khơng ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân
đạo tư sản để vươn tới những giá trị nhân đạo- hướng vào mục tiêu giải phóng
những người lao động và thực hiện sự bình đẳng xã hội.
Một điều đáng ghi nhận ở XanhXimông, Phuriê và Ơoen là họ đã có những
đóng góp trong việc xây dựng một mơ hình XHCN ở giai đoạn đầu, tuy chưa được
thực hiện một cách hịên thực nhưng các ông đã phác hoạ lên một mô hình XHCN

lý tưởng cho lồi người. Mặc dù nó chỉ là ước mơ, nguyện vọng chủ quan nhưng
nó có giá trị rất lớn là nền tảng để sau này Mác kế thừa và phát triển thành học
thuyết XHCN khoa học.
Nhờ có những nhà CNXH khơng tưởng trước Mác đã có ý thức giải phóng
đơng đảo nhân dân lao động khỏi bị áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, đem lại sự
bình đẳng và mỗi người được sống trong hạnh phúc. Đây là công lao lớn nhất mà
Mác đã khắc hoạ trong những tác phẩm của mình sau này. Tuy những tư tưởng
XHCN ấy là khơng tưởng, chưa hồn thiện nhưng đã tạo tiền đề vững chắc nhằm
tiến tới xây dựng CNXH và CNCS.
Những tư tưởng XHCN không tưởng thế kỷ XIX khơng có giá trị với xã hội
đương thời mà ngày nay để tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chúng ta thấy
những tư tưởng ấy vẫn cịn có giá trị về mơ hình xây dựng xã hội mới tốt đẹp mà
chúng ta cần phải kế thừa, nhằm thực hiện thắng lợi con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản một cách sớm nhất.
17


Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Lược khảo lịch sử tư tưởng XHCN và CNCS, Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội 1994
2. Sưu tập các nhà không tưởng XHCN trước Mác, năm 2004
3. Giáo trình lịch sử tư tưởng XHCN, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội
năm 2002
4. Lược khảo lịch sử tư tưởng XHCN V.P Vônghin, Nxb Sự thật Hà Nội,
1979
5. CácMác, Ănghen tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006

8. Lịch sử tư tưởng XHCN Phương Tây trước chủ nghĩa Mác, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 2006

18



×