TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH
TẾ
NGOẠI
THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH
KINH TẾ
Đối
NGOẠI
oa
ga £o
(Đềtàit
KHOA
LUẬN TỐT NGHIỆP
BẢO HIỂM HÀNG KHÔNG VÀ TRIỂN VỌNG
PHÁT
TRIỂN
TẠI VIỆT NAM
=1
Sinh
viên
thực
hiện
:
NGUYÊN THỊ PHƯƠNG
LINH
Lớp
:ANH
9
-KTNT
Khóa
:
K41
T
Ữ~VĨIN"Ị
Gỉáo viên
hướng dẫn
:
ThS.
NGUYỘN
LỆ
HẰNG
twv»s
ĐA' MÓC
HSỊ.'A1
THUONứ
HÀ
NỘI,
THÁNG
11/2006
LỜI
CẢM ƠN
Để
hoàn thành bài
khoa
luận
này, ngoài
những
nỗ
lực
của bàn thân,
em còn
nhận
được
rất
nhiều
sự giúp đỡ
từ
cô giáo hướng
dẫn,
các
thầy
cô
giáo và cán bộ nhân viên
trong
trường,
gia
đình, bạn bè và
những người
quan
tâm.
Trước
hết,
em
xin gệi
lời
cảm ơn chân thành đến
Thạc
sĩ
Nguyễn
Lệ
Hằng,
người
đã
nhiệt
tình giúp đỡ và hướng dẫn em làm đề tài
tốt
nghiệp.
Em
cũng
xin
cảm ơn các
thầy
có
trong
khoa
Kinh
Tế
Ngoại
Thương và các
thầy
cô khác
trong
trường
Đại
học
Ngoại
Thương đã dạy dỗ em
trong
suốt
4
năm học
qua.
Em
xin
cảm ơn
tất
cả
những người
đã giúp em có được tài
liệu
và
những
lời
khuyên bổ
ích.
Cuối
cùng,
em
xin
bày
tỏ
lòng
biết
ơn đến
gia
đình và bạn bè đã động
viên,
giúp đỡ em hoành thành khóa
luận.
Do hoàn thành
khoa
luận trong
thời
gian
ngắn
và gặp một số khó
khăn về
nguồn tài
liệu,
cũng
như
nhận
thức
và
kinh
nghiệm
thực
tế
còn
giới
hạn,
chắc chắn
khóa
luận
không
thể
tránh
khỏi sai
sót.
Em
rất
mong
nhận
được
ý
kiến
đóng góp, chỉ bảo của các
thầy
cô
cũng
như
những nhận
xét,
đánh giá
của
gia
đình,
bạn bè và
những người quan
tâm.
—
T"Em
xin
chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
LỜI
MỞ ĐẨU Ì
CHƯƠNG
li
NHỮNG
VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VẾ BẢO HIỂM NÓI
CHUNG
VÀ
BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG NÓI RIÊNG
3
ì
NHŨNG
VẤN ĐỀ Cơ BẢN VỀ BẢO HIỂM 3
1.
Khái niệm chung
về bảo
hiểm
3
2.
Phân
loại
bảo
hiểm
, 5
3.
Đặc điểm và
nguyên
tắc
của
bảo
hiểm
7
4.Vai
trò của
bảo
hiểm
đỒi
vói đòi sỒng
xã
hội
9
li
BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG
TRONG
NEN KINH TẾ
THỊ
TRUỒNG
13
1.
Khái niệm chung
về Bảo
hiểm hàng không
13
2 Đặc điểm
của
bảo
hiểm hàng không
14
3.
VỊ
trí của
Bảo
hiểm hàng không
18
4. Các
loại
hình
bảo
hiểm
trong
lĩnh
vực
Hàng Không
Dân Dụng
20
4.1
Bảo
hiểm
thân
máy
bay
20
4.2
Bảo
hiểm
trách
nhiệm của hãng hàng không
đối với
hành
khách,
hành
lý,
hàng hóa và
tư
trang
của hành khách
21
4.3
Bảo
hiếm
trách
nhiệm
dân
sự
của
các hãng hàng không
đối với
người
thứ
ba
21
4.4
Bảo
hiểm
trách
nhiệm dãn sự
của
chủ săn bay và
người điều
hành sân bay
22
4.5.
Bảo
hiểm
mất
khả năng sử dụng
22
4.6.
Bảo
hiếm
tai
nạn
cá
nhân
23
4.7.
Bào
hiểm
rủi ro
chiến tranh
23
4.8.
Bảo
hiềm
rủi
ro
bắt
cóc
và
chiếm
đoạt
23
CHƯƠNG
li:
THỰC
TRẠNG
HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG VIỆT
NAM 25
ì.
HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM Ở VỆT NAM
TRONG
THỜI
GIAN QUA 25
n.
HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG
TỪ
1989
VỀ TRUỔC 29
1.
Hàng không
Việt
Nam
từ 1989 về
trước
29
2.
Hoạt
động bảo
hiểm
Hàng không
từ
1989 về
trước
30
2.1.
Môi
trường
pháp
lý
30
2.2.
Công
tác
bảo
hiềm hàng không
32
2.3.
Công
tác bồi
thường
35
2.4.
Việc
phòng ngừa và
hạn
chế
tổn
thất
38
2.5.
Những
tồn
tại
trong
cơ chế
hoạt
động
bảo
hiểm hàng không
năm
1989
về
trước
40
m.
HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG TỪNĂM
1989
ĐẾN NAY 43
1.
Hàng không
Việt
Nam
từ
1989 đến
nay
43
2.
Hoạt
động
bảo hiểm
Hàng không
từ 1989 đến
nay
46
2.
l.Môi
trường
pháp
lý
46
2.2.
Công
tác
khai thác
bảo
hiềm hàng không
48
2.3
Về
công
tác bồi
thường
54
2.
4 Về
công
tác
đề phòng
hạn
chế
tổn
thất
59
2.
5
Những
tồn
tại
trong
cơ chế
hoạt
động
bảo
hiềm hàng không
từ
1989
đến
nay
60
CHƯƠNG
ni:
TRIỂN
VỌNG
VÀ
GIẢI
PHÁP PHÁT TRIỂN
BẢO HIỂM
HÀNG
KHÔNG
Ở
VIỆT
NAM 62
ì.
DựBÁO
PHÁT TRIỂN NGÀNH HÀNG KHÔNG
TRONG
GIAI
ĐOẠN
TỚI
62
li.
KINH
NGHIỆM
HOẠT
ĐỘNG BẢO HIỂM CỦA MỘT
số
NUỚC
TRÊN
THẾ
GIỚI
66
Ì Bảo
hiểm
Hàng không Thái Lan
66
2.Bào
hiểm
Hàng không Pháp
67
IU
MỘT SỐ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG
ở
VIỆT
NAM 68
1.
Thành
lập
công
ty
bảo
hiểm
hàng không
69
2
Hoàn
thiện
và
đổi
mới
hoạt
động bảo
hiểm
hàng không
73
2.1
Nâng cao
trình
độ
chuyên
môn
nghiệp
vụ
cho các cán
bộ vê
lĩnh
vực
bảo
hiểm hàng không
73
2.2
Quan
hệ trực tiếp với thị trường bảo hiềm hàng không quốc tế.
75
2.3
Sử
dụng các môi giới tái bảo hiểm có tiếm năng vốn lớn và có
uy
tín 75
2.4 Thường xuyên
nắm
bắt các thông tin nói chung về thị trường
BHHK thế
giới, các thông tin về đối tượng tham gia bảo hiếm và sắp
tham gia bảo hiềm
76
2.5. Tạo điêu kiện
đề
các nhà đầu tư hiểu rõ vê Việt
Nam 77
2.6
Hoàn
thiện thủ lục khiếu nại bài thường
78
2.7 Thường xuyên chú trọng công tác
đề
phòng, hạn
chế
tộn thất
cho các đối tượng tham gia bảo hiểm
79
rv
NHŨNG
ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN
HOẠT
ĐỘNG
BẢO
HIỂM
HÀNG
KHÔNG
VIỆT
NAM
79
Ì
Những
điều
kiện
khách quan
79
1.1 Những điều kiện về kinh tế
79
l .2 Điều kiện
về
pháp lý
80
Ì .3 Điêu kiện chính sách tài chính
81
2.
Những
điều
kiện
chủ quan
83
2.1 Điều kiện về công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán
bộ
quản
lý, cán bộ chuyên môn, chuyên gia về tĩnh vực bảo hiểm hàng
không
83
2.2
Đảm
bảo cơ sở vật chất kĩ thuật, đưa nhanh công nghệ tiên
tiến vào kinh doanh
BHHK
84
2.4
Sự
phối hợp với các ngành liên quan
84
2.5
Về
công tác thông tin, quảng cáo
85
KẾT
LUẬN
87
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 88
LỜI
MỞ ĐẦU
ì Tính cấp
thiết
của đề tài
Trong
bối
cảnh khoa
học công
nghệ
phát
triển
mạnh
mẽ như vũ bão,
xu
hướng
toàn cầu hoa và
hội
nhập quốc
tế
đã và đang
tạo
ra
mối liên hệ và
phụ
thuộc
lẫn nhau
giữa
các nền
kinh
tế
của các
quốc
gia.
Vận
tải
hàng
không có vị
trí quan
trọng đối
vói nền
kinh tế thế
giới
nói
chung
và thương
mại
quốc
tế
nói
riêng.
Hơn nữa
vận
tải
hàng không còn
là
chiếc
cầu
nối giữa
các nền văn hoa
của
các dân
tộc,
là
phương
tiện
chính
trong
du
lịch
quốc
tế,
là mờt xích
quan
trọng trong
quá trình
tổ
chức
vận
tải
đa phương
thức
quốc
tế.
Để khôi
phục,
phát
triển
kinh tế
và mờ
rộng
quan
hệ hợp tác
kinh tế với
các
quốc
gia
trên
thế
giới,
vận
tải
hàng không là
chiếc
cầu
nối
nhanh
nhất,
thuận
tiện
nhất
và được xem như một
chất
xúc tác cho
hoạt
động
kinh tế diễn
ra
nhanh hơn.
Ở
Việt
Nam, cùng
với
sự phát
triển
của nén lánh
tế,
nhu cầu
giao
lưu
bằng
đường
hàng không
cũng
không
ngừng
tăng
lên.
Trên
thực
tế
ngành hàng không dân
dụng
đã
tự
khẳng
đinh mình
là
một ngành
kinh tế
mũi
nhọn
đại diện
cho phương
thức
vận
tải
tiên
tiến
và
hiện đại nhất,
ngày càng
đóng
vai
trò
to
lớn
và có ảnh
hưởng
quan
trọng trong
công
cuộc
phát
triển
kinh tế
văn hoá-xã
hội,
an
ninh
quốc
phòng
của
đất
nước.
Hàng không
là
một ngành có
khối
lượng
vốn
đầu tư
lớn
tới
hàng trăm
tỷ
USD. Xác
suất rủi
ro
trong
hoạt
động hàng không là
rất
nhỏ, tuy
nhiên
mỗi khi
xảy
ra
lại
mang tính
chất
nghiêm
trọng,
thiệt
hại
lớn
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
hoạt
dộng
kinh
doanh
của ngành. Do
đó,
việc
bảo
hiểm
cho
hoạt
động hàng không là một
việc
không
thể
thiếu
được,
vì bảo
hiểm
theo
nguyên
tờc lấy
số đông bù số
ít.
Vì
thế,
gờn
liền
vói sự
ra đời
và phát
triển
của
ngành hàng không dân
dụng là
ngành bảo
hiểm
hàng
không,
một ngành
có sứ
mệnh
góp
phần
tạo ra
sự an
toàn,
duy
trì
sự
hoạt
động bình thường và
liên
tục
của vận
tải
hàng không, phát
triển
các mối
quan
hệ, giao
lưu
giữa
Ì
các
quốc
gia,
tăng
cường
mối
quan
hệ hợp tác hữu
nghị
trong
xu
hướng
toàn
cầu
hoa.
Sản
phẩm của bảo
hiểm
hàng không
cũng
như sản phẩm bảo
hiểm
nói
chung
có đặc
điểm
cơ bản là sản phẩm vô hình,
chất
lượng
của sản
phẩm không
thể
đánh giá
ngay
khi
mua sản phẩm mà
chỉ
có
thể
đánh giá
được
sau
khi
"tiêu dùng". Vì vậy
điều
này đã gây không
ít
khó khăn cho
công tác
kiểm
tra
chất
lượng
sản
phẩm
cũng
như
việc
quản
lý
hoứt
động bảo
hiểm
hàng không.
n Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
của
bài
luận
văn này
là
trình bày
những
lý
luận
cơ bản về bảo
hiểm
hàng không, phân tích
thực
tiễn tứi
Việt
Nam và
từ
đó
đưa
triển
vọng cũng
như đề
ra
một số
giải
pháp phát
triển loứi
hình bảo
hiểm
này
tứi
Việt
Nam.
in
Đối
tượng
và phứm
vi
nghiên cứu
Đối
tượng
nghiên cứu của đề tài là các yếu
tố
cấu thành
trong
hoứt
động
bảo
hiểm
hàng không.
Phứm
vi
nghiên cứu là các công
ty
bảo
hiểm
ở
Việt
Nam và
Tổng
công
ty
hàng không
Việt
Nam.
IV
Bố
cục của
luận
văn
Ngoài
phần
mở đầu và
kết luận, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý
luận
về bảo
hiểm
và bảo
hiểm
hàng
không
Chương
2:
Thực
trứng
hoứt
động bảo
hiểm
hàng không ở
Việt
Nam
Chương 3:
Triển
vọng
và
giải
pháp phát
triển
bảo
hiểm
hàng không
tứi
Việt
Nam
2
CHƯƠNG
ì:
NHỮNG VAN
ĐỂ
LÝ
LUẬN
VỀ BẢO
HIỂM
NÓI
CHUNG VÀ BẢO
HIỂM
HÀNG KHÔNG NÓI RIÊNG
ì
NHỮNG
VẤN ĐỂ Cơ BẢN VẾ
BẢO
HIỂM
1.
Khái niệm chung
về
bảo hiểm
Trong
mọi
thời
đại, trong
sản
xuất
và
đời sống,
con
người
thường
xuyên
chịu
ảnh
hưởng
của
thiên
nhiên,
môi trường và nhân
tố
tâm
lý,
xã
hội
khác
nhau.
Ngay cả
hiện
nay
khi lực
lượng
sản
xuất
đã phát
triển,
con
người
vẫn
chưa
hiểu
biết
đầy
đủ
nhừng
quy
luật
phát
triển
của thiên
nhiên,
chưa
hòa đồng được vào thiên nhiên và chưa đủ khả năng để ngăn
ngừa
và
loại
trừ
nhừng
tác
hại
do thiên nhiên gây
ra như:
bão
lụt,
động
đất,
hỏa
hoạn,
núi
lửa,
sóng
thẩn,
bệnh
dịch,
sâu
bọ Do
vậy để
đề
phòng
nhừng
tổn
thất
có
thể
xảy
ra bất ngờ,
cần có các quỹ dự
trừ tập trung
bằng
tiền
đóng góp của
các
doanh
nghiệp,
của mọi
người
dân
muốn
tự
lo
xa cho mình. Đây là một
biện
pháp
kinh
tế
trong
đó
con
người
dành một
phần
sản phẩm
trong
kết
quả
lao
động
của
mình để
lập
quỹ đù
lớn,
quỹ đó được
gọi
là
quỹ dự
trừ
Bảo
hiểm.
Tuy
bảo
hiểm ra đời từ lâu, song
cho đến nay có
rất
nhiều
khái
niệm
khác
nhau
về bảo
hiểm.
"Bảo
hiểm
là một phương pháp
lập
quỹ dự
trừ
bằng
tiền
do
nhừng
người
có cùng khả nâng gặp một
rủi
ro
nào dó đóng góp
tạo
nên"[10]
Định
nghĩa
này chỉ mới
đề
cập đến phương pháp
lập
quỹ dự
trừ
bảo
hiểm
mà
chưa rõ phương
thức
sử
dụng
nó.
" Bảo
hiểm là
hoạt
động
thể hiện
người
bảo
hiểm
cam
kết bổi
thường
(theo
quy
luật
thống kê)
cho phép
tham
gia
bảo
hiểm
trong
từng
trường hợp
xảy
ra
rủi
ro
trong
phạm
vi
bảo
hiểm
vói
điều
kiên
người tham
gia
nộp một
khoản
phí cho chính anh
ta
hay cho nguôi
thứ
ba"[l].
Định
nghĩa
này
có
nghĩa
là
người tham gia chuyển
giao
rủi
ro
cho
người
bảo
hiểm
bằng
cách
nộp
thêm
khoản
phí bảo
hiểm
để hình thành quỹ dự
trừ.
Khi người tham gia
gặp
rủi
ro
dẫn đến
tổn
thất,
người
bảo
hiểm lấy
quỹ dự
trừ trợ
cấp hay
bồi
3
thường
thiệt
hại thuộc
phạm
vi
bảo
hiểm
cho
người tham
gia.
Phạm
vi
bảo
hiểm
là
những
rủi
ro mà
người tham gia
bảo
hiểm
đăng kí
với người
bảo
hiểm,
đây
là
định
nghĩa
mang tính
chung
nhất
của
bảo
hiểm.
Song
lại
có
những
định
nghĩa chỉ
rõ đặc trưng
riêng
của một
loại
bảo
hiểm.
Chẳng
hạn,
bảo
hiểm
xã
hội
là sự đảm bảo
đời sống vỹt
chất
cho
nguôi
lao
dộng
và
gia
đình
của
họ
khi
có
nguy
cơ mất an toàn về
kinh tế
do
bị giảm
hay mất
khả
năng
lao
động thông qua
nguồn
quỹ huy động
từ
người
tham gia
và sự tài
trợ
của nhà
nước[10].
Định
nghĩa
này
chi
rõ mục đích
của
bảo
hiểm
xã
hội
là
đảm bảo
đời sống
cho
người
lao
động và
gia
đình họ
thông qua sử
dụng
quỹ
lao
động
từ
người tham
gia
(người
sử
dụng
lao
động
và
người lao
động)
và sự
tài
trợ
của
nhà nước để cấp cho
người lao
động bị
giảm sức
lao
động
(do
ốm
đau,
tai
nạn
lao
động hay
bệnh
nghề
nghiệp)
hay
mất sức
lao
động
(hết
tuổi
lao
động).
Tuy
có
nhiều
khái
niệm
khác
nhau,
nhưng có
thể
thấy
rằng
mục đích
chủ yếu của
bảo
hiểm là
góp
phần
ổn định
kinh tế
cho
nguôi
tham
gia từ
đó
khôi
phục
và phát
triển
sản
xuất,
đời sống,
đồng
thời
tạo nguồn
vốn cho
phát
triển
kinh tế
xã
hội.
Thực
chất
của
hoạt
động bảo
hiểm
là quá trình phân
phối
lại
sản
phẩm
trong
nước
giữa
những
người tham gia
nhằm đáp ứng nhu cầu tài
chính phát
sinh khi
tai
nạn,
rủi
ro bất
ngờ xảy
ra
gây
tổn
thất
đối
với
người
tham
gia
bảo
hiểm.
Phân
phối trong
bảo
hiểm
là phân
phối
không đồng
đều,
không
bằng
nhau, nghĩa
là không
phải ai
tham
gia
cũng
được phân
phối
vói số tiên như
nhau.
Phân
phối trong
bảo
hiểm
là phân
phối
cho số
ít người tham gia
bảo
hiểm
không may gặp
rủi
ro bất
ngờ gây
thiệt
hại
đến sản
xuất
và
đời sống
trên cơ sở mức
thiệt
hại
thực tế
và
điều
kiện
bảo
hiểm.
Điều
đó
cũng
có ý
nghĩa,
phân
phối trong
bảo
hiểm
không mang tính
bồi
hoàn,
tức
là dù có
tham
gia
đóng góp vào quỹ bảo
hiểm
nhưng không
tổn
thất
thì không được
phân
phối
(trừ
bảo
hiểm
nhân
thọ,
hưu
trí).
4
Hoạt
động bảo
hiểm
dựa trên nguyên
tắc "số
đông bù số
ít".
Nguyên
tắc
này được quán
triệt
trong
quá trình
lập
quỹ dự
trữ
bảo
hiểm cũng
như
quá trình phân
phối,
quá trình phân tán
rủi
ro.
Hoạt
đông bảo
hiểm
còn liên
kết,
gắn bó các thành viên
trong
xã
hội
cùng vì
lợi
ích
chung
của
cộng
đồng,
vì sự ổn
định,
sự
phồn
vinh
của đẫt
nước.
Bảo
hiểm
vói nguyên
tắc
"số
đông bù số
ít" cũng
thể hiện
tính xã
hội,
tính nhân văn sâu
sắc của
xã
hội
trước
rủi
ro của
mỗi thành viên.
2. Phân
loại
bảo hiểm
Trong
xã
hội với
các
chế
độ chính
trị
khác
nhau
vẫn luôn
tồn
tại
khái
niệm
bảo
hiểm
và
hai
hoạt
động bảo
hiểm
dễ bị
hiểu
nhầm đó là bảo
hiểm
xã
hội
và bảo
hiểm
thương
mại.
Bảo hiểm xã
hội:
là một
trong
các chính sách
thuộc
lĩnh
vực bảo đảm
xã
hội
ở mức
tối thiểu.
Đối
tượng được bảo
hiểm
là
những
người
làm công
ăn
lương.
Phạm
vi
bảo
hiểm
xã
hội
chỉ
có
giới
hạn
trong
phạm
vi
từng
quốc
gia.
Quỹ bảo
hiểm
xã
hội
chủ yếu huy động sự đóng góp của
người
lao
động
(có tính
chẫt
bắt
buộc),
người
sử
dụng
sức
lao
động và có
thể
một
phần
do
trợ
cẫp của
ngân sách Chính
Phủ.
Quỹ này được sử
dụng
để
trợ
cẫp
cho người lao
động
khi
họ tạm
thời
hay
vĩnh
viễn
mẫt sức
lao
động.
Mục
đích
của
quỹ bảo
hiểm
xã
hội
không
phải
vì
lợi
nhuận
mà
vì
phúc
lợi,
quyền
lợi
của
người lao
động,
của cả
cộng
đồng.
Bảo
hiểm
xã
hội
thường do nhà
nước
trực
tiếp tiến
hành
theo
quy
chế chung thống
nhẫt
qua các đạo
luật.
Bảo hiểm thương
mại:
là
dịch
vụ tài chính
xuẫt
phát
từ
nhu cẩu cần
được
bảo vệ ngoài sự đảm bảo
chung
của xã
hội
đối
vói các
đối
tượng bảo
hiểm.
Đối
tượng bảo
hiểm
thương mại ngoài con
người
còn bảo
hiểm
tài
sản
và bảo
hiểm
trách
nhiệm.
Quỹ bảo
hiểm
này được
lập
nên
từ
sự đóng
góp phí bảo
hiểm
của các cá
nhân,
các
tổ chức
kinh tế
-
xã
hội
có nhu cầu
được
bảo
hiểm.
Nguồn đóng góp đó được sử
dụng
để
chi bồi
thường cho
các cá
nhân,
đơn
vị tham
gia
bảo
hiểm
gặp
rủi
ro:
như tính
mạng
và
tài
sản
bị
thiên
tai,
tai
nạn
bẫt
ngờ gây
ra
thiệt
hại.
Ngoài
ra
chúng còn được dùng
5
để
chi
cho
quản
lý của
doanh
nghiệp,
kinh
doanh
bảo
hiểm, lập
quỹ dự
trữ
và
thực
hiện
nghĩa
vụ đóng góp
với
ngân sách Nhà
nước.
Như vậy nếu so sánh
giữa
hai
loại
hình bảo
hiểm,
thì chúng đều
nhằm mục đích là giúp ổn định
kinh
tế,
đảm bảo
đời sống, khửc
phục
khó
khăn do hậu
quả,
rủi
ro xảy
ra;
người
tham
gia
bảo
hiểm
đều có trách
nhiệm
dóng góp phí bảo
hiểm.
Nói một cách khác là
hai
loại
hình bảo
hiểm
có
cùng phương
thức
hình thành và sử
dụng
quỹ.
Song chúng đều có
những
điểm
khác
nhau,
như
về đối
tượng
phục
vụ,
nguồn
trích
lập quỹ,
tiêu
chuẩn
lợi
nhuận
(đối với
bảo
hiểm
xã
hội
hoạt
động không
mang
tính
chất
kinh
doanh
thu
lợi
nhuận).
Phạm
vi hoạt
động của bảo
hiểm
thương mại thường
rộng
hơn,
không
chỉ
dừng
lại
ờ
địa
giói một
quốc
gia
mà nó thường
vượt ra
ngoài một
quốc
gia dưới
hình
thức
tái bảo
hiểm.
Bảo
hiểm
thương mại có
nhiều
hình
thức
đa
dạng,
phong
phú.
Để phân
loại
các hình
thức
bảo
hiểm
có
thể
dựa vào
nhiều
tiêu
thức
khác
nhau.
Trên
thế
giới
cũng
như ở
Việt
Nam,
việc
phân
loại
phổ
biến
nhất
là
theo
đối
tượng và phương
thức hoạt
động
của
bảo
hiểm.
Dựa vào
đối
tượng của bảo
hiểm
thì bảo
hiểm
được
chia
thành bảo
hiểm tài
sản,
bảo
hiểm
con
người
và bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân
sự.
Bảo hiềm
tài
sản:
lại
được phân
loại
tùy
theo
đối
tượng mục tiêu của
bảo hiểm.
Thuộc
loại
bảo
hiểm
này
có:
bảo
hiểm
hàng
hóa;
bảo
hiểm
các
phương
tiện
vận
tải
đường
biển,
dường sông, đường bộ và đường hàng
không; bảo
hiểm
hỏa
hoạn;
bảo
hiểm
mùa màng, nông
nghiệp
trong
trường
hợp
lũ
lụt,
hạn hán sâu
bệnh;
bảo
hiểm vật
nuôi
v.v
Bảo
hiểm
này là
quan
hệ
kinh
tế
phát
sinh trong
quá trình phân
phối,
phí bảo
hiểm
loại
này được
hạch
toán vào giá thành như
nhũng
chi
phí
sản
xuất.
Bảo hiểm con
người:
là
loại
bảo
hiểm
mà
dối
tượng là bảo
hiểm
sinh
mạng,
sức
khỏe
và khả năng
lao
động của con
người.
Căn cứ vào tính
chất
khác
nhau
của
việc trả
tiền
bảo
hiểm
dối với
bảo
hiểm con người
có
thể
chia
thành bảo
hiểm
nhân
thọ
và bảo
hiểm
tai
nạn
con
người.
Bảo
hiểm
nhân
thọ
thì
việc trả
tiền
cho
người
tham
gia
bảo
hiểm
nhất
thiết
diễn
ra,
còn
đối với
6
bảo hiểm
tai
nạn
con người thì chỉ
trả tiền
cho
người tham
gia
bảo
hiểm khi
bị
thiệt hại.
Loại
bảo
hiểm
này là
quan
hệ
kinh
tế
phát
sinh
trong
quá trình
phân
phối
lại
thu
nhập
quốc
dân.
Bảo hiểm
trách
nhiệm dân
sự.
là các
nghiệp
vụ bảo
hiểm
mà đối
tượng
là
phần nghĩa
vụ hay trách
nhiệm
dân sự của
người tham gia
bảo
hiểm
như: bảo
hiểm
trách
nhiệm
dân sự của chủ phương
tiện,
nhà máy,
công trình xây
dựng,
khai
thác. Bảo
hiểm
trách
nhiệm
mang
tính
trừu
tượng.
Người
bảo
hiểm
chỉ bảo
hiểm phần nghĩa
vụ hay trách
nhiệm
của
người tham gia
bảo
hiểm
chứ không
phải
phần nghĩa
vụ hay trách
nhiệm
hình sự và chính
thiệt
hại
của người tham
gia
bảo
hiểm.
Dựa vào phương
thức
bảo
hiểm thì
bảo
hiểm
được
chia
thành
hai
loại:
bảo hiểm tự nguyện
và bảo
hiểm bởt buộc. Hai
hình
thức
bảo
hiểm
này áp
dụng
đối
vối tất
cả các
đối
tượng
là con người
và
tài sản.
Bảo hiểm tự
nguyện:
là hình
thức
bảo
hiểm
được
tiến
hành
theo
ý
nguyện của người tham
gia
bảo
hiểm
được
chi phối
bởi
hợp đồng bảo
hiểm
trên nguyên
tởc thỏa thuận.
Bảo hiểm bắt
buộc:
là hình
thức
bảo
hiểm
được pháp
luật
nhà nước
quy
định
bởt buộc đối
vói cá nhân bảo
hiểm
và
người tham gia
bảo
hiểm.
Đặc
trưng
của
bảo
hiểm bởt buộc
là
hoạt
động bảo
hiểm
được
thiết
lập theo
nguyên
tởc
trách
nhiệm
tự
động,
loại trừ
khả
năng
lựa
chọn của người tham
gia
bảo
hiểm.
Nó gởn
liền
vói
việc
tăng cường
vai
trò
quản
lý của nhà nước
đối
với
đối
tượng bảo
hiểm
có liên
quan
đến
lợi
ích và an toàn
chung của
xã
hội.
Vì
rủi
ro
xảy
ra
đối với
đối
tượng bảo
hiểm bởt buộc
không
chỉ
là
thiệt
hại
của cá nhân
người
được bảo
hiểm
mà còn gây
ra
thiệt
hại chung
cho
toàn xã
hội,.
Hình
thức
bảo
hiểm bởt buộc
có
nhiều thuận
lợi
cho các nhà
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
trong
công tác
triển
khai nghiệp
vụ.
3.
Đặc
điểm
và nguyên tác
của
bảo
hiểm
Khi
xảy
ra
sự cố bảo
hiểm bất ngờ, đối
tượng bảo
hiểm
bị
tổn
thất
được
bảo
hiểm bồi
thưởng.
Điều
này
tạo
ra
tiền
đề khách
quan
cho tính
7
thương mại của bảo
hiểm,
nghĩa
là
khi
không xảy ra
rủi
ro bảo
hiểm
thì
không
phải bồi
thường
từ
đó
tạo ra thu
nhập
cho
người
kinh
doanh
bảo
hiểm.
- Tiêu
chuẩn
bồi
thường của bảo
hiểm
là không
biết
trước được về
thòi
gian,
không
gian
và quy mô.
Việc bồi
thường chỉ xác định được một
cách tương
đối
chính xác
khi
rủi
ro thục
tế
xảy
ra.
Ở đây hoàn toàn khác vói
tính
bổi
thường
của tín
dụng
ta
có
thể
biết
trước được và tính trước được tùy
theo
hình
thức
tín
dụng.
Điều này
tạo ra
lượng vốn nhàn
rỗi
trong
nguồn
vốn
bảo
hiểm
tại
những
thòi
gian nhất
định cho phép
người
bảo
hiểm
có
thể
sử
dụng
khoản
vốn
đó
tham
gia
vào
thị
trường
tài
chính để
kiếm
lời.
-
Việc bồi
thường tổn
thất
thục
tế cho
người
tham
gia
bảo
hiểm
thường
rất
lớn,
lớn
hơn
rất nhiều lần
so
với
số
tiền
phí bảo
hiểm
đã đóng
góp.
Đặc
điểm
này cho
thấy
để đảm bảo và ổn định
nguồn
tài chính cho
việc
bù đắp
tổn
thất
trong hoạt
động bảo
hiểm
thường
phải
áp
dụng
quy
luật
số lớn tức
là phí bảo
hiểm
đóng góp
của nhiều
nguôi để giúp đỡ bù đắp cho
một
số
ít
người
bị
tổn
thất
(số
đông bù số
ít).
Trong
thục
tế,
đối với
những
đối
tượng bảo
hiểm
có giá
trị lớn,
để
giảm
bớt
trách
nhiệm
tài
chính
đối với
rủi
ro
bảo
hiểm
tổn
thất
phải thục hiện nghiệp
vụ
tái
bảo
hiểm.
Mặt
khác,
để
giảm
bớt chi bồi
thường
phải
tăng cường các
biện
pháp để ngăn
ngừa
và hạn
chế tổn
thất
bảo
hiểm.
Hay
khi
nguồn
vốn
bảo
hiểm
chưa
sử
dụng
đến để bù
đắp được sử
dụng
đầu tư phát
triển
kinh tế
để
sinh
lòi làm tăng khả năng
nguồn
tài
chính cho
việc
bồi
thưởng và tăng
lợi
nhuận.
- Quá trình phân
phối
và sử
dụng
quỹ bảo
hiểm
gắn bó
chặt
chẽ
với
chức
năng
quản
trị
về mặt
tài
chính
đối với
mục đích
tạo lập
quỹ và sử
dụng
quỹ
nhằm đảm bảo
quyền
lợi
cho
người
tham
gia
bảo
hiểm
khi gặp
rủi
ro
cũng
như
quyền
lợi
của
người
kinh
doanh
bảo
hiểm
đạt
được
doanh
lợi
cao nhất.
Từ
sụ
phân tích đặc
điểm
của
quỹ bảo
hiểm
có
thể
rút một số nguyên
tắc
hoạt
động
của
bảo
hiểm
thương
mại
như
sau:
Một
là,
người
tham
gia
bảo
hiểm
phải tụ
giác đóng phí bảo
hiểm
đầy
đủ, kịp
thời.
Doanh
nghiệp
được sử
dụng
vốn nhàn
rỗi
để đầu tư phát
triển
8
kinh tế
theo
nguyên
tắc
bảo toàn
vốn,
nhằm phát
triển
khả năng
thanh
toán
bồi
thường và có
điều
kiện
giảm
phí bảo
hiểm.
Hai
là,
các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
hoạt
động
theo
nguyên
tắc
hạch
toán
kinh
doanh,
tức
là
hoạt
động
kinh
doanh
các
dịch
vụ bảo
hiểm
phải
thu
được
lợi
nhuận,
phải lấy
lợi
nhuận
làm mục tiêu
kinh
doanh.
Ba
là,
hoạt
động
cỗa doanh
nghiệp
bảo
hiểm
phải
tuân
theo
pháp
luật
cỗa
nhà nước quy định cho các
doanh
nghiệp
nói
chung
và
doanh
nghiệp
bảo hiểm
nói riêng.
Một
khi
hoạt
động cỗa bảo
hiểm
tuân
thỗ
nguyên
tắc
trên thì bảo
hiểm
sẽ phát huy
vai
trò cỗa nó. Đó là
giải
quyết
bổi
thường kịp
thời
và
chính xác nhằm bảo toàn vốn sản
xuất
kinh
doanh
và ổn định
đời
sống
cỗa
người
tham
gia
bảo
hiểm,
hỗ
trợ
và
thực
hiện
các
biện
pháp phòng
ngừa
và
hạn chế
tổn
thất
có
thể
xảy
ra
nhằm đảm bảo an toàn cho phát
triển
kinh tế,
xã
hội
cỗa
đất nước.
Cuối
cùng là có
thể
sử
dụng nguồn
tài chính nhàn
rỗi
tham
gia thị
trường tài chính để đầu tư
phục
vụ sản
xuất
kinh
doanh
nhằm
sinh
lời.
Trong
các nước
kinh tế thị
trường phát
triển,
bảo
hiểm
là
nguồn
đầu
tư
quan
trọng
cỗa
thị
trường
chứng
khoán và thường
là người chiếm
giữ
tài sản
lớn
cỗa xã
hội
sau các ngân hàng thương
mại.
Ớ
Việt
Nam,
vai
trò
đầu
tư vốn nhàn
rỗi
cỗa các
doanh
nghiệp
vào
thị
trường tài chính là
rất
quan
trọng
vì
thị
trường tài chính đang
trong
quá trình hình thành và phát
triển.
4.Vai
trò
cỗa
bảo
hiểm
đối với
đòi
sống
xã
hội
Ngày
nay, khi
các mối
quan
hệ
kinh
tế,
chính
trị,
xã
hội
liên
quan
vói
nhau
một cách khăng khít và
phức
tạp
thì
bảo
hiểm
thực
sự
là
chất
keo dính
các mối
quan
hệ đó một cách ổn định và bền
chặt.
cả trên phạm
vi
toàn
cầu,
bảo
hiểm cũng
góp
phần
liên
kết
các
quốc
gia,
các châu
lục
thành một
khối
bền
vững
nhằm phòng
chống,
ngăn
chặn
cho nhân
loại
trước muôn vàn
thảm
họa,
hiểm nguy.
Xã
hội
càng văn
minh
hiện đại
thì người
ta
càng cần
một cuộc sống
được đảm bảo và an toàn trước
những
tai
nạn,
rỗi
ro luôn
luôn rình
rập
chung quanh.
9
Trong
nền
kinh tế
quốc
dân của mỗi
nước,
bảo
hiểm
giữ
một
vai
trò
rất
quan
trọng,
các nhà
doanh
nghiệp
thường sử
dụng
một
biện
pháp hữu
hiệu
để đảm bảo sự ổn đởnh
tài
chính
của
mình là
chuyển
rủi
ro
cho công
ty
bảo
hiểm,
các công
ty
bảo
hiểm
đưa
số
tiền
thu
được
của
những
người
được
bảo
hiểm
vào đầu tư và nó
trở
thành một
trong
những
động
lực
mạnh
nhất
của nền kinh tế.
Bảo
hiểm
là
một bộ
phận
của tài
chính
quốc
gia.
Nhiệm
vụ
là
ổn đởnh
sản xuất
và
đời
sống
cho các
đối
tượng
tham
gia
bảo
hiểm
mỗi
khi
có
tai
nạn,
đồng
thời
nhà bảo
hiểm
là
người
trợ
cấp
dởch
vụ có trách
nhiệm
tổ
chức
và
quản
lý
hội
tương hỗ
của
người
được bảo
hiểm
.
Quỹ bảo
hiểm
là một
loại
quỹ dự
trữ bắt
buộc
được
thiết
lập
dưới
hình
thức
bằng
tiền
từ
sự đóng góp của số đông
người
tham
gia
bảo
hiểm
nhằm
thỏa
mãn
những
nhu cầu dược xác đởnh trước về mặt
tài
chính
khi
có
những
thiên
tai
và
tai
nạn
bất ngờ,
giúp cho ổn đởnh phát
triển
sản
xuất
và
đời
sống,
khắc
phục
sự mất còn
đối với kinh
tế-xã
hội.
Hoạt
động bảo
hiểm
là hình
thức
phân
phối
lại
một
phần
thu
nhập
quốc
dân cho mục đích
củng
cố ổn đởnh
kinh tế
cùa sản
xuất
xã
hội,
bảo
đảm
lợi
ích
vật chất
cho
từng
cá nhân thòng qua
thu
phí bảo
hiểm,
bồi
thường
và góp
phần
đề
ra
những
biện
pháp phòng
ngừa
thiệt
hại.
Hoạt
động bảo
hiểm
còn có
vai
trò đặc
biệt
trong việc
cung
cấp vốn
dài hạn và
trung
hạn cho
thở
trường
tài
chính,
thở
trường
vốn kinh
doanh
qua
việc
vốn tạm
thời
nhàn
rỗi
chưa
phải
thanh
toán
bồi
thường làm tăng khả
năng bảo toàn và phát
triển,
nới
rộng
vốn dự
trữ, tạo
điều
kiện
cho các
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
lựa
chọn
đưa
ra
các mức phí có sức
cạnh
tranh
và
tăng mức trách
nhiệm
đối
vói
người
tham
gia
bảo
hiểm,
chất
lượng
kinh
doanh
và
phục
vụ được nâng
cao,
thúc đẩy
hoạt
động càng phát
triển.
Có
thể
nói không có
lĩnh
vực nào của
đời
sống
kinh tế
lại
không có
bảo
hiểm.
Bảo
hiểm
đã
trở
thành tấm lá
chắn
trong
hoạt
động
kinh tế
xã
hội,
tạo ra
môi trường ổn đởnh cho mọi cá nhân trước
những
diễn biến bất
thường
của
cuộc
sống,
nó được
thể hiện
ở
những
nội
dung
sau:
10
Một
là,
bảo
hiểm
giúp
hồi
phục
sản
xuất,
kinh
doanh;
ổn định
cuộc
sống. Việc
giải
quyết
bồi
thường
của
còng
ty
bảo
hiểm
thường là cao hơn so
vói
thiệt hại
thực
tế
của người tham
gia
bảo
hiểm.
Để
đạt
được yêu cầu đó,
các công
ty
bảo
hiểm
phải
tiến
hành công tác giám định để xác đinh rõ mỏc
độ
thiệt hại,
từ
đó định
ra
các mỏc
bổi
thường cho
người
bị
thiệt hại.
Đồng
thời,
khẳng
định
thiệt
hại
có xảy
ra
hay không, do nguyên nhân nào.
Việc
bảo hiểm
thỏa
đáng cho
người
bị
thiệt hại
là
yếu tố
quan
trọng
nhất
cho họ
ổn
định
cuộc sống
phục
hổi
sản
xuất-kinh
doanh, tái
hòa
nhập
vói
đời sống
kinh
tế
- xã
hội.
Bảo
hiểm
giúp cho
việc
vô
hiệu
hóa ảnh hưởng xấu
khi
xảy
ra
rủi
ro,
do
đó phạm
vi
người
được bảo
hiểm
ngày một mở
rộng.
Các công
ty
bảo
hiểm (người
bảo
hiểm
),
sử
dụng
phần
lớn
số
tiền
thu
được để
bồi
thường
cho người tham gia
bảo
hiểm,
thường số
tiền
bồi
thường
chiếm khoảng
60-
80%
doanh
thu
phí bảo
hiểm.
Hai
là,
góp
phần
tăng tích
lũy
và
tiết
kiệm chi
cho ngân sách nhà
nước.
Nguồn tăng tích
lũy
chủ yếu của
hoạt
động bảo
hiểm từ
các
nguồn
:
thuế;
số phí bảo
hiểm thu
được mà công
ty
bảo
hiểm
chưa dùng đến có
thể
được
cho
vay,
đầu tư mỏ
rộng
sản
xuất;
hoặc
bằng
nghiêp vụ bảo
hiểm
có
thể giải
quyết
tình
trạng
ỏ đọng và lãng phí vốn
của
những
người tham gia
bảo hiểm,
họ không
phải
dự
trữ
vốn
để
tự
bảo
hiểm
mà có
thể
sử
dụng
vốn
này đầu tư
cho sản
xuất,
kinh
doanh.
Mặt
khác,
nhờ có
hoạt
động bảo
hiểm,
ngân sách đỡ
phải
gánh
chịu
những
tổn
thất
rất
lớn
hàng năm do thiên
tai,
tai
nạn
gãy
nên.
Thông qua
việc
bảo
hiểm đối ngoại
và
nghiệp
vụ tái bảo
hiểm,
các
công
ty
bảo
hiểm
có
thể thu
được số lượng
ngoại tệ
rất lớn.
Kết quả của
hoạt
động bảo
hiểm
một
phần
được đánh giá dựa vào chênh
lệch
giữa
thu
và
chi,
chỉ số chênh
lệch
càng
lớn
(thu
nhiều,
chi ít) chỏng tỏ
công tác bảo
hiểm
đã làm
tốt
công tác tuyên
truyền,
cũng
như các
doanh
nghiệp
khác,
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
phải
nộp vào ngân sách nhà nước một số
loại
thuế.
li
Ba
là,
bảo
hiểm
là
nguồn
cung
cấp
vốn.
Bảo
hiểm
có khả năng
tập
trung
được
nguồn
vốn rất lớn
thông qua
vốn
đầu tư
ban
đầu
của
các công
ty.
Nguồn
thu
chủ
yếu thứ hai của
bảo
hiểm
là
thu từ
người
tham
gia
bảo
hiểm
dưới
dạng
phí bảo
hiểm.
Việc
bảo
hiểm
làm
chức
năng
trung gian tài
chính
có
những
cái
lợi
như: vốn đầu tư dược huy động
từ trong
nước do đó không
làm ảnh hưắng cán cân
thanh
toán,
điều
này
rất
quan
trọng đối với
các nước
có nhu cầu
thu
hút được
nhiều
tiền
từ
người
tiêu dùng vói mức
lãi
suất
thấp
hay
đang mắc nợ cao và mặt
lợi
nữa là
việc lập
vốn của ngành bảo
hiểm
khác
với
của ngành ngân hàng không
phục
vụ vào nhu cầu
tiết
kiệm
cũng
như kha năng gặp
rủi ro
của
từng
cá
nhân.
Tuy
nhiên,
mức vốn được hình
thành qua bảo
hiểm
vẫn chưa cụ
thể
vì chưa
biết
được mức độ
rủi ro
cũng
như mức
thu
theo
các nhu câu bảo
hiểm.
Bốn
là,
đề phòng và hạn chí
tổn
thất.
Mục đích chính cùa bảo
hiểm
không
phải là kinh
doanh
mà
là bồi
thường
thiệt
hại
nhưng
bồi
thường chưa
thể hiện
được tính tích cực
của
bảo
hiểm.
Xét trên quy mô toàn xã
hội, bồi
thường
chỉ
là
biện
pháp
cuối
cùng.
Khi
xảy
ra tổn
thắt
thì tài sản
chung
bị
thiệt
hại
gây lãng phí
lớn.
Hoạt
động bảo
hiểm
mang
tính
kinh
doanh
cho nên
muốn
có
hiệu
quả cao,
các công
ty
bảo
hiểm
phải
theo
dõi,
thống
kê tình hình
tai
nạn, tổn
thất.
Trên cơ
sỏ
đó để đề
ra
các
biện
pháp nhằm đề phòng và hạn
chế
rủi
ro,
thông báo cho
người
được bảo
hiểm
về các
rủi
ro tiềm
tàng và xác
suất
xảy
ra
rủi ro, bồi
thường
những
chi
phí hợp lý cho
người
tham
gia
để họ đề
phòng và hạn chế
tổn
thất,
dề
ra
các quy định
chặt
chẽ
để tăng cường trách
nhiệm
của
những
bên có liên
quan
đến
đối
tượng bảo
hiểm.
Bằng cách này,
bảo
hiểm
giúp được cho công tác phòng
ngừa
tổn
thất,
làm tăng thêm các
tiêu
chuẩn
an toàn và đảm bảo
chất
lượng bảo
hiểm.
Như vậy
quyền
lợi
bảo
hiểm
đã ràng
buộc
trách
nhiệm
của các bên
hữu
quan
đối với đối
tượng bảo
hiểm
và thông qua đó
hoạt
động bảo
hiểm
đã góp
phẩn
tích cực vào
việc
đề phòng và hạn
chế tổn
thất.
Bảo
hiểm
làm
lành
mạnh
môi trường tài chính tín
dụng
trong
nền
kinh tế,
hạn
chế
rủi
ro
12
vốn túi
dụng
ngân hàng đầu tư
cho
các thành
phần
kinh
tế.
Ở các nước trên
thế
giới,
hoạt
động của ngân hàng phát
triển
cũng
đồng
thời
vói sự phát
triển
của
hoạt
động bảo
hiểm.
Bảo
hiểm
còn góp
phẩn
thực
hiện
chính sách
giữ
vững
độc
lọp
tự
chủ,
nâng cao uy
túi
của một nước
trong
các
hoạt
động
kinh
tế,
chính
trị
góp
phần
nâng
cao cuộc sống của người
dân.
Vai
trò của bảo
hiểm
là
rất
lớn đối
vói mọi
hoạt
động
kinh
tế-xã hội
và
cuộc sống
của mỗi
người.
Tham
gia
bảo
hiểm
là
biện
pháp
tự
vệ an toàn
cho tổ chức,
đơn vị và cá nhân mình trước
những
tai
họa
bất
thường của
khách
quan.
n
BẢO
HIỂM
HÀNG KHÔNG
TRONG
NẾN
KINH
TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.
Khái
niệm chung về
Bảo
hiểm
hàng không
Bảo
hiểm
hàng không là bảo
hiểm
những
rủi
ro
tổn
thất
xảy
ra đối
với
phương
tiện
vọn
chuyển
bằng
đường
hàng không (máy
bay,
hành khách,
hành
lý,
hàng hóa đi trên phương
tiện
đó và
phần
trách
nhiệm
dân sự của
chủ
hàng không
đối với
hành
khách,
hành
lý,
hàng hóa
hoặc người
thứ
ba.
Xét về phương
diện
hàng không, thì bảo
hiểm
là
những
khoản
đảm
bảo
tài chính
lẽn
đến hàng trăm USD. Bảo
hiểm
là
điều
kiện
tiên
quyết
trong
hoạt
động
của bất
kì hãng hàng không nào mặc dù
khoản
chi
phí
tổn
thất
toàn bộ
(nếu
có xảy
ra)-
thường ở mức
trung
bình
dưới
2% so
với
tổng
ngân sách
của
các hãng hàng không-
là
tương
đối
nhỏ. Thọt sự
đây
là khoản
chi
phí phụ thêm mà hầu như
ít
được đề cọp đến
trong
các bản báo cáo tài
chính
chi
tiết
của các hãng hàng không. Dĩ nhiên là ngành hàng không-
cũng
như các ngành khác
trong
thành
phần
kinh tế -
cũng
luôn
chịu
áp
lực
về tài
chính.
Tuy nhiên
khoản
chi
phí cho bảo
hiểm
thán máy bay và trách
nhiệm
đối với
một
chiếc
máy bay
chỉ
là một
khoản
nhỏ so
với
các
lợi
nhuọn
mà chính khách hàng
mang
lại
cho hãng hàng không.
Các
thuọt
ngữ:
- Máy
bay: là
thiết
bị
bay
hoạt
động cho mục đích dân
dụng
hoặc
quân
sự
được nâng
giữ trong
khí
quyển
nhờ
tác
dụng
tương hỗ vói không khí.
13
- Hành khách: là
người
được chuyên chở
bằng
máy bay do cơ
quan
vận chuyển
thỏa
thuận.
- Hành
lý:
là đồ
vật
của hành khách
mang
theo chuyến bay,
hành lý
- Hàng hóa: là
vật
phẩm được chuyên chở
bằng
máy bay
theo
vận
đơn Hàng Không
- Người
thứ ba:
là người đi
trên mặt
đất bị
tai
nạn do máy bay gây
ra
-
Người
chuyên chở: Công ty hàng không
thuộc
Tảng
cục Hàng
Không Dân Dụng
Việt
Nam đứng
ra tả chức
vận
chuyển
hành
khách,
hành
lý,
hàng hóa
2 Đặc
điểm
của
bảo
hiểm
hàng không
Trong
vận
tải
hàng không, số vụ
tai
nạn xảy ra
tuy
ít hơn so
vối
đường
biển
nhưng mức độ
thiệt
hại
lại
rất
nghiêm
trọng, việc bồi
thường
tai
nạn
rất lớn
(chẳng hạn:
13,6
tỷ
USD năm
2005).
Một nghiên cứu về nguyên
nhân của 2147 vụ
tai
nạn máy bay
từ
1950 đến
2004
cho
kết
quả như
sau:
37%
do
lỗi
phi
công,
33% không xác định được nguyên
nhân,
13% đo máy
móc,
7 % do
thời
tiết,
5% do âm mưu quân
sự;
khủng
bố cướp máy
bay,
4%
do
các yếu
tố
con
người
khác như do
lỗi
của
kiểm
soát viên không
lưu,
do
nhiên
liệu
không đúng
chất
lượng,
chất
hàng hoa không đúng quy
cách,
bảo
dưỡng
kĩ
thuật
tồi,
Ì % do nguyên nhân khác
được
chia
ra
2
loại:
-
hành lý
kí gửi
- hành lý xách
tay
4%1%
33%
Nguồn:
Wikipedia
14
Các nhà bảo
hiểm cũng
đang xem xét
lại
phạm
vi
bảo
hiểm
mà họ
đưa
ra.
Ví dụ
thị
trường bảo
hiểm
hàng không đang xem xét
việc
bảo
hiểm
máy bay
thuê,
yêu cầu các hãng hàng không
phải
trả
một
khoản
phí bảo
hiểm
bổ
sung
cho máy bay thuê được bảo
hiểm
cho hợp đồng bảo
hiểm
thân máy bay của
họ.
Rất
nhiều
máy bay thuê
cũng
được bảo
hiểm bởi
các
công
ty
cho thuê.
Bảng
:
Biểu
đồ
tổn thất
(cộng
dồn)
đơn
vị
tính:
triệu
USD
1300
-Ị
0
-I
1
1
r
12
3 ít 5 6 7 ẽ 9 10 11 12
Nguồn:
Aon
Aviation
Airline
Insurance
Market
News
Người
ta dớ đoán
trong
tương
lai,
khoảng
85% các
thiết
bị hàng
không mói
sẽ
được đem cho thuê.
Nếu các hãng
kinh
doanh
muốn phí bảo
hiểm
ngày càng
giảm
thì
ngược
lại
các công
ty
kinh
doanh
bảo
hiểm
hàng không
lại
muốn tăng phí.
Tuy
nhiên
trong
năm 5 năm vừa
qua,
phí bảo
hiểm
hàng không
lại
có xu
hướng
giảm
hơn do có sớ
cạnh
tranh
trên
thị
trường của các nhà bảo
hiểm.
Năm
2006, chỉ
tính
riêng
quý
2,
phí bảo
hiểm
dã
giảm
6% so
với
mức
giảm
2%
trong
quý Ì mác dù giá
trị trung
bình của
đội
bay tăng
11
% và lượng
15
khách đi trên
các
chuyến
bay tăng
18%
trong
cùng
kì,
điều
này
chứng tỏ
sự
gia
tăng
về mặt
lợi
ích
không
có
nghĩa
kèm
theo
sự
gia
tăng
về các
khoản
bồi
thường.
Bảng
:
Tinh
hình
phí bảo hiểm
hàng không hàng tháng
trong
2005-
2006
trên
thế
giới
đơn
vị
tính:
triệu
USD
1100
1
9
3
4 5
ã
7
a
9
la 11 13
Nguồn:
Aon
Aviation
Aừline
Insurance
Market
News
Đối
vói bảo
hiểm
hàng không
tại
Việt
Nam, giá
trị
bảo
hiểm
của
tài
sản
thường
rụt lớn.
Để đảm
bảo cho
hoạt
động bình thường
của
ngành hàng
không, ngoài
máy
bay
còn
rụt
nhiều
yếu
tố
như
đường
băng,
sân
đỗ,
thiết
bị
phục
vụ hạ
cụt
cánh,
thiết
bị
bảo
đảm an
toàn
của
sân
bay,
hệ
thống
các kho
tàng
cung
cụp
phụ
tùng
cho máy
bay,
hệ
thống
các xe đặc
chủng phục
vụ
mặt
đụt
cho
khai
thác thương
mại
v.v
mà hầu
hết
phải
nhập
của
nước
ngoài
với
giá
trị
lớn.
Khi
có
tai
nạn,
có
thể
phát
sinh
một
số
trách
nhiệm
như
sau:
1.
Trách
nhiệm của
hăng chuyên
chở
đối với
khách (thường hành
khách
có
nhiều
quốc
tịch
khác
nhau)
và
tụt
nhiên
mức
trách
nhiệm
phát
sinh
đối với
từng
hãng hàng không
cũng
khác
nhau.
Hiện
nay đa số các
hãng hàng không
áp
dụng
mức
giới
hạn
trách
nhiệm
100
nghìn
SDR/01
hành khách
và một
số
nước
áp
đụng
mức
không
có
giới
hạn.
16
2.
Trách
nhiệm
của nhà vận
chuyển
đối
vói hành lý, hàng hóa,
bưu
kiện
và tư
trang
cá nhân của hành khách, thường thì có
giới
hạn trách
nhiệm
theo
mức là 20
USD/01
kg và mức
400USD/
toàn bộ tư
trang
của
một
hành khách.
3. Trách
nhiệm
đối với
người
thứ
ba
4. Trách
nhiệm
cung
cấp sản phẩm (xăng
dầu,
thiết
bị,
phụ tùng,
suất
ăn )
5. Trách
nhiệm
của
người
điều
hành bay (điểu hành
tại
sân bay,
điều
hành
tiếp
cận
và
điều
hành đường dài )
Theo
luật
pháp và để ỷn định
kinh
doanh,
các hãng Hàng Không, nhà
chức
trách hàng không, các cơ
quan
liên
quan
đến
phục
vụ
trực
tiếp
cho
hoạt
động hàng không đều
phải
nghĩ
tới
việc
bảo
hiểm
trách
nhiệm
cho
hoạt
động
của
mình.
Mức bảo
hiểm
thông thường là:
+ Bảo
hiểm
trách
nhiệm
của nhà vận
chuyển
đối
với
hành
khách,
hành
lý,
hàng
hóa,
bưu
kiện
và
người
thứ
ba
cũng
như trách
nhiệm
của
người
cung
cấp
sản
phẩm mức
từ
1-1,5
tỷ
USD/
OI
vụ
tỷn
thất.
+ Bảo
hiểm
trách
nhiệm
của
người
chủ sân bay và
người
điều
hành bay mức
từ 0,5-1 tỷ
USD/01
vụ
tỷn
thất
Các sự cố uy
hiếp
an toàn
hoạt
động hàng không có
thể
xảy
ra bất
cứ
lúc nào ở các
giai
đoạn:
đỗ trên mặt
đất,
lăn bánh và
bay.
Trong
đó
giai
đoạn
bay là đáng chú ý
nhất,
nếu
loại
trừ
các
rủi ro
về
chiến tranh
thì hầu
hết
các
tai
nạn máy bay đều xảy
ra trong
quá trình
cất
và hạ
cánh.
Khác
với
hỏng
hóc
của
phương
tiện
ô
tô,
tàu
thủy,
xe
lửa
có
thể
dừng
lại
để
sửa
chữa
hay
nhờ các phương
tiện
khác cứu
hộ,
giúp đỡ còn
đối với
máy
bay,
đây là
điều
khó có
thể
thực
hiện
được,
thường là các
tai
nạn máy bay như nỷ
lốp
khi
hạ
cánh,
gảy
cánh,
không
thả
được
càng,
hỏng
cánh,
động cơ hút
phải
vật lạv.v
hoặc
thời
tiết
xấu.
Để cho máy bay
hoạt
động an toàn, các bộ
phận
liên
quan
đến kỹ
thuật
máy bay trước
khi cất
cánh
phải
theo
dõi,
hơn
thế
nữa các bộ
phận
phục
vụ như sân
đường,
khí
tượng,
thông túi liên
lạc,
17
j
Lự OG^ì
L_
ị
\ u$b ị
điều
hành bay và làm các
thủ tục
mặt
đất
được
tổ
chức
đi vào
hoạt
động
một
cách
hết sức
chính xác
3.
VỊ
trí của
Bảo
hiểm
hàng không
Từ
sau
chiến
tranh
thế
giới
n,
công
nghiệp
hàng không và ngành vận
chuyển
hàng không dân
dụng
phát
triển
qua các kồ
nhanh
chóng từ
loại
máy bay
hai
động
cơ,
sức chở không quá 20 hành khách đã được
thay
thế
bằng
loại
máy bay 4 động
cơ, rồi
máy bay
phản
lực
và ngày nay
xuất
hiện
máy bay
phản
lực
khổng
lồ
bay
với tốc
độ siêu âm,
khả
năng chở khách
lớn
và đặc
biệt
giá
trị
cao
tới
hàng trăm
triệu
USD.
Tinh
hình giá cả máy bay
tăng lên không
ngừng
biểu
hiện
sản
lượng
vốn
rất lớn
mà các hãng máy
bay,
các nhà
điều
hành bay và các
tổ
chức
tài chính đang đầu tư vào
lĩnh
vực
công
nghiệp
hàng không và vận
chuyển
hàng không dân
dụng.
Trong
quá trình vận
chuyển
hành khách, giá
trị
máy bay
lớn,
nhất
là
đối
vói
loại
máy bay thân
rộng
đã
buộc
thị
trường hàng không
thế
giới
nâng giói hạn
trách
nhiệm
của
mình
lẽn
một cách đáng
kể,
do
vậy
nhu
cầu
bảo
hiểm
trong
ngành
vận
chuyển
hàng không dân
dụng
ngày càng
tăng,
chỉ cần
một vài vụ
tai
nạn máy bay xảy ra
cũng
đủ làm một hãng hàng không phá sản nếu
không được bảo
hiểm.
Sự phát
triển của thị
trường bảo
hiểm
hàng không
thế
giới
không
chỉ
gắn
liền với sự
phát
triển của
ngành công
nghiệp
hàng không
và vận
chuyển
hàng không dân
dụng
mà còn gắn
liền
vói sự phát
triển
của
các hãng hàng không
Trong
nền
kinh
tế thị
trường,
việc
tham
gia
bảo
hiểm
cho
hoạt
động
kinh
doanh
hàng không
là rất cần thiết vì
3 lý do
sau
đây:
Một
là,
giá
trị của
các
đối
tượng
bảo
hiểm
rất lớn
Sự
xuất
hiện
của các
loại
máy bay nói
trên,
vói trình độ công
nghệ
ngày càng tiên
tiến
làm giá
trị
ngày càng
lớn.
Ví
dụ:
chiếc
máy bay
B747,
tốc
độ
kinh
tế
600
dặm/h,
chở
trên 400 hành
khách,
giá
trị
hàng trăm USD/
chiếc.
Ngoài
ra, đối với
hoạt
động bảo
hiểm
hàng không, để đảm bảo cho
hoạt
động bình thường của ngành hàng không, bèn
cạnh
máy bay còn cần
rất
nhiều
yếu
tố
như
đường
băng,
sân
đỗ, thiết bị
phục
vụ
cất
hạ
cánh,
thiết
18
bị
đảm bảo an toàn cho sân
bay,
hệ
thống
điều
hành
chỉ huy,
hệ
thống
cung
cấp
phụ tùng cho máy
bay
mà
hầu hết
đều
phải
nhập
của
nước ngoài
hoặc
dù
trong
nước có
sản
xuất
được
thì chi
phí bỏ
ra
để mua đều
rất lớn.
Ví dụ:
Ì
radar
phục
vụ cho
điều
hành bay từ 1-2
triệu
USD, xe đặc
chủng
0,5-4
triệu
USD, xe
tiếp
nhiên
liệu
Ì
triệu
USD
Vì các giá
trị
bảo
hiểm
của các
đối
tượng
rất lớn
nếu xảy
ra tai
nẫn
thì hậu quả khôn
lường.
Trên
thực
tế,
các
tai
nẫn máy bay vẫn xảy
ra
dù là
rất
ít,
so
với
những
tai
nẫn các phương
tiện
giao
thông cơ
giới
khác,
nhưng
hậu
quả để
lẫi
rất lớn
và thương
tâm;
mà gần đây liên
tiếp
xảy
ra
các vụ
tai
nẫn
máy bay trên
thế
giới
để
lẫi
hậu quả là
thiệt
hẫi
toàn bộ về
người
và
của, ví dụ như:
các
vụ
tai
nẫn
máy
bay gần
đây
xảy ra
tẫi
Nga
(1/9)
làm 129
người
bị thiêt mẫng,
chiếc
máy bay
trượt
khỏi
đường băng
tẫi
Mỹ không
những
gây
thiệt
hẫi đối với
cả máy bay mà còn gây
tổn thất
về cơ
sở
hẫ
tầng
và gây
thiệt
hẫi
về tính
mẫng
cho
những
người
dưới
mặt
đất
Như
vậy,
số
tiền
bồi
thường mà bảo
hiểm
phải
bỏ
ra là rất lớn
lên
tới
hàng
tỷ
USD.
Hơn
nữa,
hành khách
tham
gia
các
chuyến
bay thường mang
quốc
tịch
khác
nhau,
với
mức
thu
nhập
khác
nhau
và là
đối
tượng
điều
chỉnh
của
nhiều
luật
khác
nhau.
Do
vậy, khi
có
tổn thất
xảy
ra
mà đặc
biệt
là các
tổn thất
liên
quan
đến
hàng không
thì
vấn đề này cần
phải
được lưu ý thích
đáng,
có như
vậy
mới tẫo
điều
kiện
cho
việc
giải
quyết
hậu quả một cách
nhanh
chóng.
Hai
là,
bảo
hiểm
hàng không góp
phần
đảm bảo an toàn cho xã
hội
và ổn định ngân sách nhà
nước.
Bảo
hiểm
hàng không không có ý
nghĩa
là chỉ
đơn
thuần
đảm bảo an
toàn cho bản thân
người
kinh
doanh
mà còn vì sự an toàn xã
hội.
Vì phí bảo
hiểm
hàng không cùng các
loẫi
phí bảo
hiểm
khác được
tập
trung
vào cơ
quan
bảo
hiểm
hình thành quỹ
tập
trung
lớn
có khả năng
bồi
thường kịp
thời
cho
người
được bảo
hiểm
mà ngân sách nhà nước không
phải
cấp
kinh
phí để
tham
gia
giải
quyết.
19