Phần thứ nhất
CÂY LÚA
CÂY LÚA
Lý thuyết : 10 tiết
NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH
Chương 1: Nguồn gốc, giá trị và tình hình phát triển 2 tiết
Chương 2: Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa 3 tiết
Chương 3: Kỹ thuật trồng lúa 5 tiết
Chương 1
NGUỒN GỐC, GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN
1.1. NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI
1.1.1. Nguồn gốc, lịch sử phát triển
* Nguồn gốc
Cây lúa là một trong những cây ngũ cốc có lịch sử trồng trọt lâu đời nhất, là một
trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với ngô, lúa mì (tiểu mạch), sắn
(khoai mì) và khoai tây. Căn cứ vào các tài liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt
Nam cây lúa đã có mặt từ 3000-2000 năm trước công nguyên. Ở Trung Quốc vùng Triết
Giang đã xuất hiện cây lúa 5000 năm, ở hạ lưu sông Dương Tử 4.000 năm. Tuy nhiên, vẫn
còn thiếu những tài liệu để xác định một cách chính xác thời gian cây lúa được đưa vào
trồng trọt. Dù sao người ta vẫn cho lúa là một cây trồng cổ, có vai trò quan trọng trong
đời sống và lịch sử phát triển của hàng ngàn triệu người trên trái đất.
Mặc dù ý kiến cụ thể về nguồn xuất xứ còn khác nhau, chưa thống nhất nhưng có
nhiều tài liệu lịch sử và di tích khảo cổ đã chứng minh về phương diện sinh thái học cây
lúa và nghề trồng lúa đã có từ lâu đời gắn liền với lịch sử phát triển của loài người, nhất là
ở Châu Á.
Về phương diện sinh thái ta cũng thấy những vùng trên đều có những đặc điểm
giống nhau về điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm phù hợp với cây lúa. Nơi đây đã và
đang tồn tại các loại hình lúa dại, có ít nhiều quan hệ với lúa trồng. Mặt khác các tài liệu
lịch sử, di tích khảo cổ, đời sống văn hoá, xã hội, tập quán của vùng này gắn bó chặt chẽ
với cây lúa từ lâu đời. Sau hết, nơi đây lúa gạo được coi là nguồn lương thực chính có liên
quan đến đời sống của hàng trăm triệu người.
Về nguồn gốc thực vật, cây lúa thuộc họ hoà thảo (Gramineae), chi Oryza. Trong
chi Oryza có nhiều loài, sống một năm hoặc nhiều năm, trong đó chỉ có 2 loài trồng là
Oryza sativa, phổ biến ở châu á, chiếm đại bộ phận diện tích trồng lúa, có nhiều giống có
đặc tính tất cho năng suất cao và Oryza glaberrima, hạt nhỏ, năng suất thấp, chỉ trồng trên
diện tích nhỏ ở Tây Phi. Lúa trồng hiện nay là do lúa dại qua chọn lọc tự nhiên và chọn lọc
nhân tạo lâu đời hình thành.
Quá trình hình thành loài lúa trồng có thể được khái quát như sau: Trong thời tiền
sử, các bộ lạc sinh sống trong vùng có lúa dại O. falua đã thuần hoá nó và trồng nó ở
những nơi xa nhau và độc lập với nhau. Ở vùng nhiệt đới gió mùa này, năng suất cây dại
tuỳ thuộc vào mùa mưa. Nơi nào mưa đều, có nước nó sẽ cho nhiều hạt. Và những loài cây
sinh sống ở trên đầm lầy có điều kiện cho thu hoạch ổn định. Trong thời kỳ sức sản xuất
còn rất thấp, con người nguyên thuỷ tìm kiếm thức ăn bằng cách hái lượm những cây sống
ở vùng có nước ngập ẩm thường xuyên ấy vào mùa khô hanh. Trước hết, trước hết họ hái
lượm ở các vùng tự nhiên có O. fatua mọc. Đến những năm gần đây, nông dân ta ở Nam
bộ vẫn còn đi gặt “lúa ma” ở Đồng Tháp Mười. Những nông dân ở bán đảo Đông Dương
có thể là những người đầu tiên đã đem hạt O. fatua “gieo” quanh nơi cư trú. Không cần có
công cụ sản xuất phức tạp gì cũng làm được việc đó (đốt cỏ và rạ trong mùa khô rồi gieo
hạt chờ mưa, hạt sẽ mọc). Nhưng khi bắt đầu trồng lúa ở đầm lầy, con người phải định cư,
xây dựng lều lán, nhà cửa trên những khu đất cao hay phải làm nhà sàn. Ngày nay vẫn còn
những hình thức kiến trúc này ở Đông Nam Á, cả ở miền Nam nước ta. Chiến tranh giữa
các bộ lạc, sự trao đổi giữa các bộ lạc, sự kết hợp nhiều lần của các bộ lạc và việc hình
thành những hình thức đầu tiên của nhà nước đã làm hỗn tạp với mức độ khác nhau những
loại hình Oryza fatua đã thuần hoá, đã làm đa dạng hoá các loại hình lúa bắt đầu được gieo
trồng. Từ đó nảy sinh vô số các loại hình và các giống lúa khác nhau mà ngày nay theo
phân loại của Carl Linné từ đầu thế kỷ XVIII, đã được gọi tên chung là Oryza sativa.
* Lịch sử phát triển
Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ,
mà là ở vùng Đông Nam Á, vì vùng này khí hậu ẩm và là điều kiện lý tưởng cho phát triển
nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên qua, quê hương đầu tiên của
cây lúa là vùng Đông Nam Á và Đông Dương, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi
nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa
lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông
Dương Tử. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang
Nhật Bản, Hàn Quốc - những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch. Ở Trung
Quốc và Nhật Bản ngày xưa, chỉ có giai cấp quí tộc hay võ sĩ mới có gạo ăn thường xuyên.
Ở Hàn Quốc, người ta có danh từ “annam mi” để chỉ loại gạo nhập cảng từ Việt Nam và các
nước Đông Nam Á.
Từ trung tâm khởi nguyên, cây lúa được phát triển về cả hai hướng Đông và Tây.
Cho đến thế kỷ thứ nhất, cây lúa được đưa vào trồng ở vùng Địa Trung Hải như Ai Cập,
Italia, Tây Ban Nha. Đến đầu thế kỷ thứ XV cây lúa từ Bắc Italia nhập vào các nước Đông
Nam như Nam Tư cũ, Bungari, Rumani Đầu thế chiến thứ hai, lúa mới được trồng đáng
kể ở Pháp, Hungari.
Đến thế kỷ XVII cây lúa được nhập vào Mỹ và trồng ở các bang Virginia, Nam
Carolina và hiện nay trồng nhiều ở Califomia, Louisiana, Texas
Theo hướng đông, đầu thế kỷ XI cây lúa từ Ấn Độ được nhập vào Indonexia, đầu
tiên ở đảo Java.
Đến giữa thế kỷ XVIII cây lúa từ Iran nhập vào trồng ở Kuban (Nga). Cho đến nay,
cây lúa đã có mặt trên tất cả các châu lục, bao gồm các nước nhiệt đới, á nhiệt đới và một
số nước ôn đới. Ở Bắc bán cầu cây lúa được trồng ở Đông bắc Trung Quốc 53
o
B cho tới
Nam bán cầu ở châu Phi, Australia (New South Wales, 35
o
vĩ Nam).
Hiện nay lúa đang được gieo trồng rộng rãi trong những điều kiện sinh thái và khí
hậu rất khác nhau vì cây lúa rất thích nghi với môi trường và con người đã thành công
trong việc cải tạo môi trường nên cây lúa ngày nay đã có thể trồng được ở nhiều địa
phương. Lúa được trồng ở cả châu Á, Châu Đại Dương, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, ở
nửa cầu Bắc đến vĩ độ 50
O
B (Tiệp Khắc) và ở nửa cầu Nam đến vĩ độ 35
O
N (vùng
Newsouth Wales thuộc Úc và ở Uruguay), từ vùng ven biển đến độ cao 3000m trên mặt
biển ở vùng Himalaya, từ đồng ngập sau tới 6m ở Bangladesh đến những nương cao, hầu
như không lúc nào mặt nương có lớp nước phủ, từ những vùng nhiệt đới mưa nhiều (trên
1500mm/năm và trong vụ lúa cũng có trên 1000mm) đến những vùng chỉ có mưa 9,8 -
13,8mm trong vụ lúa (Liên Xô).
Oryza sativa là loài lúa chủ yếu, người ta cho rằng bắt nguồn từ Đông Nam châu Á.
Tính toán sản lượng lúa cho thấy Châu Á không chỉ là quê hương của Oryza sativa mà còn
là nơi trồng lúa chính trên thế giới. Các giống lúa Indica được phổ biến rộng ở vùng nhiệt
đới Đông Nam Á, các giống lúa Japonica thích nghi với điều kiện lạnh hơn nên được trồng
ở các miền Trung và Nam Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan.
1.1.2. Phân loại
Có thể coi coi Linné là người đầu tiên đặt nền móng cho việc phân loại Oryza.
Trong cuốn “Các loài thực vật” (Species Plantanlm, 1753), C. Linné đã mô tả loài Sativa
trồng ở Ấn Độ (Goutchin G.G. 1935).
Việc phân loại chi Oryza có nhiều ý kiến khác nhau:
- Róhevits R.U. (1931) chia chi Oryza ra làm 19 loài.
- Chaherjee, (1948) chia làm 23 loài.
- Erygin P.S (1960) chia làm 23 loài
- Grist D.H (1960) chia làm 25 loài
- Richharia R, (1960) chia làm 18 loài.
- Gkose R.L.M và cộng sự (1962) chia làm 24 loài.
- Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế IRRI (1963) đã phân chi Oryza làm 19 loài
Nói chung các loài Oryza đều là những cây ưa đầm lầy, trừ Oryza meyriana và một
số loại hình thuộc loài Oryza oficinalis còn có khả năng sinh sống ở những khu rừng ẩm
thấp và trong những thung lũng ẩm. Do phát sinh và phát triển ở các vùng nhiệt đới và Á
nhiệt đới, thường đủ ánh sáng và nhiệt độ nên nước là yếu tố hạn chế đối với các loài
Oryza.
Đối với lúa trồng, cũng có nhiều cách phân loại khác nhau:
- Theo điều kiện sinh thái, Kato (1930) chia lúa trồng thành 2 nhóm lớn là Japonica
(lúa cánh) và Indica (lúa tiên). Đinh Dĩnh (1958) cho rằng lúa cánh bắt nguồn từ Trung
Quốc nên gọi là Suno - Japonica. Goutchin lại chia ra 3 loài phụ: Indica, japoica và Brevis.
- Theo thời gian sinh trường, Roxburg chia ra các giống lúa trồng ở Ấn Độ thành
hai nhóm chín sớm và chín muộn mà không quan tâm về hình thái. Watt, căn cứ vào vụ
trồng ở ấn Độ chia thanh lúa thu và lúa đông.
- Theo mùa vụ gieo cấy trong năm và thời gian sinh trưởng, người Trung Quốc chia
lúa trồng thành lúa sớm và lúa muộn hoặc lúa xuân và lúa mùa.
- Theo điều kiện tưới và gieo cấy, người ta chia lúa trồng thành 2 nhóm là lúa nước
và lúa cạn
- Dựa vào cấu tạo hạt, Komik và Atefeld phân chia lúa ở Java (Indonexia) thành
lúa tẻ (utilissma) và lúa nếp (glutinosa).
Tóm lại, việc phân loại lúa là vấn đề phức tạp vì nó phân bố rộng, được trồng trọt
trong những điều kiện khác nhau về thời tiết, đất đai Đến nay, trong nhiều điều kiện sinh
thái khác nhau, lúa trồng cũng đã hình thành ra nhiều loại hình và nhiều giống lúa có đặc
trưng đặc tính khác nhau.
1.2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÚA GẠO TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
* Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, dễ trồng và cho năng suất cao. Theo thống kê của
FAO 2008, hiện nay trên thế giới có 118 nước trồng lúa, vùng trồng lúa khá rộng từ vĩ
50
O
B - 35
O
N. Nhưng do điều kiện sinh thái nên diện tích trồng lúa chủ yếu tập trung ở châu
Á (chiếm khoảng 90%) đây là vùng tập trung đại đa số các nước đang phát triển và dân số
tăng nhanh, điều kiện thâm canh còn lạc hậu, nên năng suất còn thấp.
Năm 2000 diện tích trồng lúa của toàn thế giới là 154.169 nghìn ha, năng suất là
38,84 tạ/ha, sản lượng là 598,880 triệu tấn thì đến năm 2006 diện tích trồng lúa của toàn
thế giới là 146.634 nghìn ha, năng suất là 41,12 tạ/ha, sản lượng là 634,606 triệu tấn. Như
vậy diện tích trồng lúa có giảm nhưng năng suất lúa được nâng cao nên sản lượng lúa tăng.
Bảng 1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới năm 2006
Tên châu
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tr.tấn)
Châu Phi 8.825,413 2,394 21,1311
Châu Mỹ 6.980,647 4,778 33,351
Châu Á 137.902,459 4,181 576,518
Châu Âu 586,793 5,894 3,459
Châu Úc 28,385 5,199 0,148
Toàn thế giới 154.323,697 4,112 634,606
(Nguồn: FAO, 2008)
Năng suất giữa các Châu chênh lệch nhau nhiều. Năng suất cao tập trung ở các
Châu có diện tích trồng lúa ít (Châu Âu, Châu Úc). Theo FAO 2008 thì hiện nay có khoảng
23 nước trên thế giới có bình quân năng suất hơn 5 tấn/ha, 12 nước có năng suất 4-5 tấn/ha
và 83 nước có bình quân năng suất nhỏ hơn 3 tấn/ha.
Bảng 1.7. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của một số nước trên thế giới năm 2006
Tên nước
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Ấn Độ 43.700,00 3,12 136,51
Trung Quốc 29.380,00 6,27 184,07
Inđônêxia 11.400,00 4,77 54,40
Bangladesh 11.200,00 3,90 43,73
Thái Lan 10.072,51 2,91 29,27
Việt Nam 7.324,40 4,89 35,83
(Nguồn: FAO, 2008)
Trên đây là một số nước có diện tích năng suất và sản lượng lúa cao trên thế giới
chủ yếu là những nước ở châu Á. Nước có diện tích lớn nhất là Ấn Độ (43,700 triệu ha)
tiếp theo là Trung Quốc, Inđônexia Việt Nam có diện tích trồng lúa đứng thứ 6 trên thế
giới. Tổng sản lượng của thế giới đạt 634,606 triệu tấn và nước có sản lượng lúa cao nhất
là Trung Quốc đạt (184,07 triệu tấn). Mặc dù Ấn Độ là nước có diện tích lớn nhất (43,700
triệu ha) nhưng sản lượng vẫn thấp hơn Trung Quốc, thể hiện trình độ sản xuất của các
nước trong khu vực còn chênh lệch nhau khá nhiều dẫn đến sản lượng còn thấp mặc dù có
diện tích canh tác lớn.
* Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp năm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí
hậu nóng ẩm, mưa nhiều, địa hình phức tạp có 3/4 diện tích là đồi núi và có nhiều vùng
sinh thái và tiểu khí hậu khác nhau. Nghề trồng lúa có từ lâu đời, cây lúa được trồng từ Bắc
chí Nam, từ đồng bằng ven biển đến trung du miền núi, người dân có tính cần cù, sáng tạo
và nhiều kinh nghiệm sản xuất.
Bảng 1.8. Thống kê sản xuất hai loại cây lương thực chính ở Việt Nam 1990-2006
Năm
Diện tích
( triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Xuất khẩu
gạo
Lúa Ngô Lúa Ngô Lúa Ngô (Tr. tấn)
1990 6,042 0,432 3,18 1,55 19,225 0,671 1,62
1995 6,765 0,557 3,68 2,11 24,964 1,177 2,04
2000 7,666 0,730 4,24 2,74 32,529 2,005 3,50
2003 7,452 0,913 4,64 3,43 34,568 3,136 3,92
2004 7,445 0,990 4,86 3,46 36,148 3,453 4,00
2005 7,329 1,005 4,88 3,60 35,790 3,760 5,16
2006 7,324 1,032 4,89 3,70 35,826 3,819 5,20
(Nguồn: Thống kê Việt Nam, 2008)
Trong các loại cây lương thực lấy hạt ở Việt Nam thì lúa và ngô là hai loại cây
lương thực chính, song so với tổng sản lượng của hai loại cây này thì sản lượng ngô chỉ
vào khoảng trên dưới 10%. Sản lượng hai loại cây này tăng liên tục trong những năm qua
nguyên nhân tăng năng suất và sản lượng lúa, ngô là do những thay đổi về cơ chế chính
sách của Đảng và nhà nước, kết hợp đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản
xuất như giống mới, mức độ thâm canh, thuỷ lợi
Hiện nay lúa Việt Nam trên 7,3 triệu ha, chiếm trên 60% tổng diện tích đất trồng trọt.
Sản xuất lúa ở Việt Nam có tiến bộ vượt bậc vì Việt Nam từ một nước nhập khẩu lúa gạo
hơn 3 thập kỷ qua, đã trở thành nước xuất khẩu từ 1989 số lượng gạo xuất khẩu từ Việt
Nam trong các năm 1989 là 1,42 triệu tấn gạo, đến năm 2007 đã xuất khẩu 4,5 triệu tấn
gạo, đứng thứ 2 trên thế giới.
Trong 17 năm từ 1990 đến 2007 khối lượng gạo xuất khẩu của cả nước tăng gần
3,6 triệu tấn, kim ngạch thu về tăng gấp 2,5 lần, năm 2007 đạt đến 4,5 tỷ USD đó là bước
nhảy vọt quan trọng làm thay đổi cục diện sản xuất nông nghiệp, cho phép chuyển từ một
nền sản xuất chủ yếu để tiêu dùng trong nước sang một nền nông nghiệp hàng hoá hướng
mạnh về xuất khẩu.
Hình 1.3. Bản đồ diện tích trồng lúa ở Việt Nam
Với vị trí địa lý trải dài trên 15 vĩ độ Bắc bán cầu, từ Bắc vào Nam dài hơn 2000
km, đã hình thành nên đồng bằng châu thổ phì nhiêu của đất nước (Đồng Bằng Sông Hồng
ở miền Bắc và Đồng Bằng Sông Cữu Long ở miền Nam) cung cấp nguồn lương thực chủ
yếu cho nhân dân trên toàn quốc. Theo các báo cáo của sở nông nghiệp và phát triển nông
thôn các tỉnh Đồng Bằng Sông Cữu Long thì diện tích gieo trồng toàn vùng năm 2006 đạt
3,77 triệu ha, tổng sản lượng đạt 18,19 triệu tấn, và năng suất bình quân đạt 4,82 triệu
tấn/ha.
Bảng 1.9. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa theo từng vùng ở Việt Nam năm 2006
Vùng
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(Tạ /ha)
Sản lượng
(Nghìn tấn)
CẢ NƯỚC 7.324,4 48,9 35.826,8
Đồng bằng sông Hồng 1.124,0 58,1 6.528,7
Đông Bắc 553,8 45,4 2.512,3
Tây Bắc 154,4 38,0 587,0
Bắc Trung Bộ 683,6 51,0 3.484,6
Duyên hải Nam Trung Bộ 392,4 49,1 1.928,1
Tây Nguyên 207,6 42,9 8.91,5
Đông Nam Bộ 435,4 39,1 1.701,2
Đồng bằng sông Cửu Long 3.773,2 48,2 18.193,4
(Nguồn: Thống kê Việt Nam, 2008)
Trong vài năm trở lại đây chúng ta đã nhập nội, nghiên cứu và sản xuất lúa lai từ
các nguồn của Trung Quốc và viện lúa IRRI. Ở miền Bắc diện tích sử dụng lúa lai trong vụ
Đông Xuân 1993 - 1995 là 80.000 ha, năng suất 60-80 tạ/ha. Cá biệt có nơi đạt năng suất
140-150 tạ/ha. Nhưng đến năm 2003 diện tích lúa lai đạt 600.00 ha các tỉnh có diện tích lúa
lai lớn như: Nam Định (97.000 ha), Thanh Hoá (79.000 ha), Nghệ An (66.700 ha) và
năng suất đạt 63 tạ/ha.
Bảng 1.10. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa Việt Nam trong 10 năm trở lại đây.
Năm
Diện tích
( 1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
1996 7.003,8 37,7 26.396,7
1997 7.099,7 38,8 27.523,9
1998 7.362,7 39,6 29.145,5
1999 7.653,6 41,0 31.393,8
2000 7.666,3 42,4 32.529,5
2001 7.492,7 42,9 32.108,4
2002 7.504,3 45,9 34.447,2
2003 7.452,2 46,4 34.568,8
2004 7.445,3 48,6 36.148,9
2005 7.329,2 48,8 35.790,8
2006 7.324,4 48,9 35.826,8
(Nguồn: FAO, 2008)
Trong vòng 10 năm 1996 - 2006 diện tích trồng lúa tăng chậm cụ thể là tăng
320,6ha, năng suất tăng 11,23 tạ/ha, sản lượng tăng 9.430,1 nghìn tấn. Năm 2000 có diện
tích trồng lúa lớn nhất (7.666,3 nghìn ha) và trong vòng 6 năm trở lại đây (2001-2006) diện
tích trồng lúa cả nước giảm do một số diện tích trồng lúa chuyển đổi sang nuôi trồng thuỷ
sản và một số cây trồng khác như: rau, hoa có giá trị kinh tế cao. Mặc dù vậy năng suất và
sản lượng lúa vẫn tăng đáng kể. Ngoài những nguyên nhân trên đã nêu trong vòng mấy
năm qua Việt Nam đã sử dụng bộ giống mới, đặc biệt là lúa lai. Từ kết quả gieo cấy lúa lai
vụ mùa năm 1991, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có chú trương mở rộng gieo
cấy lúa lai ở miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên để góp phần tăng năng suất và sản
lượng lúa, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia trên cơ sở xây dựng vùng lúa chất lượng
cao phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu và giảm bớt diện tích lúa bấp bênh sang trồng cây
khác.
Nhìn chung sản xuất lúa của Việt Nam có những bước phát triển đáng kể nhờ sự tác
động của nhiều yếu tố khác nhau. Trước hết phải kể đến chủ trương đường lối lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước. Mở đầu là chỉ thị 100, chính sách khoán 10 và đặc biệt gần đầy nhất là
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đưa ra pháp lệnh bảo vệ giống cây trồng và vật
nuôi, cùng với nhiều chính sách ưu đải khác, đã mở ra một hướng đi mới cho sản xuất
nông nghiệp ở Việt Nam. Từ đó người nông dân yên tâm đầu tư sản xuất lúa, mở rộng sản
xuất. Ngoài ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất lúa ở nước ta cần có sự đóng góp một
phần không nhỏ của các nhà khoa học Việt Nam. Các nhà khoa học đã nghiên cứu, lai tạo
và chọn lọc để đưa ra các giống lúa mới có năng suất cao chất lượng tốt trong sản xuất.
Các bộ giống mới thường xuyên được bổ sung và người dân cũng dần áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật, năng suất khá cao; Thái Bình 11,5 tấn/ha năm, Quảng Nam 21 tấn/ha
năm (3 vụ), Tuy Hoà 70-80 tạ/ha
1.3. VỊ TRÍ, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY LÚA
* Vị trí
- Lúa là một trong những cây lương thực quan trọng trên thế giới, nhất là ở Châu Á
Gạo là sản phẩm chính của cây lúa, là nguồn lương thực chính cung cấp tới 2/3
lượng calo cho hơn ba tỷ người ở châu Á, 1/3 lượng Calo cho 1,5 tỷ người châu Phi và
châu Mỹ La Tinh. Gạo cũng cung cấp đến 80% Cacbonhydrat và 40% Protein cho con
người. (FAO, 2005)
Hình 1.1. Vị trí của cây lúa trên thế giới
* Giá trị dinh dưỡng
So sánh thành phần hoá học của một số cây lương thực ta thấy lúa gạo giàu tinh bột
và đường, tuy nhiên nghèo protein và chất béo hơn lúa mì và ngô.
Bảng 1.1. So sánh thành phần dinh dưỡng của một số cây lương thực
Tên cây trồng Nước Xenlulô Chất béo Prôtít Tinh bột Đường
Lúa nước 0,60 0,30 0,5 0,6 88,0 0,55
Lúa mì 1,20 0,60 2,5 11,5 83,5 0,15
Ngô 0,40 0,25 0,6 12,5 86,0 0,64
(Giáo trình cây lúa ĐHNNI - NXBNN - 1997)
Trong gạo có đầy đủ các axít amin không thay thế, các vitamin và các chất dinh dưỡng
khác.
Bảng 1.2. Thành phần các chất trong 100g gạo lức.
Hợp chất Hàm lượng
Cacbonhydrat (%) 71,10
Protein (gN x 6,25) 7,30
Dầu thô (g) 2,20
Chất xơ (g) 4,00
Vitamin A (mg) 0,00
Vitamin B
1
(mg) 0,29
Vitamin B
2
(mg) 0,04
Vitamin E (mg) 0,80
Niaein (mg) 4,00
Fe (mg %) 3,00
Zn (mg%) 2,00
Lyzine (g/16gN) 3,80
Threonine (g/16gN) 3,60
Methyonine + Cytine (g/16gN) 3,90
Trytrophan (g/16gN) 1,10
Axit Amin khác (%) 66,00
(Giáo trình cây lúa ĐHNNI - NXBNN - 1997)
Bảng 1.3. Thành phần sinh hoá của các loại hạt cây lương thực (% trọng lượng khô)
TT
Loại cây
Lương thực
Gluxit Protein Lipit Xơ Tro Nước
1 Lúa 32,4 7,9 2,2 9,9 5,7 11,9
2 Lúa mì 63,8 16,8 2 2 1,8 13,6
3 Lúa mì đen 69,1 12,2 1,8 2 1,6 13,3
4 Ngô 69,2 10,6 4,3 2 1,4 12,5
5 Cao lương 71,1 12,7 3,2 1,5 1,6 9,9
6 Kê 59,0 11,3 38 8,9 3,6 13,0
(Giáo trình cây lúa ĐHNNI - NXBNN - 1997)
Tinh bột: Tinh bột là nguồn chủ yếu cung cấp calo. Giá trị nhiệt lượng của lúa là
3594 calo so với lúa mì là 3610 calo, độ đồng hoá đạt 95,9%. Hàm lượng amiloza trong hạt
quyết định độ dẻo của gạo, nếu hạt có 10-18% amiloza thì gạo mềm, nếu từ 25-30% thì
gạo cứng. Các loại gạo Việt Nam có hàm lượng amiloza thay đổi từ 18-45%, đặc biệt có
giống lên đến 54% (Lê Doãn Diên và CTV, 1995).
Tinh bột trong gạo có 2 loại: Amyloza có cấu tạo mạch thẳng, có nhiều trong gạo
tẻ; amylopectin có cấu tạo mạch ngang (mạch nhánh) có nhiều trong gạo nếp. Tỷ lệ thành
phần amyloza và amylopectin cũng có liên quan đến độ dẻo của hạt: gạo nếp có nhiều
anlylopectin nên thường dẻo hơn gạo tẻ.
Protein: Tỷ lệ chiếm khoảng 6-8%, thấp hơn so với lúa mì và các loại khác. Các
giống lúa Việt Nam có lượng protein thấp nhất 5,25%, cao nhất 12,84%, phần lớn trọng
khoảng 7-8%, lúa nếp có lượng protein cao hơn tẻ, lúa chiêm cũng có lượng protein cao.
Lipit: Vào loại trung bình. Phân bố chủ yếu ở lớp vỏ gạo. Nếu ở gạo xay là 2,02%
thì ở gạo giã chỉ còn 0,52%.
Vitamin: Trong lúa gạo có nhiều loại vitamin nhất là vitamin nhóm B như B
l
, B
2
,
B
6
, PP lượng vitamin B
l
là 0,45 mg/100 hạt (trong đó phân bố ở phôi 47%, vỏ cám 34,5%
trong hạt gạo chỉ có 3,8%) so với lúa mì là 0,52 mỏ và ngô là 0,49 mỏ.
Khoáng chất: Trong gạo có chứa nhiều khoáng như P
2
O
5
, K
2
O, MgO, SiO
2
, Na
2
O,
CaO, Fe
2
O
3
Như vậy, lúa là cây lương thực có giá trị dinh dưỡng cao, có đầy đủ các chất dinh
dưỡng như các cây lương thực khác ngoài ra còn có nhiều vitamin. Từ đặc điểm dinh
dưỡng mà từ lâu gạo đã được coi là nguồn thực phẩm và dược phẩm có giá trị. Vì vậy, tổ
chức dinh dưỡng quốc tế gọi ''Hạt gạo là hạt của sự sống'' (Grain de riz, Grain de vie).
* Giá trị kinh tế
Ngoài việc sử dụng làm lương thực, tăng thu nhập cho người nông dân đặc biệt trong
việc sử dụng lao động nhàn hạ theo mùa vụ, lúa còn đem lại giá trị xuất khẩu cao.
Bảng 1.4. Xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm
Năm
Sản lượng
(Triệu tấn)
Trị giá
(Triệu USD)
2000 3,37 610
2001 3,53 545
2002 3,24 608
2003 3,90 693
2004 4,06 859
2005 4,99 1.330
2006 4,70 1.310
2007 4,50 1.400
(Nguồn: Thống kê Việt Nam, 2008)
Bảng 1.5. So sánh sản lượng gạo xuất khẩu Việt Nam và Thái Lan qua các năm
Đơn vị: Nghìn tấn
Quốc gia
Xuất khẩu
1996 1998 1999 2000 2006 2007
Thái Lan 5.281 6.367 5.700 5.700 7.500 9.000
Việt Nam 3.040 3.776 4.000 3,370 4,700 4.500
(Nguồn: Thống kê Việt Nam, 2008)
Các sản phẩm phụ của cây lúa còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau:
• Gạo: Còn có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất rượu, bia. Bia sản xuất từ
lúa gạo có màu trong, hương thơm.
• Tấm: Sản xuất tinh bột, rượu cồn, vốt ca, axeton, phấn mịn và thuốc chữa
bệnh.
• Cám: Dùng để sản xuất thức ăn cho gia súc non và vỗ béo, làm thức ăn gia súc
tổng hợp. Trong công nghệ dược, sản xuất vitamin Bl chữa bệnh tê phù. Dầu
cám có chất lượng cao, dùng chữa bệnh, chế tạo sơn cao cấp, làm mỹ phẩm, chế
xà phòng
• Trấu: Sản xuất nấm mềm làm thức ăn gia súc, sản xuất vật liệu đóng lót
hàng; dùng để độn chuồng làm phân bón có SiO
2
cao. Ở nông thôn còn sử
dụng làm chất đất.
• Rơm rạ: Với thành phần chủ yếu là xenluloza có thể sản xuất thành giấy,
các tông xây dựng, đồ gia dụng như thừng chão, mũ, giầy dép. Cũng có thể
dùng rơm rạ để sản xuất thức ăn gia súc, trộn với cây họ đậu, làm thức ăn ủ
chua, sản xuất nấm rơm, độn chuồng, chất đất
Nếu tận dụng khai thác các sản phẩm phụ thì giá trị kinh tế của cây lúa còn rất
phong phú.
Chương 2
QUÁ TRÌNH SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÂY LÚA
2.1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ ĐỜI SỐNG CỦA CÂY LÚA
2.1.1. Thời gian sinh trưởng của cây lúa
Thời gian sinh trưởng của cây lúa tính từ nảy mầm cho đến chín thay đổi từ 90 đến
180 ngày tuỳ theo giống và điều kiện ngoại cảnh. Ở nước ta các giống ngắn ngày (trừ khi
cấy vào vụ chiêm xuân ở miền Bắc) có thời gian sinh trưởng khoảng 90-120 ngày, các
giống trung ngày có thời gian sinh trưởng dài 140-160 ngày. Các giống lúa chiêm cux ở
miền Bắc do sinh trưởng trong điều kiện nhiệt độ thấp, thời gian sinh trưởng kéo dài 180-
200 ngày, nếu trồng cấy ở miền núi phía Bắc có thể kéo dài đến 240 ngày.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, các giống lúa địa phương có thời gian sinh trưởng
trong vụ mùa cũng tương đối dài: 200-240 ngày, cá biệt nhưng giống lúa nổi có thời ấm
sinh trưởng đến 270 ngày.
Do yêu cầu của thực tế sản xuất, các giống lúa dài ngày mẫn cảm với quang chu kỳ,
đang được thay thế dần bởi các giống ngắn ngày hoặc cực ngắn, thấp cây, không có phản
ứng với quang chu kỳ. Chúng đáp ứng được với yêu cầu thâm canh, tăng vụ để tăng sản
lượng lương thực.
Thời gian sinh trưởng của cây lúa còn phụ thuộc vào thời vụ gieo cấy với điều kiện
ngoại cảnh khác nhau. Ở miền Bắc, do thời tiết biến động trong năm, nhất là nhiệt độ nên
thời gian sinh trưởng cũng thay đổi theo thời vụ gieo cấy. Ngược lại ở miền Nam, do nhiệt
độ ít thay đổi trong năm, thời gian sinh trưởng không có những thay đổi đáng kể. Ví dụ ở
Đồng bằng Bắc bộ giống CR203 gieo cấy vào vụ xuân, có thời gian sinh trưởng 130-160
ngày tuỳ theo trà sớm hay muộn, khi đưa vào vụ mùa thời gian sinh trưởng rút ngắn còn
115-125 ngày. Giống NN8 cấy vụ xuân có thời gian sinh trưởng 170 ngày, khi cấy vào vụ
mùa còn 120 ngày. Ngay trong một vụ thời gian sinh trương cũng có những sai khác. Vụ
chiêm xuân, ở miền Bắc năm trời rét lúa trổ muộn, sinh trưởng kéo dài, năm trời ấm thì
ngược lại. Cũng trong vụ chiêm xuân, gieo sớm thời gian sinh trưởng dài, gieo muộn thời
gian sinh trưởng rút ngắn. Còn trong vụ mùa, nhiệt độ ít thay đổi qua các năm, nên thời
gian sinh trưởng của các giống tương đối ổn định hơn. Nắm được quy luật thay đổi thời
gian sinh trưởng của cây lúa là cơ sở chủ yếu để xác định thời vụ gieo cấy, cơ cấu giống,
luân canh tăng vụ ở các vùng trồng lúa khác nhau.
2.1.2. Các thời kỳ sinh trưởng - phát triển của cây lúa
Trong toàn bộ đời sống cây lúa, có thể chia ra 2 thời kỳ sinh trưởng chủ yếu là sinh
trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực.
Nảy mầm
Mạ Nảy mầm - 3 lá
3 lá - cấy
Sinh trưởng dinh dưỡng
Hồi xanh (bén chân)
Đẻ nhánh Đẻ nhánh hữu hiệu
Đẻ nhánh vô hiệu
Làm đốt, làm đòng
Sinh trưởng sinh thực
Trổ bông, phơi màu, vào chắc, chín
- Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng, tính từ lúc gieo đến lúc làm đòng. Trong thời
kỳ này, cây lúa chủ yếu hình thành và phát triển các cơ quan dinh dưỡng như ra lá, phát
triển rễ, đẻ nhánh Ở lúa cấy có thể phân ra thời kỳ mạ và thời kỳ đẻ nhánh ở ruộng cấy.
- Thời kỳ sinh trưởng sinh thực, là thời kỳ phân hoá, hình thành cơ quan sinh sản
bắt đầu từ lúc làm đòng cho đến khi thu hoạch. Bao gồm các quá trình làm đòng, trổ bông
và hình thành hạt. Quá trình làm đốt (phát triển thân tuy là sinh trưởng dinh dưỡng nhưng
lại tiến hành song song với quá trình phân hoá đòng nên nó cũng nằm trong thời kỳ sinh
trưởng sinh thực. Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình
thành số.bông. Còn thời kỳ sinh trưởng sinh thực quyết định việc hình thành số hạt trên
bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng 1.000 hạt. Có thể xem thời kỳ từ trỗ đến chín là thời kỳ
ảnh hưởng trực tiếp nhất đến năng suất thu hoạch.
Hình 3.1. Sơ đồ sinh trưởng - phát triển của cây lúa.
(Thời gian sinh trưởng 120 ngày trong điều kiện nhiệt đới)
Về mặt nông học có thể chia 3 thời kỳ: Sinh trưởng dinh dưỡng từ lúc nảy mầm;
sinh trưởng sinh thực từ làm đòng đến trổ bông và thời kỳ chín từ trổ đến thu hoạch, với
giống có thời gian sinh trưởng 120 ngày, trong điều kiện nhiệt đới, thời kỳ sinh trưởng
dinh dưỡng là 60 ngày, làm đòng 30 ngày và chín 30 ngày.
Thời kỳ sinh trưởng dinh dương thường biến động mạnh nhất. Thời kỳ làm đòng
biến động trong khoảng 30-40 ngày tuỳ theo giống ngắn ngày hay dài ngày. Thời kỳ chín
biến động chủ yếu theo nhiệt độ: 30 ngày ở vùng nhiệt đời và 65 ngày những vùng lạnh
như Hokkaido (Nhật) hoặc New South Wales (Australia).
Sự khác nhau và biến động về thời lượng trong các thời kỳ sinh trưởng là cơ sở để
áp dụng các hệ thống biện pháp kỹ thuật khác nhau.
Sự khác nhau về thời gian sinh trưởng chủ yếu là ở thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng,
phụ thuộc giống và điều kiện ngoại cảnh. Những giống chín sớm có thời kỳ sinh trưởng
dinh dưỡng ngắn, chúng có thể làm đòng trước khi đạt số nhánh tối đa, thời gian làm đất và
làm đòng trùng nhau, thậm chí phân hoá đòng rồi mới làm đất. Ngược lại ở giống dài ngày
thường đạt số nhánh tối đa trước làm đòng và làm đốt trước làm đòng.
- Thời gian sinh trưởng của cùng một giống có thể khác nhau đôi chút giữa lúa cấy
và lúa gieo thẳng. Lúa cấy thường chín muộn hơn lúa gieo 7-10 ngày do phải mất thời gian
bén rễ.
- Ở lúa gieo thẳng thời kỳ bắt đầu đẻ nhánh sớm hơn so với lúa cấy vì bộ rê không
bị tổn thương do nhổ cấy. Tuy nhiên, số nhánh đẻ ở lúa gieo thường thấp hơn so với lúa
cấy mỗi cây ở lúa gieo thường đẻ 2-5 nhánh, còn ở lúa cấy có thể đạt tới 10-30 nhánh.
Nắm được quy luật sinh trưởng, Phát triển của cây lúa, chúng ta có thể chủ động áp dụng
các biện pháp kỹ thuật theo hướng có lợi nhất cho quá trình sinh trưởng, phát triển nhằm
tạo năng suất cao
2.2. CÁC GIAI ĐOẠN QUAN TRỌNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CẦN
TÁC ĐỘNG
2.2.1. Thời kỳ nảy mầm
Đời sống cây lúa bắt đầu bằng quá trình nẩy mầm, tiếp theo là thời kỳ mạ, đẻ
nhánh. Mầm lúa phát triển từ phôi trong hạt. Phôi nằm ở phía bụng của hạt, có khối lượng
không đáng kể so với khối lượng toàn hạt (trọng lượng khô của hạt thay đổi trong khoảng
12-44 mg, vỏ trấu chiếm khoảng 21% trọng lượng hạt thóc). Cấu tạo của phôi gồm cô trục
phôi, rễ phôi và mầm phôi.
Bình thường hạt lúa bảo quản trong kho không thể nảy mầm vì hàm lượng nước
trong hạt thấp (dưới 13% trọng lượng hạt). Nếu có các điều kiện thuận lợi về độ ẩm, nhiệt
độ, oxy thì hạt có thể nảy mầm.
- Quá trình nảy mầm
Hạt hút nước, độ ẩm trong hạt tăng, hoạt động của các men hô hấp và phân giải
cũng tăng lên rõ rệt. Dưới tác dụng của men amylaza, tinh bột chuyển hoá thành đường
glucoza. Một phần glucoza dùng đề hô hấp, một phần chuyển đến miền sinh trưởng của
phôi, tái tạo thành xenluloza, cần thiết cho sự hình thành màng tế bào mới, một phần của
glucoza cũng có thể kết hợp với asparagin tạo thành thoát mới.
Prôtêin dưới tác dụng của men proteạza và peptoza chuyển hoá thành pepton rồi
thành axit quan. Phần lớn axit quan được tổng hợp thành sinh chất giúp cho phôi phát triển.
Sau khi phôi được cung cấp glucoza, axit quan các tế bào phôi phân chia, lớn lên,
trục phôi trương to đẩy mầm và rễ ra khỏi vỏ trấu, hạt nứt nanh rồi nảy mầm.
Hình 3.2. Quá trình nảy mầm của hạt
Khi hạt nảy mầm, đầu tiên xuất hiện lá bao hình vảy, không có diệp lục, thứ đến là
lá không hoàn toàn (chỉ có bẹ chưa có phiến lá) cũng không có diệp lục. Cuối cùng mới
xuất hiện các lá thật có đầy đủ bẹ lá, phiến lá, có khả năng hình thành diệp lục. Những lá
ban đầu thường ngắn và nhỏ. Người ta tính số lá từ lá thật thứ nhất trở đi.
Đồng thời với quá trình nảy mầm, từ phôi cũng xuất hiện 1 rễ phôi (hay rễ mộng, rễ
hạt). Rễ này dài, sau phát triển các lông tơ giúp hạt hút nước trong thời kỳ đầu.
Thời kỷ từ lúc hạt nảy mầm cho đến khi có 3 lá thật (khoảng 10-12 ngày là thời kỳ
hạt sử dụng chủ yếu các chất dự trữ trong hạt. Chỉ từ khi có 4 lá và 4-5 rễ phụ cây mạ mới
có thể sống hoàn toàn tự lập.
- Điều kiện ảnh hưởng đến sự nảy mầm
* Sức nảy mầm của hạt
Hạt lúa muốn nảy mầm phải có sức nảy mầm tốt. Sức nảy mẩm phụ thuộc vào quá
trình chín và điều kiện bảo quản sau này. Nói chung, sau khi chín trên đồng ruộng, hạt lúa
có khả năng nảy mầm, cũng có những giống cần qua thời kỳ ngủ nghỉ. Một số giống lúa
chiêm trước đây, khi chín vào nhiệt độ cao có mưa, dễ rơi rụng hoặc có thể nảy mầm ngay
trên ruộng. Nhưng cũng có những giống chín sinh lý chậm, sau khi thu hoạch về phải bảo
quản qua 1 vụ mới đem gieo cấy lại, nhưng giống lúa này muốn gieo cấy ngay phải có biện
pháp xử lý ngủ nghỉ để xúc tiến quá trình nảy mầm.
Khả năng hút nước, nảy mầm của hạt còn phụ thuộc vào vỏ trấu. Những giống có
vỏ trấu mỏng thường hút nước nhanh hơn giống vỏ dày, do đó thời gian nảy mầm thường
ngắn hơn.
Ngoài ra, sức nảy mầm của hạt còn chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện bảo quản.
Trong điều kiện bảo quản tốt hạt giống có thể qua 1-2 năm vẫn có sức nảy mầm tốt. Nếu
bảo quản trong điều kiện khô lạnh (dưới. 15
o
C) có thể giữ hạt giống được lâu hơn.
* Ngoại cảnh
Hạt giống muốn nảy mầm 'phải có các điều kiện ngoại cảnh phù hợp. Các yếu tố có
ảnh hưởng chủ yếu đến quá trình nảy mầm là độ ẩm, nhiệt độ và oxy.
- Độ ẩm:
Nếu không hút nước đạt độ ẩm thích hợp, hạt lúa không thể nảy mầm được. Hạt
giống bảo quản trong kho, thường có độ ẩm dưới 13%. Khi ngâm nước, trong 18 giờ đầu
hạt hút nước tương đối nhanh, lúc hạt hút nước đạt độ ẩm 22-25% có thể nảy mầm. Tốc độ
hút nước của hạt phụ thuộc vào nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước. Mạ chiêm xuân Ở
miền Bắc trong điều. kiện thời tiết lạnh, đó thể ngâm trong nước có nhiệt độ 25 - 30
o
C để
rút ngắn thời gian ngâm.
Hạt giống ngâm chưa đạt độ ẩm thích hợp thì khó nảy mầm. Khi hạt nảy mầm lượng
nước trong hạt khoảng 30-40% tuỳ theo nhiệt độ. Nhưng ngược lại, thời gian ngâm quá dài,
hạt hút nhiều nước, tinh bột trong hạt phân giải thành đường rồi hoà tan trong nước làm tiêu
hao chất dự trữ trong hạt đồng thời dễ làm cho hạt bị chua, mầm bệnh phát triển, hạt sẽ bị thối
hoặc mầm yếu.
Nhu cầu về nước để hạt nảy mầm cũng còn phụ thuộc vào giống. Các giống lúa
cạn, lúa chịu hạn, có khả năng hút nước và nảy mầm tết trong điều kiện đất tương đối khô.
Ngược lại các giống lúa chịu nước sâu, có thể nảy mầm tốt trong điều kiện thừa nước.
Khi xử lý ngâm ủ mạ, cần tuỳ theo đặc điểm của giống để có thời gian ngâm ủ phù
hợp giúp cho hạt nảy mầm nhanh và đều.
Hình 3.3. Quá trình hút nước của hạt ở nhiệt độ khác nhau (trên giấy lọc)
- Nhiệt độ:
Hạt hút nước đạt độ ẩm cần thiết phải có nhiệt độ phù hợp mới có thể nảy mầm.
Nhiệt độ giới hạn thấp nhất đối với quá trình nảy mầm là lo-12oc. Hạt nảy mầm tốt nhất
trong điều kiện 30-35
o
C. Trên 40
o
C không có lợi cho quá trình nảy mầm. Nói chung vụ hè
thu, vụ mùa ngâm ủ trong điều kiện nhiệt độ cao, hạt dễ nảy mầm, thời gian ngâm ủ ngắn.
Trái lại vụ chiêm xuân ở miền Bắc, ngâm ủ trong điều kiện nhiệt độ thấp nên thời gian
ngâm ủ thường kéo dài. Có thể sử dụng rơm rạ bao tải phủ lên khối hạt để giữ nhiệt. Trong
quá trình ủ, bản thân khối hạt hô hấp cũng tạo ra nhiệt lượng đề xúc tiến nảy mầm. Ngâm ủ
với khối lượng hạt giống ít, dễ bị thiếu nhiệt nên hạt nảy mầm chậm. Có thể dùng nước ấm
tưới vào hạt giống để hạt hút ẩm, tăng cường hô hấp sẽ nảy mầm mạnh hơn.
- Ôxy:
Cây lúa vốn sống trong điều kiện ruộng ngập nước, nên hạt có thể nảy mầm trong
điều kiện yếm khí hoặc thiếu ôxy. Tuy nhiên trong điều kiện đó hạt chỉ nảy mầm, lá bao
kéo dài yếu ớt. Trong môi trường ấm, hạt nảy mầm nhanh và ra rễ bình thường. Oxy cần
thiết cho quá trình hô hấp của hạt, giúp cho quá trình phân giải vật chất trong hạt và phân
chia tế bào mới. Nếu thiếu oxy, tế bào kéo dài, các lá ban đầu dài ra yếu ớt. Có đủ oxy rễ
mới phát triển được.
Hình 3.4. 1- Hạt lúa nảy mầm trong điều kiện đủ ôxy
2- Nảy mầm thiếu oxy, mầm vươn dài yếu ớt, rễ ngắn.
Thí nghiệm cho thấy, khi hạt nảy mầm khống chế tỷ lệ oxy khác nhau thì sự phát
triển của mầm và rễ cũng khác nhau: Nếu lượng oxy là 0,2% sau 10 ngày chiều dài mầm
tăng 72 lần, rễ tăng 36 lần, nếu lượng oxy là 20,8% thì số liệu tương ứng là 19 và 226 lần.
Điều đó cho thấy khi hạt nảy mầm, oxy có ảnh hưởng chủ yếu đến sự phát triển.
Trong kỹ thuật ngâm ủ, người ta điều tiết quan hệ nước - oxy để khống chế sự phát
triền của mầm và rễ theo yêu cầu. Kinh nghiệm "ngày ngâm đêm ủ" cũng làm một biện
pháp điều tiết sự phát triển của mầm và rễ cho phù hợp. Gần đây quy trình ngâm ủ theo
phương pháp mới của các chuyên gia Nhật Bản, tiến hành ngâm hạt giống trong môi
trường chua (pH: 5-5,5) yếm khí để hạn chế rễ phát triển.
2.2.2. Thời kỳ mạ
Đối với lúa gieo thẳng (lúa sạ), sau thời kỳ nảy mầm là thời kỳ cây con rồi bước
vào thời kỳ đẻ nhánh khi cây có khoảng 4-5 lá. Còn ở lúa cấy phải qua thời kỳ mạ.
Thời kỳ mạ dài hay ngắn tuỳ thuộc theo giống lúa và mùa vụ. Đối với các giống địa
phương, thời kỳ mạ ở vụ mùa khoảng 40-45 ngày, vụ chiêm khoảng 50-60 ngày và lúa
ngắn ngày khoảng 25-30 ngày. Gần đây với các giống lúa mới ngắn ngày, kết hợp với kỹ
thuật làm mạ mới, nói chung thời kỳ mạ được rút ngắn nhiều. Ví dụ trà xuân muộn làm mạ
nền, mạ sân, tuổi mạ chỉ để 15-18 ngày, hay theo quy trình kỹ thuật của chuyên gia Nhật,
tuổi mạ 2,5-3 lá ứng với thời gian 7-10 ngày trong vụ mùa.
Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của cây mạ, có thể chia thời kỳ mạ ra 2 thời kỳ
nhỏ: thời kỳ mạ non và thời kỳ mạ khoẻ.
- Thời kỳ mạ non
Thời kỳ mạ non đối với mạ được tính từ lúc gieo đến khi ra được 3 lá thật. Nếu
điều kiện thuận lợi sau gieo 7-10 ngày là kết thúc thời kỳ này. Nếu thời tiết bất thuận (gặp
rét, hạn ) thời kỳ này sẽ kéo dài hơn. Đặc điểm chính của thời kỳ này là phôi nhũ tiếp tục
phân giải để cung cấp cho mầm và rễ, vì thế tốc độ hình thành các lá đầu tương đối nhanh.
Tuy nhiên kích thước lá còn nhỏ nên nhu cầu dinh dưỡng.không đáng kể. Mặt khác, ở dưới
mặt đất, sau khi gieo, rễ phôi tiếp tục phát triển và có thể hình thành vài lứa rễ đầu tiên
nhưng số lượng rễ cũng không nhiều.
Do đó, sau khi gieo muốn cho cây mạ sinh trưởng thuận lợi, cần giữ ẩm cho ruộng
mạ, tránh bị ngập hoặc hạn. Thời kỳ này dinh dưỡng của cây mạ chủ yếu dựa vào chất dự
trữ trong hạt nên chưa cần bón thúc. Ngoài ra cung cần chú ý là thời kỳ này cây mạ còn
nhỏ, yếu, khả năng chống chịu kém. Vì vậy cần tạo điều kiện để cây mạ có khả năng chống
chịu rét, sâu bệnh
- Thời kỳ mạ khoẻ
Thời kỳ mạ khoẻ tính từ khi cây mạ có 4 lá thật cho đến khi nhổ cấy. Nói chung
thời kỳ này thường dài hơn so với thời kỳ mạ non.
Kết thúc thời kỳ 3 lá, cây mạ chuyển sang thời kỳ sống tự lập, chất dự trữ trong
phôi nhũ đã sử dụng hết, cây mạ phải trực tiếp đồng hoá dinh dưỡng từ môi trường để sống
và phát triển.
Ở thời kỳ này, chiều cao, kích thước cây mạ cũng tăng rõ, có thể ra được 4-5 lứa
rễ do có khả năng chống chịu cũng tăng lên rõ rệt.
Thời kỳ mạ khoẻ thường kéo dài đến khi cây mạ có khoảng 5-6 lá đối với những
giống có thời gian sinh trưởng trung bình và 6-7 lá đối với những giống dài ngày hơn.
Vụ chiêm xuân Ở miền Bắc, thời kỳ này cũng biến động theo thời tiết hàng năm.
Những năm rét nhiều, mạ sinh trưởng chậm, số lá ra được ít nên thời kỳ này thường kéo
dài. Ngược lại, nhưng năm trời ấm, mạ sinh trưởng mạnh, tốc độ ra lá nhanh, sớm đạt được
tuổi mạ cấy, cần có biện pháp hãm mạ để tránh mạ già, mạ ống.
Tóm lại, thời kỳ mạ tuy thời lượng không nhiều (và có xu hướng ngày càng rút ngắn)
nhưng lại có ý nghĩa đáng.kể trong toàn bộ quá trình sinh trưởng của cây lúa. Tạo được mạ
tốt, mạ khoẻ làm cơ sở cho quá trình đẻ nhánh và các quá trình sinh trưởng tiếp theo.
2.2.3. Thời kỳ đẻ nhánh
Sau khi cấy, cây lúa bén rê hồi xanh rồi bước vào thời kỳ đẻ nhánh. Đây là thời kỳ
có ý nghĩa đáng kể trong toàn bộ đời sống cây lúa và quá trình tạo năng suất sau này.
Quá trình bén rễ hồi xanh nhanh hay chậm liên quan trực tiếp đến quá trình đẻ
nhánh sớm hay muộn. Nói chung nếu điều kiện ngoại cảnh thuận lợi, sau cấy 5-7 ngày cây
lúa có thể bén rễ hồi xanh, chuyển sang đẻ nhánh (ở vụ mùa). Trong điều kiện bất thuận lợi
như trời lạnh, âm u, thiếu ánh sáng, thời gian bén rễ hồi xanh kéo dài 15-20 ngày, có khi
25-30 ngày (vụ chiêm ở miền Bắc).
Ở thời kỳ đẻ nhánh, nói chung cây lúa sinh trưởng nhanh và mạnh. Trong thời kỳ
này cây lúa tập trung vào các quá trình phát triển của bộ rễ, ra lá và đẻ nhánh. Thời kỳ đẻ
nhánh là thời kỳ quyết định đến sự phát triển diện tích lá và số bông. Do đó cần chú ý đến
các biện pháp kỹ thuật nhằm làm tăng diện tích lá để tăng khả năng quang hợp và tăng số
bông là yếu tố quan trọng đề tăng năng suất lúa.
Thời gian đẻ nhánh của cây lúa từ sau khi lúa bén rễ hồi xanh đến khi làm đốt, làm
đòng. Thời gian này dài hay ngắn phụ thuộc thời vụ, giống và biện pháp kỹ thuật canh tác.
Vụ lúa Chiêm dài ngày, thời gian đẻ nhánh có thể kéo dài trên 2 tháng, vụ Mùa thời gian đẻ
nhánh khoảng 40 - 45 ngày, vụ Xuân thời gian đẻ nhánh ngắn hơn vụ Chiêm, vụ Hè Thu thời
gian đẻ nhánh ngắn nhất 20 - 25 ngày.
Trong một vụ, trà cấy sớm thời gian đẻ nhánh dài hơn trà cấy muộn. Ngoài ra các
biện pháp bón phân, tưới nước khác nhau cũng ảnh hưởng đến thời gian đẻ nhánh. Ví dụ:
Thúc đạm sớm, đẻ nhánh sớm; bón nhiều phân, bón thúc muộn, thời gian đẻ nhánh kéo dài.
Mật độ gieo cấy thưa thời gian đẻ nhánh dài hơn cấy dày, tuổi mạ non thời gian đẻ nhánh dài
hơn so với mạ già.
Trong thời gian đẻ nhánh nói chung, có thể phân ra thời gian đẻ nhánh hữu hiệu
(nhánh thành bông) và thời gian đẻ nhánh vô hiệu. Thời lượng của chúng thay đổi tuỳ theo
giống, thời vụ và các biện pháp kỹ thuật áp dụng.
2.2.4. Thời kỳ làm đốt, làm đòng
Trên đồng ruộng, sau khỉ đẻ đạt số nhánh tối đa, cây lúa chuyển sang thời kỳ làm
đất làm đòng (thời kỳ sinh trưởng sinh thực) ở thời kỳ này, cây lúa tiếp tục ra nhưng lá
cuối cùng, các nhánh vô hiệu cũng lụi dần, các nhánh tết được phát triển hoàn chỉnh để trở
thành nhánh hữu hiệu (bông lúa). Hoạt động sinh trưởng của cây lúa tập trung cho quá
trình làm đốt, làm đòng.
a. Thời gian làm đốt - làm đòng
Thời gian làm đốt, làm đòng sớm hay muộn, dài hay ngắn có liên quan chặt chẽ đến
thời kỳ trổ bông.
Những giống ngắn ngày có thời gian làm đốt khoảng 25-30 ngày, trung bình
khoảng 30-40 ngày, giống dài ngày có thể kéo dài 50-60 ngày. Thời gian làm đốt dài hay
ngắn thường có liên quan đến số lóng kéo dài trên thân nhiều hay ít.
Thời gian bắt đầu làm đất thường cũng có quy luật nhất định. Ở vụ mùa, cây lúa
thường làm đốt vào trung tuần tháng 8, trước khi làm đòng 7-10 ngày đến 20 ngày tuỳ
giống (khi cây lúa có 2-3 đất thì làm đòng). Ở vụ chiêm thường làm đốt vào trung tuần
tháng 3, trước khi làm đòng khoảng 5-7 ngày (khi cây lúa có 1-2 đốt thì làm đòng). Các
giống lúa ngắn ngày trong vụ xuân, hè thu, mùa thường cùng bước vào quá trình làm đốt,
làm đòng. Do đó thời gian làm đốt làm đòng bằng nhau. Đôi khi cũng có trường hợp cây
lúa phản hoá đòng rồi mới làm đốt, trong trường hợp có thời gian làm đất ngắn hơn làm
đòng.
Thời gian làm đòng dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào giống. Những giống ngắn
ngày thời gian làm đòng khoảng 25-30 ngày. Gióng trung ngày khoảng 30-35 ngày, giống
dài ngày khoảng 40-45 ngày.
b. Quá trình làm đốt
Thân lúa được phát triển từ trục phôi. Trong thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng (thời
kỳ mạ! đẻ nhánh), thân lúa là thân giả do các bẹ lá tạo thành. Từ thời kỳ làm đốt trở đi
(thực chất là quá trình kéo dài của các lóng), thân lúa chính thức mới hình thành, số lóng
kéo dài và chiều dài các lóng sẽ quyết định chiều cao cây.
Khi cây lúa đẻ nhánh đạt được số nhánh tối đa, thì quá trình làm đốt cũng bắt đầu.
Quá trình làm đốt thường được tính từ khi lóng thử nhất ở gốc thân kéo dài (từ 0,5cm trở
lên). Những lóng ở dưới gốc thường ngắn, tốc độ phát triển chậm. Các lóng trên dài hơn và
tốc độ phát triển cũng nhanh hơn. Sự phát triển của lóng trên cũng có quan hệ chặt chẽ với
quá trình trổ bông.
Sự phát triền của các lóng đốt quyết định chiều cao cây và có liên quan đến khả
năng chống đổ. Hiện nay, các giống lúa mới thấp cây đang thay thế các giống lúa cũ cao
cây chúng có khả năng chống đổ tết khi đầu tư thâm canh để đạt năng suất cao.
c. Quá trình làm đòng
Quá trình làm đòng là quá trình phân hoá và hình thành cơ quan sinh sản, có ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành năng suất lúa. Ở thời kỳ này, cây lúa có những
thay đổi rõ rệt về mặt hình thái, màu sắc lá, hoạt động sinh lý, khả nămg chống chịu ngoại
cảnh
Các bước phân hoá đòng.
Quá trình phân hoá đòng là một quá trình biến đổi phức tạp về mặt hình thái và sinh
lý Việc phân chia các bước phân hoá đòng cung có nhiều ý kiến khác nhau. Matsushima
(Nhật) chia quá trình phân hoá đòng thành 21 bước, một số tác giả khác chia ra 5-7 bước.
Đào Thế Tuấn chia 5 bước, Đinh Văn Lữ chia 6 bước.
Theo Đinh Dĩnh (Trung Quốc), quá trình phân hoá đòng có 8 bước (hình vẽ).
Bước l: Phân hoá điểm sinh trưởng (1-2 ngày)
Điểm sinh trưởng nằm ở đọt thân cây lúa, ở ngoài có lá bao. Khi lá bao phân hoá,
điểm sinh trưởng chưa phình to. Khi lá bao lớn lên thì điểm sinh trưởng cũng dần phình to
lên rõ rệt. Khi ở chân điểm sinh trưởng xuất hiện những vân ngang là kết thúc thời kỳ này.
Bước 2: Phân hoá gié cấp 1 (2-4 ngày)
Những vân trên điểm sinh trưởng là thể nguyên thuỷ của lá bao ở gốc gié cấp 1.
Điểm sinh trưởng tiếp tục lớn lên và phân hoá gié cấp 1. Khi chỗ sinh ra lá bao thứ nhất
xuất hiện lông trắng là kết thúc bước này.
Bước 3: Phân hoá gié cấp 2 và hoa (4-6 ngày)
Sau khi gié cấp 1 phân hoá xong thi phân hoá gié cấp 2 từ nách lá bao của gié cấp
1, rồi trên gié cấp 2 xuất hiện hoa theo thứ tự từ dưới tên trên. Đồng thời ở bao gốc hoa
sinh ra nhiều lông trắng phủ kín bông non.
Bước 4: Hình thành nhị và nhụy (5-6 ngày)
Khi hoa trên gié cấp 2 phân hoá xong thì hoa trên gié cấp 1 xuất hiện nhị và nhảy.
Lúc này số hoa trên bông đã được xác định. Trục bông, các gié lớn lên rõ rệt. Hoa hình
thành nhị, nhuỵ rồi bao phấn.
Bước 5: Hình thành tế bào mẹ hạt phấn (4-6 ngày)
Lúc nhị và nhụy xuất hiện thì mày trấu cũng lớn lên tương đối nhanh, độ dài của nó vượt
quá 112 vỏ trấu trong (vỏ trấu bụng) và vỏ trấu người (vỏ trấu lưng). Khi vỏ trấu trong và
vỏ trấu ngoài gần sát nhau thì bao phấn chia 2 phòng rồi 4 phòng; nhuỵ cũng đã phân hoá
hình thành đầu núm nhuỵ. Vỏ trấu lớn nhanh gấp đôi chiều dài mày trấu. Lúc này xuất hiện
tế bào mẹ hạt phấn.
Bước 6. Phân chia giảm nhiễm của tế bào mẹ hạt phấn (l-3 ngày)
Sau khi tế bào mẹ hạt phấn hình thành xong thì tiến hành phân bào giảm nhiễm.
Quá trình phân chia 2 lần, tạo thành 2 rồi 4 tế bào, mất khoảng 1-2 ngày. Lúc này bao phấn
có màu vàng rõ rệt, đầu nhuỵ nổi lên những điểm hình núm nhỏ, chiều dài của hoa đạt 1/2
chiều dài cuối cùng.
Bước 7. Tích luỹ các chất trong hạt phấn (6-7 ngày)
Sau khi hạt phấn phát triển thành hình cầu nhỏ, màng ngoài của hạt phấn dần dần
hình thành, thể tích tăng lên, xuất hiện lỗ nảy mầm, các chất trong hạt phấn dần dần đầy
lên. Lúc này chiều dài của vỏ trấu tăng nhanh, khi gần ngừng thì chiều ngang của hạt cũng
tăng nhanh, vỏ trấu silic hoá, hình thành diệp lục, nhị và nhụy lớn nhanh,mày trấu thoái
hoá.
Bước 8. Hoàn thành hạt phấn (3-4 ngày)
Trước trổ bông 1-2 ngày, các chất trong hạt phấn tích luỹ đầy đủ, vỏ trấu xuất hiện
diệp lục - nhị lớn nhanh; trong hạt phấn tiến hành phần chia hạch đực và hạch dinh dưỡng.
Trước lúc hoa nở hạch đực mới sinh ra. Đến đây kết thúc quá trình phân hoá và phát triển
của hoa lúa.
Trong quá trình phân hoá và phát triển của đòng từ bước 1 đến bước 3 (phân hoá
hoa), kích thước đòng còn rất nhỏ, dài từ 0,04cm đến 0,05cm. Bắt đầu từ bước 4 đòng phát
triển và lớn lên rõ rệt. Đến bước 6 chiều dài đòng có thể đạt 8-12cm, khoảng 1/2 chiều dài
bông sau này. Sự phát triển này không khác nhau nhiều giữa các giống.
2.2.5. Thời kỳ trổ bông, làm hạt
Đây là thời kỳ sinh trưởng phát triển cuối cùng của cây lúa, có liên quan quyết định
trực tiếp đến quá trình tạo năng suất,.trong đó chủ yếu quyết định tỷ lệ hạt chắc và trọng
lượng hạt. Đây cũng là thời kỳ mà điều kiện ngoại cảnh có tác động rõ rệt và trực tiếp đến
năng suất. Thời kỳ trổ bông - làm hạt bao gồm các quá trình trổ bông, nở hoa, thụ phấn, thụ
tinh, hình thành hạt và chín.
a. Quá trình trổ bông, nở hoa, thụ phấn
Đòng lúa sau khi phân hoá hình thành xong thì trổ ra ngoài do sự phát triển nhanh
của lóng trên cùng. Khi toàn bộ bông lúa thoát ra khỏi bẹ lá đòng là quá trình trổ xong
Thường mất khoảng 5-6 ngày, nhưng có giống chỉ trỗ trong vòng 2-3 ngày. Thời gian trổ
càng ngắn càng có khả năng tránh được các điều kiện bất thuận. Cùng với quá trình trổ
bông, có giống tiến hành nở hoa thụ phấn ngay, nhưng cũng có giống phải chờ trổ xong
mới tiến hành nở hoa thụ phấn. Trên một bông, nhưng hoa ở đầu bông và đầu gié thường
nở trước, các hoa ở gốc bông thường nở hoa cuối cùng (Hình vẽ).
Trình tự nở hoa có liên quan đến trình tự vào chắc, những hoa gốc bông nở cuối
cùng nên cùng vào chắc muộn và khi gặp điều kiện bất thuận thường dễ bị lép hoặc có
trọng lượng hạt thấp.
* Thời gian nở hoa.
Trong ngày hoa thường nở rộ vào 8-9 giờ sáng khi có điều kiện nhiệt độ thích hợp,
đủ ánh nắng, quang mây, gió nhẹ. Những ngày mùa hè, trời nắng to có thể nở hoa sớm vào
7-8 giờ sáng. Ngược lại nếu trời âm u, thiếu ánh sáng hoặc gặp rét hoa phơi màu muộn
hơn, vào 12-14 giờ.
* Quá trình nở hoa - phơi màu:
Khi nở hoa phơi màu, vảy cá hút nước trương to lên, đồng thời với áp lực của vòi
nhị làm cho vỏ trấu mở ra. Khi vỏ trấu vừa hé mở từ 0-4 phút thì bao phấn vỡ ra, hạt phấn
rơi vào đầu nhuỵ. Đó là quá trình thụ phấn. Sau đó vòi nhị vươn dài ra nhanh đẩy bao phấn
ra ngoài vỏ trấu (quá trình phơi màu). Sau chót vòi nhị héo rũ và bao phấn rụng đi. Quá
trình nở hoa thụ phấn đã hoàn thành. Thời gian bắt đầu nở hoa cho đến đến lúc vỏ trấu
khép lại mất khoảng 50-60 phút. Do đặc điểm cấu tạo và nở hoa thụ phấn ở cây lúa tuyệt
đại bộ phận là tự thụ phàn, tỷ lệ giao phấn thường không quá 2%.
* Quá trình thụ tinh:
Sau quá trình thụ phấnlà quá trình thụ tinh và hình thành hạt. Trong điều kiện bình
thường hạt phấn rơi xuống đầu nhuỵ, sau 15 phút ống phấn bắt đầu dài ra. Trong vòng 10-
15 phút sau ống phấn đã dài gấp mấy lần đường kính hạt phấn, các chất trong hạt phấn dồn
vào ống phấn.
Sau thụ phấn 2 giờ, ống phấn tới đầu nhuỵ, sau 4 giờ ống Phấn vào phôi châu, qua
lỗ noãn sào vào tới phôi nang, ống phấn trương to lên rồi vờ ra, giải phóng ra 2 hạch đực,
trong đó 1 hạch đực sẽ kết hợp với trứng, còn hạch kia sẽ kết hợp với hạch thứ cấp Trứng
sau thụ tinh sẽ phát triển thành phôi, hạch thứ cấp sau phát triển thành phôi nhũ (hạt gạo).
Đó là quá trình thụ tinh kép. Quá trình thụ tinh kéo dài 8 giờ sau thụ phấn.
* Phát triển của phôi:
Sau thụ tinh, phôi phát triển khá nhanh, 24 giờ sau trứng đã phân chia thành 4-8 tế
bào, 7 ngày sau có thể phân biệt rõ mầm và bao mầm nguyên thuỷ. Sau 8-10 ngày các bộ
phận của phôi như trục phôi, mầm và rễ, phôi đã có thể phân biệt rõ. Sau 2 tuần phôi đã
phát triển xong, nằm ở dưới bụng hạt (Hình vẽ).
Hình 3.8. Phát triển của phôi
A. Sau 1 ngày, B. Sau 3 ngày. C. Sau 4 ngày
D. Sau 8 ngày. E. Sau 16 ngày, F. Sau 30 ngày
Về kích thước, sau thụ tinh 24 giờ, chiều dài, rộng của phôi là 0,051 x 0,042 mm.
Sau 10 ngày là 1,471 x 0,663 mm Và đến khi Chín khoảng 1,790 x 0,890 mm.
* Phát triển của phôi nhũ
Sau thụ tinh phôi nhu cũng phát triển nhanh. Sau 4 ngày thế bào phôi nhu đã phân
chia xong và bất đầu tích luỹ tinh bột, sau 7 ngày hình thành tầng dextrin, sau 10 ngày tích
luỹ nhanh hydrat cacbon. Lúc này hạt gạo hình thành ro và chín dần. Hạt gạo lúc đầu phát
triển theo chiều dài, sau đó đến chiều rộng và bề dày (Hình vẽ).
Hình 3.9. Phát triển của phôi nhũ (hạt gạo)
0, 1, 2 20 ngày sau nở hoa.
Trọng lượng hạt gạo tăng nhanh trong vòng 15-20 ngày sau trụ, đồng thời với quá
trình vận chuyển và tích luỹ vật chất về hạt.
Báng 3.1. Quá trình tăng trọng lượng hạt (Giống NN 27 - Vụ mùa 1981)
Số ngày sau nở hoa 8 13 18 23 28 33
P
1000
hạt 7,75 15,63 22,20 24,60 25,80 26,18
%P cuối cùng 29,6 59,70 84,80 94,00 98,50 100
b. Quá trình chín của hạt
Dựa vào sự biến đổi về hình dạng, màu sắc, chất dự trữ và trọng lượng hạt, có thể
chia quá trình chín của hạt ra làm 3 thời kỳ chín sữa, chín sáp và chín hoàn toàn.
Chín sữa:
Sau phơi màu 5-7 ngày, chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng. trắng như sữa. Hình
dạng hạt đã hoàn thành, lưng hạt có màu xanh. Trọng lượng hạt táng nhanh ở thời kỳ này,
có thể đạt 75-80% trọng lượng cuối cùng.
Chín sáp:
Ở thời kỳ này, chất dịch trong hạt dần đặc lại, hạt cứng. Màu xanh ở lưng hạt dần
dần chuyển sang màu vàng. Trọng lượng hạt tiếp tục tăng lên.
Chín hoàn toàn:
Thời kỳ này hạt chắc cứng. Vỏ trấu từ màu vàng chuyền sang vàng nhạt. Trọng
lượng hạt đạt tối đa.
Nói chung thời kỳ chín kéo dài khoảng 30-40 ngày tuỳ theo giống và thơi vụ. Đã là
thời kỳ quyết định trọng lượng hạt và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo thành năng suất
lúa.