LỞI MỞ ĐẦU
Với bất kỳ doanh nghiệp nào, là một trong các yếu tố đầu vào cơ bản của quá 
trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng thương mại (NHTM) - 
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền 
gửi của khách hàng và cho vay từ số tiền huy động được, đồng thời các dịch vụ 
Ngân hàng thì vai trò của nguồn vốn càng trở nên đặc biệt quan trọng. Qui mô, 
cơ cấu và các đặc tính của nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của một 
NHTM bao gồm qui mô, cơ cấu, thời hạn tài sản và khả năng cung ứng dịch vụ, 
từ đó quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn của mỗi Ngân hàng.
Trong khi chưa khai thác được một số lượng lớn tiền nhàn rỗi trong các tổ 
chức kinh tế về dân cư, nhiều Ngân hàng hiện vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn 
vay, kể cả vay của Ngân hàng nước ngoài để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng 
tài sản, vì vậy chi phí nguồn vốn cao sự ổn định và hiệu quả kinh doanh thấp và 
chưa phát huy nội lực để phát triển một cách vững chắc. Các Ngân hàng Việt 
Nam đều trong tình trạng thếu vốn trung và dài hạn cho nhu cầu đầu tư, phát 
triển. Việc thu hút vốn về qui mô, kết cấu làm hạn chế khả năng sinh lời, đồng 
thời đặt Ngân hàng trước nguy cơ rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán và hơn thế có 
thể dẫn đến sự mất ổn định trong toàn bộ hệ thống tài chính như nhiều quốc gia 
từng lâm vào. Do vậy yêu cầu tăng cường huy động vốn có mức chi phí hợp lý 
và ổn định cao được đặt ra hết sức cấp thiết đối với Ngân hàng thương mại Việt 
Nam nói chung, Ngân hàng công thương Hải Dương nói riêng.
Ngân hàng công thương Hải Dương trải qua gần 20 năm đã đạt tăng trưởng 
đáng kể trong mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh 
nhưng thực tiễn đang đặt ra những thách thức mới ở phía trước. Do ảnh hưởng 
của tình hình kinh tế xã hội địa phương, những khó khăn từ môi trường kinh tế 
vĩ mô, từ nội tại của mình và cạnh tranh càng gia tăng bởi có thêm hoạt động 
của các TCTD mới như Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng ngoại thương và các 
Ngân hàng thương mại cổ phần và tổ chức kinh tế khác trên địa bàn, Về huy 
động vốn như Ngân hàng thương mại, sự ra đời của pháp lệnh thương phiếu điều 
chỉnh các quan hệ tín dụng thương mại…. Mặt khác trần lãi suất cho vay ngày 
càng giảm thấp và những đặc điểm riêng có của mình thì hoạt động huy động 
vốn của Ngân hàng công thương Hải Dương áp dụng những giải pháp thích ứng 
xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết đó, đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại chi nhành 
Ngân hàng công thương Hải Dương” được lựa chọn, ngoài lời nói đầu chung về 
huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng công thương 
Hải Dương
Chương 3: Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng công thương 
Hải Dương
Kết luận
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
Hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời là kết quả của quá trình hình 
thành và phát triển lâu dài của kinh tế hàng hoá, của quan hệ hàng hoá tiền tệ. 
Tuy khái niệm về NHTM ở mỗi nước có những điểm khác nhau nhưng đều 
thống nhất coi NHTM là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ và cung ứng 
những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong số những tổ chức tài chính 
trung gian, các tổ chức tài chính trung gian này được gọi chung là các định chế 
tài chính có chức năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty tài chính năm 
1990 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà 
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách 
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho váy, thực hiện các nghiệp vụ chiết 
khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 02/2002/QH10) Điều 20:”NHTM là loại 
hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt 
động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “Hoạt động Ngân hàng là hoạt 
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là 
nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh 
toán.”
NHTM hoạt động kinh doanh trên cơ sở các điều kiện kinh tế và quy định của 
luật pháp, thông qua các hoạt động đó chúng tác động đến nền kinh tế và đời 
sống kinh tế xã hội. Cơ sở kinh tế khách quan của chức năng mà hệ thống 
NHTM đảm nhận là sự cần thiết có các trung gian tài chính dẫn vốn từ nơi thừa 
vốn đến nơi thiếu vốn, làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế v..v.. Ngân 
hàng thương mại nhận tiền gửi hoặc phát hành các công cụ nợ, sử dụng số tiền 
này để vay với một lãi suất và kỳ hạn nhất định, người vay phải trả cho Ngân 
hàng gốc và tiền lãi. Lãi thu được từ các khoản cho vay và các khoản đầu tư vào 
chứng khoán tạo nên bộ phận thu nhập của Ngân hàng. Để tạo lập nguồn vốn, 
Ngân hàng phải trả cho các khoản tiền gửi hoặc các khoản tiền gửi hoặc các 
khoản vay và chi phí khác. Với mục tiêu tăng cường hoạt động kinh doanh và 
tối đa hoá lợi nhuận, Ngân hàng thương mại thường xuyên tổ chức khai thác các 
nguồn vốn với chi phí thấp để mở rộng cho vay và đầu tư,… Xuất phát từ xu 
hướng phát triển trong hoạt động của Ngân hàng thương mại hiện đại là mở rộng 
các hoạt động dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Thông qua việc đa dạng hoá 
hoạt động, các Ngân hàng truyền thống. Thông qua việc đa dạng hoá hoạt động, 
các Ngân hàng có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định chế 
tài chính Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ. Một trong những nguồn 
quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân 
hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi đẻ bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn 
trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền gửi, các 
Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc 
sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép Ngân hàng sử dụng 
tạm thời để kinh doanh.
* Cho vay:
- Cho vay Thương mại: Các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực 
tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu 
cho Ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó Ngân hàng cho vay trực tiếp đối với 
khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng 
sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh 
tranh trong cho vay đã hướng Ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách 
hàng tiềm năng.
- Tài trợ cho dự án: bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các 
Ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ 
xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số Ngân hàng còn cho 
vay để đầu tư vào đất.
* Bảo quản tài sản hộ
Các Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài sản 
khác cho khách hàng trong két (vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân 
hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ 
quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch 
vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ cho 
khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ…
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng không chỉ bảo quản mà 
còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở 
đu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến 
Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang 
giấy đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng 
tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút 
ngắn thời gian kinh doanh và nâng coa thu nhập cho khách hàng được mở rộng, 
càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điêù này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào 
Ngân hàng đề nhờ Ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công 
nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, 
L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ….
* Quản lý ngân quĩ:
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá 
nhân. Nhờ đó, Ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. 
Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quĩ và khả năng trong việc thu ngân, 
nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quĩ, trong 
đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến 
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín 
dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
* Tài trợ các hoạt động của Chính phủ:
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường và thường là cấp bách trong khi thu không 
đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay Ngân hàng. 
Các Ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên 
tổng lượng tiền gửi Ngân hàng huy động được.
* Bảo lãnh:
Do khả năng thanh toán Ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do Ngân 
hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên Ngân hàng có uy tín trong bảo 
lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng 
đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của 
mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của 
tổ chức tín dụng khác…
Ngoài ra Ngân hàng còn hoạt động cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung 
cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dụch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, 
dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý, góp phần đa dạng hoá loại hình hoạt động đáp 
ứng nhu cầu của công chúng, góp phần nâng cao vị thế Ngân hàng Thương mại, 
thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế.
1.2. NGUỒN VỐN VÀ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA 
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.2.1. Nguồn vốn:
Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại gồm hai nguồn chủ yếu: vốn tự có và 
vốn huy động. Mọi nguồn vốn có nội dung kinh tế, yêu cầu quản lý và phương 
pháp hạch toán khác nhau.
* Kế toán vốn tự có (VTC)
- Một số nét về vốn tự có của Ngân hàng Thương mại
Vốn tự có là nguồn tự có mà chủ Ngân hàng sở hữu và sử dụng vào mục đích 
kinh doanh theo luật định. Vốn tự có tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn 
vốn của Ngân hàng Thương mại song nó lại là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định 
sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng. Mặt khác, với chức năng bảo vệ 
VTC được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả