Tuyển tập Hội nghị Nấm học Toàn quốc lần thứ 4
doi: 10.15625/vap.2022.0141
NGHIÊN CỨU NẤM LỚN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
TỪ NĂM 2007-2022
Đỗ Tấn Khang1, Lê Vĩnh Thúc2, Trần Văn Bé Năm1, Trần Nhân Dũng1*
Viện Nghiên cứu & Phát triển Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Cần Thơ
2
Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
* Email:
1
TÓM TẮT
Hoạt động nghiên cứu nấm lớn ở Trường Đại học Cần Thơ (ĐHCT) còn khá non trẻ so với các trung
tâm nghiên cứu nấm ở Việt Nam. Nghiên cứu định danh giống/loài nấm dựa trên biện pháp sinh học phân tử
kết hợp hình thái truyền thống là thế mạnh của ĐHCT. Các công nghệ sản xuất các loại nấm ăn và nấm dược
liệu phổ biến đã được nghiên cứu, trong đó nấm Rơm được nghiên cứu phát triển mạnh về hướng kinh tế. Cụ
thể, các quy trình sản xuất meo nấm Rơm, quy trình sản xuất nấm trong nhà cũng như ngoài đồng rất nổi bật,
đồng thời quy trình sản xuất các loài nấm khác như nấm Linh chi, nấm Bào ngư, nấm Cordyceps militaris,
nấm Chân dài, nấm Vân chi, nấm Mèo đã được xác lập và chuyển giao cho công ty, nông dân,… Các cơ chất:
rơm rạ, mùn cưa cao su, bã mía, mụn dừa, bông vải phế liệu, vỏ trái thốt nốt, bồn bồn phế liệu, lõi bắp,… đã
được nghiên cứu và có thể được triển khai nuôi trồng các loại nấm. Còn nhiều loại nấm tự nhiên mới phát
hiện từ vùng núi Thất Sơn, tỉnh An Giang chưa được phổ biến đến người dân như: nấm Tuyết (Tremella
fuciformis), nấm Dai (Lentinus squarosolus), nấm Ngân nhĩ đỏ da cam (Tremella cinnabarina), nấm Tràm
(Tylopilus felleus), nấm Lie da cam mỏng (Pycnoporus sanguineus), nấm Linh chi da trâu (Amauroderma
subresinosum), nấm Linh chi tầng (Ganoderma apllanatum), nấm Linh chi đen (Amauroderma niger), nấm
Thượng hoàng (Phellenus sp.),… cần được nghiên cứu thêm. Các công tác lai tạo chủng nấm, nghiên cứu
phân tử và nghiên cứu sâu về sâu bệnh trên nấm sẽ được triển khai trong thời gian tới.
Từ khóa: Nấm ăn và nấm dược liệu, hiệu quả kinh tế nấm rơm, canh tác nấm, chuyển giao công nghệ,
định danh phân tử.
1. MỞ ĐẦU
Ngành nuôi trồng nấm tại Việt Nam bắt đầu xuất hiện và hình thành vào khoảng những năm
1930 - 1940 cho đến những năm 1970. Năm 1984, Trung tâm Nghiên cứu Nấm ăn được thành lập
thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đến năm 1985 - 1986, tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc
(FAO) tài trợ UBND TP. Hà Nội và TP. Hờ Chí Minh thành lập Trung tâm Sản x́t giớng nấm
Tương Mai - Hà Nợi và Xí nghiệp Nấm TP. Hồ Chí Minh. Đồng thời, lúc này một loạt các đơn vị
sản xuất và thương mại nấm hình thành [1]. Sau đó, các trung tâm nghiên cứu nấm ở Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Lâm Đồng không ngừng phát triển.
Khoảng năm 1978, Tổ Vi sinh thuộc Bộ môn Thực vật, Khoa Khoa học, Trường Đại học Cần
Thơ (tiền thân của Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ sinh học ngày nay) có sản xuất meo
nấm rơm và meo nấm mèo cung cấp cho nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) trong
một thời gian [2]. Tuy nhiên, sau năm 1985, việc sản xuất và nghiên cứu này tạm ngưng mãi đến
năm 2007, công tác nghiên cứu nấm ăn, nấm dược liệu tại Trường Đại học Cần Thơ mới hoạt động
lại tại Khoa Nông nghiệp và Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học (Viện NC
PTCNSH). Đến năm 2017, một đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ cấp quốc gia,
119
Đỗ Tấn Khang và cs.
Chương trình Tây Nam Bộ “Cải thiện chuỗi giá trị nấm rơm ở ĐBSCL” được thực hiện tại Trường
Đại học Cần Thơ do PGS.TS. Võ Thành Danh chủ trì mà thành viên là các nhà khoa học ở Khoa
Kinh tế, Khoa Nông nghiệp và Viện NC PTCNSH [3]. Chúng ta tìm hiểu lại thành tựu những
nghiên cứu nấm ăn và nấm dược liệu tại Trường Đại học Cần Thơ, nằm trong bối cảnh hiện nay,
nhu cầu sản xuất và tiêu thụ nấm ăn và nấm dược liệu rất to lớn ở ĐBSCL.
2. THÀNH TỰU
2.1. Định danh các loại nấm dựa trên trình tự ITS (internal transcribed spacer)
Ở ĐBSCL có rất nhiều loại nấm mọc tự nhiên chưa được phát hiện, phân lập, định danh, nuôi
trồng và khai thác hết giá trị của chúng [4, 5], trong đó công tác định danh là việc rất cần thiết.
Việc áp dụng phương pháp đánh dấu phân tử (molecular marker) ở mức đợ DNA kết hợp với
những đặc điểm hình thái của phương pháp truyền thống [6, 7] để nhận diện, định danh các chi/loài
nấm có nhiều triển vọng. Vùng trình tự ITS1-5,8S-ITS2 của DNA ribosomes nhân tách chiết từ
khuẩn ty của nấm được khuếch đại bằng kỹ thuật PCR với cặp mồi chung là ITS1 và ITS4 [8, 9],
sau đó dùng phần mềm BLAST (Basic Local Alignment Search Tool) so sánh trên cơ sở dữ liệu
trên Ngân hàng NCBI (National Center for Biotechnology Information) để xác định loài. Có thể sử
dụng phần mềm PAUP 4.0 hoặc phần mềm Mega version ≥ 6 kết hợp phần mềm Bioedit version ≥
6 để xây dựng giản đồ phả hệ. Phương pháp nghiên cứu này đã cung cấp nền tảng cho việc xác
định nhanh và chính xác các chi/loài nấm cũng như sự đa dạng di truyền của các chủng (dòng) nấm
[10].
Đầu tiên, một kết quả nghiên cứu định danh các loài nấm dựa trên biện pháp sinh học phân tử
và hình thái nấm đã xác định: các dịng nấm rơm đều tḥc lồi Volvariella volvaceae, các dịng
nấm bào ngư trắng đều tḥc lồi Pleurotus floridanus, các dịng nấm bào ngư Nhật tḥc lồi
Pleurotus cystidiosus, dịng nấm bào ngư xám tḥc lồi Pleurotus pulmonarius, hai dịng nấm dai
tḥc lồi Lentinus squarrosulus, hai dịng nấm kim châm tḥc lồi Flammulina velutipes, dịng
nấm trân châu tḥc lồi Agrocybe aegerita, dịng nấm mèo tḥc lồi Auricularia polytricha. Bớn
dịng nấm Linh chi tḥc ba lồi: Ganoderma tropicum, Ganoderma lucidum, Ganoderma
gibbosum. Giản đồ phả hệ cũng cho thấy mức tương quan di truyền giữa các loài nấm khảo sát có
mức gắn bó boostrap cao, có thể kết luận các lồi này có ng̀n gớc rất gần nhau [11]. Sau nghiên
cứu này, công tác giải trình tự ITS, đăng ký mã số truy cập (Accession number) các chủng nấm và
sinh vật khác như các cây ăn trái, chó Phú Quốc, giun đất, cá, vi sinh vật,… đã trở thành những
nghiên cứu phổ biến & thường xuyên ở Trường Đại học Cần Thơ [10, 12].
2.2. Kinh tế sản xuất nấm rơm
Trong khuôn khổ chương trình Tây Nam Bộ “Cải thiện chuỗi giá trị nấm rơm ở Đồng bằng
Sông Cửu Long” (Chương trình nấm rơm Tây Nam Bộ) do PGS.TS. Võ Thành Danh chủ trì. Võ
Thành Danh và cs. (2021) đã nghiên cứu phát hiện nông dân trồng nấm rơm có hiệu quả kinh tế
khá cao. Lợi nhuận bình quân tính cho 1 cuộn rơm là 16,6 ngàn đồng/cuộn, lợi nhuận bình quân
tính cho 1 kg nấm tươi là 14,7 ngàn đồng/kg. Đối với trường hợp tính trên 1 hộ trồng nấm, về hiệu
quả tài chính, lợi nhuận bình quân đạt gần 23 triệu đồng/vụ/hộ tương ứng với tỷ suất lợi nhuận là
37,5 %; về hiệu quả kinh tế, tỷ lệ lãi gộp là 34,4 % và tỷ suất lợi nhuận là 17 % [3].
Kết hợp liên kết, tập trung mô hình trờng nấm rơm hợ gia đình, quy mơ nhỏ, chi phí đầu tư
thấp, trồng nấm rơm giúp sản lượng nấm rơm tăng cao, tăng thu nhập cho nông dân và tận dụng
nguồn rơm phế liệu. Công tác này sẽ có hiệu quả cao khi có ứng dụng khoa học kỹ thuật trồng nấm
120
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
rơm năng suất cao và phẩm chất nấm ngon; kỹ thuật bảo quản, sơ chế nấm rơm thích hợp kèm theo
sự phát triển và đầu tư của các cơ sở sơ chế nấm rơm, công ty chế biến nấm rơm, đóng hộp ở gần
các làng nghề trồng nấm rơm [13]. Chương trình nghiên cứu kinh tế nấm rơm trên đã đánh giá
được hiệu quả kinh tế và mức độ chấp nhận của nông dân đối với các mô hình sản xuất nấm rơm có
triển vọng và đề xuất được chiến lược và kế hoạch phát triển thị trường và nâng cấp chuỗi giá trị
ngành hàng nấm rơm, cũng như đề x́t cơ chế tở chức, chính sách liên kết các vùng sản xuất của
bốn nhà - nhà nông, nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ nấm
rơm [13, 14].
2.3. Kỹ thuật canh tác nấm rơm trong nhà và ngoài trời
Lê Vĩnh Thúc và cs. (2019) [15] đã thiết lập được “Quy trình canh tác nấm rơm trong nhà &
ngoài trời” và chuyển giao cho nông dân rất thiết thực, nhất là những kỹ thuật canh tác nấm rơm
trong nhà chi phí thấp (Hình 1). Quy trình trồng đơn giản rẻ tiền phù hợp với điều kiện canh tác và
khả năng tài chính của nơng dân ở ĐBSCL. Quy trình sản x́t, các thông số chính trong nhà trồng
như sau:
Thời gian ủ tơ, theo dõi nhiệt độ và ẩm độ nhà trồng: Nhiệt độ phù hợp cho tơ nấm là 15 40 oC, nhiệt độ phù hợp cho quả thể là 25 - 30 oC. Ẩm đợ thích hợp cho tơ nấm là 50 - 70 %, giai
đoạn ra quả thể cần ẩm độ 80 - 100 %. Nếu nhiệt độ cao và ẩm đợ thấp thì tiến hành phun sương
nhà trờng. Trong giai đoạn này giá thể không cần ẩm nhiều, nên chỉ phun bên trong nhà trồng,
không cần phun trực tiếp lên giàn. Sau 7 ngày thì tiến hành tưới phun nước nhiều để kích thích tơ
nấm hình thành quả thể. Khi phun nước nên kết hợp với chiếu sáng trong vịng 12 giờ. Điều này
giúp hình thành quả thể đờng loạt. Khi nấm ra quả thể có thể phun 0,05 % sodium acetate (1 L/m2)
giúp nấm phát triển được tốt hơn [15, 16].
Tác dụng phân trùn quế trên nấm rơm: Bổ sung phân hữu cơ khoáng HVP 301.B 10 g hay
bổ sung phân trùn quế 70 g trên 1,5 m mô làm tăng năng suất quả thể: chiều cao, đường kính, khới
lượng của 30 quả thể x́t hiện đầu tiên, trọng lượng trung bình/quả thể, tởng sớ lượng quả thể [12].
Sử dụng phân trùn quế là 1 kỹ thuật rất tốt, thích hợp trong việc sử dụng phân hữu cơ vừa tăng
năng suất, chất lượng nấm rơm vừa bảo vệ môi trường [15, 16].
Phương pháp xếp mô nấm và đốt áo mô: Giúp nấm rơm có năng suất cao hơn. Phương
pháp xếp mô và liều lượng meo giống phù hợp meo 160 g/1,5 m tác dụng làm năng suất nấm rơm
ngồi trời tăng cao hơn ở ĐBSCL. Tởng khới lượng quả thể và số lượng quả thể/1,5 m mô của
phương pháp xếp mô cuộn kết hợp đốt áo mô (2,82 kg và 339,8 quả thể) cao hơn tương ứng so với
chỉ xếp mô cuộn (2,50 kg và 307,0 quả thể) [16, 17].
Bổ sung (phun) sodium acetate CH3COONa: Liều lượng 0,05 % làm tăng năng suất nấm
rơm đến 76,5 % và cho hiệu suất sinh học là 13,3 %. Công tác này làm tăng chiều rộng quả thể
3,40 cm, tăng tổng số lượng quả thể 128 quả thể/m2 và tăng năng suất là 1,59 kg/m2 [18].
2.4. Kỹ thuật sản xuất meo nấm rơm
Đồng thời với nghiên cứu “Canh tác nấm rơm trong nhà và ngoài trời” của Khoa Nông
nghiệp, Viện NC PTCNSH có nghiên cứu kỹ thuật sản xuất meo nấm rơm cũng trong khuôn khổ
chương trình nấm rơm Tây Nam Bộ. Kết quả nghiên cứu này đã được chuyển giao cho Công ty
DASCO ở Đồng Tháp và Công ty Thảo dược HASU ở Hậu Giang. Ngoài ra các kỹ thuật này cũng
được chuyển giao cho Phòng Kinh tế thị xã Ngã Năm, Sóc Trăng kết hợp với kỹ thuật canh tác nấm
rơm trong nhà trồng (Hình 2).
121
Đỗ Tấn Khang và cs.
Hình 1. Kệ trồng nấm bằng tre
Hình 2. Canh tác nấm rơm trong nhà tại thị xã Ngã Năm
Quy trình sản xuất meo nấm rơm: Sản x́t meo giớng là mợt khâu quan trọng của quy
trình trồng nấm rơm. Có thể tóm tắt quy trình gồm 3 giai đoạn (1) Phân lập, trữ giống nấm: Phân
lập giống/chủng nấm từ bào tử hoặc mô thịt trên môi trường PDA thạch, trữ giống trên môi trường
Czapek Dox - CMC. Thử khả năng phân hủy cellulose của các chủng/giống. (2) Tạo meo hạt trên
thóc: Chuyển chủng/dòng nấm phát triển, lan tơ trong môi trường hạt thóc nấu chín. (3) Tạo meo
giống sản xuất: Chuyển môi trường hạt sang môi trường vỏ trấu trong bịch nylon. Đóng túi trấu
bằng túi nylon dày, nén tạo khối căng tròn đều, mỗi túi có trọng lượng khoảng 200 - 300 g. Làm cở
nút bằng cách xoắn trịn miệng túi giớng, xâu lờng vịng cở nhựa xung quanh vịng xoắn nylon, bẻ
ngược miệng túi nylon kéo x́ng bao quanh vịng cở nhựa, ḅc miệng cở lại bằng dây thun. Lấy
mợt lượng bơng gịn vừa đủ với miệng cổ nút môi trường để làm nút đậy kín túi và bọc lại bằng
miếng nylon mỏng. Chuyển túi môi trường vào nồi hấp khử trùng ở 121 oC, 1 atm trong 2 giờ. Cấy
giống từ môi trường hạt, đợi tơ nấm phát triển trong 7 - 8 ngày thì có thể sử dụng để canh tác nuôi
trồng nấm trên mô rơm trong nhà hoặc ngoài đồng. Quy trình sản xuất meo nấm rơm đã được in
thành dạng sổ tay khuyến nông để phổ biến đến nông dân [14, 19].
Quy trình sản xuất meo nấm và trồng nấm rơm trên đã được chấp nhận đơn đăng ký bằng sáng
chế của Cục Sở hữu trí tuệ và quy trình phân lập 16 chủng nấm rơm (có AC number của NCBI) đã
được chấp nhận đơn đăng ký sở hữu trí tuệ, Đại học Quốc gia TP. HCM là đơn vị phụ trách.
3a
3b
Hình 3a. Không có hiện tượng lai
- khuẩn ty nằm rời nhau
122
Hình 3b. Có hiện tượng lai khuẩn ty
đan xen vào nhau
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
Hình 4a. Dụng cụ thu bào tử
nấm rơm
Hình 4b. Bào tử nấm rơm SEM
Hình 4c. Bào tử nấm C. militaris
SEM
Trồng nấm rơm trên cơ chất khác: Các cơ chất khác như phế phẩm bèo lục bình khô (bèo
Nhật Bản, Eichhornia crassipes Solms), lá chuối khô mục, bồn bồn phế liệu, bông vải phế liệu,
mụn dừa, mùn cưa cao su,… được canh tác nấm rơm trong mùa mưa ở Cần Thơ. Những cơ chất
này có thể trồng được nấm rơm nhưng năng suất quả thể không cao như các công bố hay thông tin
trên báo chí phổ thông. Những nghiên cứu này cần phải lập lại trên các mùa vụ khác nhau [20, 21].
Lai tạo chủng nấm rơm mới: Trong nuôi trồng nấm rơm Volvariella volvacea (Bull.) Singer,
vai trò của giống nấm quan trọng nhất nhờ chủ yếu vào tiềm năng cho quả thể năng suất cao, chất
lượng tốt cũng như đặc tính kháng sâu bệnh trong cơ chất, mặc dầu kỹ thuật canh tác, điều kiện khí
hậu và chất lượng cơ chất cũng đóng vai trò quan trọng [22]. Chọn giống nấm bằng phương pháp
lai tạo là 1 phương pháp triển vọng để có những giống/dòng nấm năng suất cao chất lượng tốt [23].
Công tác phân lập dòng/giống nấm bằng bào tử là 1 khâu trong công tác lai tạo giống nấm rơm
(Hình 4a, 4b). Trần Thị Xuân Lan và cs. (2020) khởi đầu nghiên cứu lai tạo các chủng nấm rơm
đen chất lượng ngon và nấm rơm trắng chất lượng kém. Nấm rơm đen đậm không được người dân
ưa chuộng, nấm rơm trắng ít đen hơn, đẹp màu hơn nhưng chất lượng không bằng. Kết quả bước
đầu đã tạo được 14 tở hợp lai có hiện tượng lai chéo trên môi trường PDA (Hình 3a, 3b). Thực hiện
thí nghiệm kiểm tra tớc đợ sinh trưởng trên mơi trường PDA và khả năng phân giải cellulose trên
môi trường CMC đã chọn ra 05 tở hợp có kết quả cao nhất là A1B4, A2B1, A3B5, A4B4, A5B5.
Sau khi trồng thử nghiệm trong nhà trờng có 03 chủng nấm lai cho quả thể là A1B4, A2B1 và
A5B5 với năng suất lần lượt là 460,93 g, 416,41 g và 385,20 g trên 6 kg chất khô rơm. Kết hợp với
kết quả giải trình tự 02 chủng nấm mới có tiềm năng là A1B4 và A2B1 cho thấy chúng đều thuộc
loài Volvariella volvacea. Hai chủng nấm này có năng suất tương đối cao và màu sắc sáng đẹp so
với các chủng nấm ban đầu [24]. Mặc dầu nghiên cứu chưa có kết quả hoàn hảo, nhưng bước đầu
đã xác lập được phương pháp lai tạo mới thực hiện tại phòng thí nghiệm Viện, là cơ sở cho những
nghiên cứu lai tạo nhiều giống/chủng nấm sau này.
2.5. Nấm Cordyceps militaris
Nấm Cordyceps militaris là mợt lồi nấm ký sinh trên cơn trùng có giá trị dược liệu quý, có
khả năng sinh trưởng và phát triển dễ dàng trên môi trường nhân tạo, nhiều nghiên cứu đã nuôi
trồng thành công trong cả môi trường lỏng và rắn giàu nguồn carbon và nitrogen [25].
123
Đỗ Tấn Khang và cs.
Khoa Nông nghiệp đã nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng đến sự phát triển của nấm
Cordyceps militaris, chọn lựa tối ưu hóa môi trường sản xuất tạo quả thể và sản sinh hàm lượng
cordycepin cao. Các tác giả đã sử dụng gạo trắng (ST20) có chứa hàm lượng protein cao kết hợp bở
sung các thành phần 3 % glucose, 1 % yeast extract, 1 % peptone, 0,01 % kitin và vitamin B1, B12
cho quả thể nấm đạt từ 5,82 đến 7,94 cm sau 60 ngày nuôi trồng. Trọng lượng quả thể nấm tươi đạt
trung bình tương đương với 16,52 ± 0,09 g, hàm lượng cordycepin của quả thể là 5,56 mg/g [26].
Nhóm nghiên cứu nấm của Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học, Trường Đại
học Cần Thơ cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về C. militaris. Bào tử C. militaris đã được sử
dụng để phân lập, giữ giống (Hình 4c) và phục tráng giống chung với nhộng tằm. Về môi trường
nuôi cấy, song song với peptone có thể sử dụng tryptone cùng gạo lức tím than bổ sung thêm 9 %
nhợng xay và 100 mL/L khống vi lượng là công thức tối ưu để nuôi trồng nấm C. militaris. Ngoài
ra có thể bổ sung sữa tiệt trùng Flex không lactose với hàm lượng 9 % kết hợp 100 mL/L khống vi
lượng là ng̀n dinh dưỡng mới có khả năng sử dụng trong nuôi trồng nấm [27]. Nhóm nghiên cứu
còn công bố có thể nuôi trồng tốt nguồn dinh dưỡng từ sữa tươi tiệt trùng không đường TH True
Milk được bổ sung ở tỷ lệ 9 % và 45 g/L gạo lức không nhộng tằm và chiếu sáng bằng đèn huỳnh
quang hoặc đèn led điều cho kết quả nuôi trồng tốt C. militaris. Chiều dài quả thể nấm là 5,31 ±
0,12 cm, khối lượng khô quả thể 2,906 ± 0,00 g, hàm lượng polysaccharide 5,473 ± 0,04 %,
Adenosine 15,1 mg/kg, cordicepine 1.781,3 mg/kg [27, 28]. Các công thức sử dụng các loại sữa tự
nhiên giúp các nhà sản xuất có thể sử dụng các quy trình này để nuôi trồng, sản xuất C. militaris
(nhân tố thực vật) sử dụng cho mục đích từ thiện cho người ăn chay vì không dùng nhộng tằm
(nhân tố động vật). Công nghệ này đã được chuyển giao cho nhiều cơ sở sản xuất C. militaris nhỏ
rải rác ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ, Tiền Giang, Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An
Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau. Các cơ sở này
luôn luôn có thành viên là sinh viên hay cộng tác viên đã được đào tạo từ Trường ĐHCT. Công
nghệ nuôi trồng C. militaris dần dần phổ biến ở ĐBSCL. Ngày nay số lượng của C. militaris ở
ĐBSCL nhiều và giá thành rẻ hơn 5 năm trước nhiều.
2.6. Nấm Linh chi (Ganoderma spp.)
Nấm Linh chi: (Linzhi (reishi) mushroom, Ganoderma spp.) là một trong những loại nấm
dược liệu quý. Linh chi có tác dụng an thần, làm giảm hưng phấn của thần kinh trung ương, giảm
đau, bảo vệ gan, giải độc, bảo vệ gan, hạ đường huyết, thải trừ chất phóng xạ, cường tim, hạ huyết
áp, làm giảm cholesterol trong máu, chống vữa, xơ động mạch, giúp cho cơ tim chịu được trạng
thái thiếu máu. Polysaccharide trong Linh chi chỉ có tác dụng ức chế tế bào ung thư, tăng miễn dịch
cho cơ thể. Chất germanium của Linh chi giúp khí huyết lưu thông, acid ganoderic có tác dụng
chống viêm chống dị ứng [6, 29]. Cơ chất được sử dụng nuôi trồng nấm Linh chi (Ganoderma
lucidum) là mùn cưa cao su hoặc bã mía. Năng śt trung bình quả thể nấm trên cơ chất mùn cưa
cao su (47,3 g/350 g cơ chất khô) cao hơn bã mía (36,6 g/350 g cơ chất khô). Công thức phối trộn
được chọn là cơ chất bã mía được xử lý với 3 % nước vôi và bổ sung 4 % cám gạo với thời gian thu
hoạch quả thể sớm (75 - 96 ngày), năng suất cao (51,0 g/350 g cơ chất khô), chất lượng quả thể tốt
(hàm lượng đạm tổng/trọng lượng khô: 3,20 %, hàm lượng tro tổng/trọng lượng khô: 0,21 %), MIC
(Minimum Inhibitory Concentration) = Nồng độ ức chế tối thiểu đối với vi khuẩn Staphylococcus
aureus ATCC 29213 là 12 µg/mL [30].
Nấm Linh chi tầng (Ganoderma applanatum): Hồ Thị Thu Ba và cs. (2017) phát hiện được
nấm Linh chi tầng (Ganoderma applanatum) ở xã An Hảo, Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Môi trường
nhân giống cấp 1 tốt nhất là rapper (cao nấm men 2 g, pepton 2 g, KH2PO4 0,46 g, K2HPO4 1 g,
124
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
MgSO4.7H2O 0,5 g, agar 20 g, glucose 20g, nước cất đủ 1000 mL), trong 4 ngày tơ lan đầy ống
nghiệm; môi trường gạo lức là môi trường nhân giống cấp 2 tối ưu trong 11 ngày trên bình ni
cấy; mơi trường tạo quả thể thích hợp nhất là môi trường 90 % mùn cưa cao su + 5 % cám + 5 %
bột bắp trong 25 ngày. Thu quả thể sau 55 ngày tơ ăn trắng bịch và hiệu suất sinh học đạt 0,94 %.
Xác định hàm lượng polysaccharide và triterpenoid trong nấm nhận thấy quy trình ni trồng đã
xây dựng không ảnh hưởng tới hàm lượng 2 chất này trong quả thể [31]. Công trình này là kết quả
hợp tác giữa Trường Đại học An Giang và Trường Đại học Cần Thơ [31, 32].
Hình 5. Nấm Linh chi tầng Ganoderma applanatum [46] Hình 6. Nấm lie đỏ Pycnoporus sanguineus [48]
Nấm Vân chi đỏ: Còn gọi nấm Lie đỏ, turkey tail mushroom, Pycnoporus sanguineus (L.:
Fr.) Murrill (Syn Trametes sanguinea (L.) Lloyd), là nấm hóa gỗ có nhiều đặc tính giống nấm Linh
chi, thường mọc ở trên thân gỗ mục. Cơ chất nấm Vân chi đỏ là mùn cưa cao su. Nguyễn Diễm My
và cs. (2019) canh tác nấm Vân chi đỏ, sau môi trường hạt thêm môi trường cọng khoai mì bổ sung
mùn cưa 10 % hoặc cọng khoai mì bổ sung 5 % cám gạo + 5 % cám bắp cho lan tơ tốt nhất. Môi
trường bịch phôi sử dụng cơ chất mùn cưa cao su là tốt nhất. Mùn cưa cao su thêm cám gạo, bột
bắp làm gia tăng tỉ lệ lây nhiễm nấm lạ [33]. Trần Đức Tường và cs. (2017) thay thế mùn cưa
cao su bằng 60 % vỏ cây tràm hoặc 50 % vỏ trấu + 50 % cùi bắp xay vẫn cho năng suất quả thể
tốt [34, 35].
Ly trích các hợp chất polysaccharide: Polysaccharide là mợt trong những hợp chất có hoạt
tính sinh học quan trọng của nấm Linh chi (Ganoderma lucidum). Các hoạt tính này bao gờm kích
thích hệ miễn dịch, bảo vệ gan, hạ huyết áp, chống ung thư, kháng oxy hóa,… Do đó, hiệu suất ly
trích các hợp chất polysaccharide từ nấm Linh chi bằng nhiều phương pháp khác nhau ngày càng
được quan tâm nghiên cứu. Nhóm nghiên cứu đã xác định được loại dung môi phù hợp để ly trích
polysaccharide từ nấm Linh chi đờng thời tới ưu hóa nhiệt đợ và thời gian ly trích để đạt được hiệu
suất và khả năng kháng oxy hóa cao. Trong thí nghiệm ly trích polysaccharide, các điều kiện ly
trích polysaccharide được tối ưu hóa bằng phương pháp đáp ứng bề mặt. Các nhân tố được lựa
chọn để tối ưu bao gờm: dung mơi, nhiệt đợ và thời gian ly trích. Từ kết quả thí nghiệm đã xác
được các điều kiện tối ưu như sau: dung môi là NaOH 1M, nhiệt đợ ly trích 60,90 oC và thời gian ly
trích là 73,64 phút. Kết hợp với các điều kiện cố định là tỉ lệ (v/w) 1:20, đánh sóng siêu âm ở cơng
śt 300 W, 30 phút, thì hiệu śt ly trích và khả năng khử DPPH lần lượt đạt 9,2995 ± 0,32 % và
86,15 ± 0,65 %. Dịch trích polysaccharide thơ sau khi ly trích từ các điều kiện tới ưu có hoạt tính
kháng oxy được xác định bằng phương pháp khử gốc tự do DPPH với giá trị IC50 là 1,94 mg/mL.
Các kết quả này đã cung cấp những dẫn liệu quan trọng nhằm tạo tiền đề để xây dựng quy trình ly
trích polysaccharide trên quy mơ lớn sau này [36].
125
Đỗ Tấn Khang và cs.
2.7. Nấm bào ngư (Pleurotus spp.)
Nấm bào ngư Pleurotus spp. (oyster mushroom) là loại nấm ăn phổ biến và mang lại nhiều giá
trị ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đây là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng: đạm, đường,
protein, acid amin, vitamin và khoáng. Theo Chang & Miles (2004), trong nấm bào trắng có chứa
các hợp chất có khả năng kháng bệnh ung thư. Loại nấm này có tính thích nghi rợng và có thể trờng
được trên các loại phế phẩm cơng - nông nghiệp khác nhau: bông vải, mùn cưa cao su, thân bắp, bã
mía, mụn dừa, rơm rạ,… [37, 38].
Nấm bào ngư trắng (Pleurotus florida): Mùn cưa cao su, bã mía và mụn dừa có thể làm giá
thể nuôi trồng nấm bào ngư trắng (Pleurotus florida). tơ nấm phát triển tốt và cho năng suất đợt 1
cao trên cơ chất là mùn cưa cao su (76,7 g/250 g cơ chất khô = 30,68 % BE (Biological efficiency)
tiếp đến là bã mía (67,63 g/250 g cơ chất khô = 27,05 % BE) và thấp nhất là mụn dừa (16,85/250 g
cơ chất khô = 6,74% BE). Tùy khả năng có thể bổ sung cám bắp, cám gạo và bột đậu nành. Các cơ
chất này nên xử lý với 3 % nước vôi. Bã mía cần bổ sung 4 % cám gạo + 4 % cám bắp. Mùn cưa
cao su cần bổ sung bột đậu nành 6,4 % và cám bắp 7,7 %, mụn dừa cần bổ sung bột đậu nành
11,1 %. So với bã mía và mụn dừa thì mùn cưa cao su giúp tơ nấm lan nhanh hơn, do dinh dưỡng
trong mùn cưa cao su dễ được nấm sử dụng do chứa nhiều cellulose, ít hemicellulose và lignin,
đờng thời cấu trúc của mùn cưa là tơi xớp, đợ thống khí nhiều nên trong quá trình ủ nguyên liệu hệ
enzymes cellulase, hemicellulase, laccase của xạ khuẩn, vi khuẩn kỵ khí,... dễ tiếp xúc và phân cắt
cellulose, lignin, hemicellulase thành phân tử đường đơn giản. Khả năng giữ ẩm của mùn cưa cao
su khá tớt nên trong q trình ủ, nhiệt đợ và đợ ẩm khơng khí của nhà trờng thay đởi khơng làm ảnh
hưởng nhiều đến độ ẩm của cơ chất [39]. Ngoài ra vỏ trái thớt nớt có thể thay thế mùn cưa cao su
khi bổ sung bột bắp và cám gạo ở mức 5 % để trồng nấm bào ngư trắng, cơ chất này cho năng suất
và hàm lượng đạm khá cao. Người dân có thể tận dụng triệt để các sản phẩm phụ từ cây thốt nốt,
tạo ra việc làm, mang lại thu nhập đáng kể cho nông dân đồng thời cũng giúp giảm ô nhiễm môi
trường [40].
Nấm Chân dài: Nấm Chân dài có tên tiếng Anh là big cup mushroom (nấm cốc lớn) tên khoa
học là Pleurotus giganteus (Berk.) Karunarathna & Hyde (sym. Lentinus giganteus Berk and Panus
giganteus (Berk.) Corner), là lồi nấm ăn quý mới có ng̀n gớc Thái Lan & Malaysia [41, 42].
Nấm Chân dài có thể được trờng trên mợt sớ ng̀n ngun liệu có sẵn ở ĐBSCL: mùn cưa cao su,
mụn dừa, bã mía và rơm. Nấm được phân lập trên môi trường Mizuno, PDA và PDA có bở sung
20 % nước dừa. Mơi trường hạt bao gồm hạt gạo lức, hạt bắp và hạt lúa kết hợp với dinh dưỡng bổ
sung là 3 % cám gạo, 3 % bột bắp và 1 % vôi bột. Cơ chất trồng quả thể là mạt cưa cao su, mụn
dừa, bã mía và rơm được phối trộn theo các tỉ lệ khác nhau. Tơ nấm lan nhanh nhất trên môi trường
phân lập Mizuno (7,95 cm) so với môi trường PDA (6,18 cm) và PDA bổ sung 20 % nước dừa
(7,71 cm) ở ngày thứ 10. Đối với môi trường hạt, tơ nấm phát triển tốt nhất trên môi trường hạt gạo
lức (12,20 cm), tiếp đến là hạt bắp (11,77 cm) và hạt lúa (8,70 cm) sau 24 ngày. Năng suất nấm cao
nhất đối với cơ chất trồng nấm là 70 % bã mía bở sung 30 % rơm (127,92 g nấm tươi/bịch (400 g
nguyên liệu), hiệu suất sinh học đạt 79,75 %), tiếp theo là 100 % bã mía (123,16 g/bịch, hiệu suất
sinh học đạt 76,98 %). Tuy nhiên, hàm lượng polysaccharide giữa các thí nghiệm khác biệt không
có ý nghĩa thống kê ở mức 5 %. Lúc sắp ra quả thể phải phủ 1 lớp cát nền hoặc đất thịt mịn. Hương
vị nấm chân dài có nhiều đặc điểm giống bào ngư trắng và xám nhưng thơm hơn, giòn hơn khơng
dai như nấm bào ngư [43].
Nấm Hồng kim (Pleurotus citrinopileatus SINGER): vừa là thức ăn bồi bổ sức khỏe vừa là
dược phẩm. Nguyễn Hoàng Thạnh là học viên cao học Khoa Nông nghiệp (2016) đã nghiên cứu
126
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
tìm ra các loại môi trường nhân giống và loại cơ chất phù hợp để trồng nấm Hoàng kim cho năng
suất cao, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí đồng thời đảm bảo chất lượng quả thể. Kết quả
nghiên cứu môi trường thạch cho thấy môi trường Potato Dextrose Agar (PDA) bở sung ḿi
khống (PDA-MK) là cho tơ lan kín đĩa sớm nhất (kín đĩa 9 cm trong vòng 8 ngày, tốc độ 0,95
cm/ngày), sợi tơ tốt, dày, phân nhánh nhiều hơn so với các môi trường PDA và PDA bổ sung nước
dừa. Ở môi trường các loại hạt, qua kết quả nghiên cứu trên 3 môi trường: hạt lúa, hạt gạo và hạt
bắp, thì môi trường hạt bắp có tớc đợ lan tơ cao nhất (0,53 cm/ngày), đầy kín ớng nghiệm 20 cm
trung bình 18,6 ngày. Kết quả nghiên cứu trên cơ chất trồng nấm để thu quả thể: (1) Tốc độ lan tơ:
nghiệm thức rơm phối trộn bột bắp (bột bắp 11,6 %) đạt tốc độ lan tơ nhanh nhất (17,77 cm ở giai
đoạn 30 NSC); (2) Năng suất nấm tươi trên bịch phôi: nghiệm thức rơm phối trộn bột bắp (bột bắp
11,6 %) (156 g/bịch) [44].
2.8. Vai trò vi khuẩn sợi trong sản xuất nấm
Vi khuẩn sợi (actinobacteria) phân giải cellulose bao gồm các dịng hiếu kí, kị khí, ưa ấm và
chịu nhiệt, sinh sống ở nhiều môi trường khác nhau nhưng nhìn chung đều có khả năng tởng hợp hệ
enzyme cellulase [40]. Việc ứng dụng các dịng vi kh̉n sợi có khả năng phân giải cellulose để
chuyển hóa các thành phần cấu tạo của cơ chất thành nguồn dinh dưỡng cho nấm, giúp rút ngắn
thời gian trồng và thu hoạch; đồng thời làm nấm có năng suất cao và thân thiện với môi trường. Sự
hiện diện của các vi khuẩn sợi phân giải cellulose có thể đẩy nhanh q trình phân giải của cơ chất
bằng cách phân giải chất hữu cơ và các tương tác thúc đẩy sự gia tăng N. Tổng hàm lượng N tăng
do sự đờng hóa cấu trúc tế bào, enzyme, hormone,...) [45, 46].
Hình 7. Chủng vi khuẩn sợi DM10 dưới kính hiển vi điện tử quét SEM
Tác dụng vi khuẩn sợi trên các cơ chất: Rơm rạ được dùng làm cơ chất trồng nấm rơm
được xử lý bằng vi khuẩn sợi có kết quả rất tốt. Kết quả sau khi trồng cho thấy có dòng vi khuẩn
sợi Achromobacter sp. giúp tăng năng suất nấm rơm, lên đến 7,35 % (VK XK2) [47]. Tương tự,
Phan Thị Phới canh tác nấm rơm có bổ sung vi khuẩn sợi DM10 Streptomyces coelicoflavus có tác
dụng tăng năng suất quả thể cao hơn khoảng 10 % năng suất nấm rơm không vi khuẩn sợi [21].
Phạm văn Đổng và cs. (2019) sử dụng các cơ chất rơm, bông vải phế liệu, mùn cưa cao su, mụn
dừa, bèo lục bình, có chủng (dòng) vi khuẩn sợi B6.1 (Streptomyces sp.) làm tăng năng suất quả thể
cao hơn các nghiệm thức không vi sinh khuẩn sợi 5 % [20].
Tác dụng vi khuẩn sợi trên cơ chất bồn bồn trồng nấm rơm: Tác động của vi khuẩn sợi
lên năng suất nấm canh tác trên cơ chất bồn bồn không rõ rệt như cơ chất rơm, tuy nhiên nó giúp
giảm hẳn lượng vi sinh vật nhiễm vào mô nấm. Điều này cũng giống như nghiên cứu của
127
Đỗ Tấn Khang và cs.
Payapanon và cs. (2011). Sự đối kháng của những vi khuẩn này đối với mầm bệnh thực vật rất rõ
rệt, chúng đều ức chế các loại nấm lạ thường hay nhiễm trong cơ chất trồng nấm rơm [21, 48, 49].
Tác dụng vi khuẩn sợi trên nấm Linh chi cơ chất bã mía: Dòng vi khuẩn
Stenotrophomonas maltophila và Chryseobacterium sp, làm tăng năng suất quả thể nấm Linh chi
khá cao (7,5 - 8,0 %) [50].
2.9. Các loại nấm khác
Nhiều loại nấm khác như: nấm Mèo (Wood-Ear Mushroom, Auricularia spp.), nấm Hầu thủ
(monkey head, lion's mane, Hericium erinaceus), nấm Hoàng đế (milky mushroom, Calocybe
indica), nấm Đùi gà (king oyster mushrooms, Pleurotus eryngii DC.), nấm Hương (Shiitake
mushroom, Letinula edodes),… đã được nghiên cứu tại Viện NCPTCNSH nhưng chưa được phổ
biến rộng rãi. Nấm Hương còn đang được thử trồng trong điều kiện nhiệt độ ở ĐBSCL 32 oC.
Riêng nấm Mối tự nhiên (Termitomyces clypeatus) tuy chưa được nuôi trồng thành quả thể nhưng
đã được phân lập và nuôi cấy dạng lỏng rất hữu hiệu, Nguyễn Thị Ngọc Nhi và cs. (2016) [51] có
thể sản xuất thành dạng thực phẩm chức năng có hàm lượng dinh dưỡng cao. TS. Hồ Thị Thu Ba,
được đào tạo từ Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học, đã phát hiện nhiều loài nấm tự
nhiên mới từ vùng núi Thất Sơn như: nấm Tuyết (Tremella fuciformis), nấm Dai (Lentinus
squarosolus), nấm Ngân nhĩ đỏ da cam (Tremella cinnabarina), nấm Tràm (Tylopilus felleus), nấm
Lie da cam mỏng (Pycnoporus sanguineus), nấm Linh chi da trâu (Amauroderma subresinosum),
nấm Linh chi tầng (Ganoderma apllanatum) [52], nấm Linh chi đen (Amauroderma niger), nấm
Thượng hoàng (Phellenus sp.)…, đã xác định độc tính cấp cả năm loại nấm Thượng hoàng, Linh
chi tầng, nấm Dai và nấm Vân chi đều không gây độc tính cấp trên chuột, cũng như xác định thành
phần dinh dưỡng và dược tính rất cao của chúng [32].
3. KẾT LUẬN
Một số nghiên cứu cơ bản về canh tác các loại nấm ăn, nấm dược liệu đã được thực hiện tại
Trường ĐHCT trong đó nấm rơm được nghiên cứu sâu về sản xuất meo nấm, quy trình trồng nấm
rơm trong nhà và ngoài đồng cũng như về triển vọng phát triển kinh tế. Các công tác định danh dựa
trên sinh học phân tử đã được triển khai. Bài tổng kết này được giới hạn ở phạm vi nghiên cứu cơ
bản và chuyển giao, phổ biến những quy trình canh tác nấm ăn, nấm dược liệu phổ biến đến nông
dân và các cơ sở sản xuất nấm ở ĐBSCL mà chưa đề cập đến công nghệ chế biến nấm. Về tương
lai gần, việc lai tạo, chọn giống những loại nấm có giá trị kinh tế và nghiên cứu chuyên sâu về sâu
bệnh trên nấm sẽ được triển khai dựa trên những công nghệ cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Quang Thái (2018). Hiện trạng ngành sản xuất nấm Việt Nam và giới thiệu các giải pháp
công nghệ nhằm giải quyết một số vấn đề tồn tại. Hội thảo Quốc tế “Ứng dụng công nghệ cao
trong nông nghiệp tại Việt Nam” ngày 11/10/2018 Do Viện Ứng dụng Công nghệ - Bộ Khoa
học và Công nghệ tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.
[2]. Trần Phước Đường & Nguyễn Văn Bá (1980). Quy trình sản xuất meo nấm mèo và meo nấm
rơm. Tài liệu lưu hành bộ Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Đạm Sinh học - Trường Đại
học Cần Thơ.
[3]. Võ Thành Danh, Ngô Thị Thanh Trúc, Phạm Thị Gấm Nhung, Nguyễn Hữu Đặng & Trương
Thị Thuý Hằng (2021). Hiệu quả kinh tế sản xuất nấm rơm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp
128
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
chí
Khoa
học
Trường
Đại
/>
học
Cần
Thơ, 57(2),
211-219.
[4]. Trần Thị Kim Hờng, Lê Trọng Thắng, Trương Thanh Tân, Bùi Trường Thọ, Nguyễn Văn Bé
(2017). Sự phân bớ và thành phần lồi nấm lớn tại Khu Bảo tờn thiên nhiên Lung Ngọc
Hồng, tỉnh Hậu Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 2, 96-103.
[5]. Kuhad, R. C., Gupta, R. & Khasa, Y. P. (2011). Microbial cellulases and their industrial
applications.
Enzyme
Research,
2011,
Article
ID
280696,
10
pages.
DOI:10.4061/2011/280696.
[6]. Nguyễn Lân Dũng (2003). Công nghệ nuôi trồng nấm, tập 2. NXB Nông Nghiệp, 2015-2021.
[7]. Trịnh Tam Kiệt (2011). Nấm lớn ở Việt Nam, tập 1. NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ,
Hà Nội, trang 66-80; trang 90-236.
[8]. Han, J. G. & Shin, H. D. (2007). New Record of Xylaria persicaria on Liquidambar Fruits in
Korea. Mycobiology, 35(4), 171-173.
[9]. White, T. J., Burns, T., Lee, S., & Taylor, T. (1990). Amplification and direct sequencing of
fugal ribosomal RNA genes for phylogenetic, In book: PCR Protocols, Publisher: Academic
Press, Inc., 315-322.
[10]. Trần Nhân Dũng (2011). Sổ tay thực hành sinh học phân tử - sách song ngữ. NXB Đại học
Cần Thơ, 129-131.
[11]. Liễu Như Ý & Trần Nhân Dũng (2012). Đa dạng di truyền một số loại nấm ăn dựa trên trình
tự ITS (internal transcribed spacer). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 22b, 18-25.
[12]. Đỗ Tấn Khang, Đặng Thị Quyên, Trần Văn Bé Năm, Nguyễn Văn Lẹ & Trần Nhân Dũng
(2020). Khảo sát trình tự ITS (internal transcribed spacer) của mợt sớ dịng nấm trong tự nhiên
có giá trị cao. Tạp chí Di truyền và Ứng dụng, chuyên san Nấm và Công nghệ sinh học, ISSN:
0886-8566, 5-12.
[13]. Lê Vĩnh Thúc & Ngô Thị Thanh Trúc (2013). Hướng phát triển trồng nấm rơm ở Đồng bằng
sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp. Diễn đàn Khuyến nông và Nông nghiệp chuyên đề
“Phát triển nghề trồng nấm hiệu quả” (Đồng Tháp, ngày 19 tháng 7 năm 2013), trang 117126.
[14]. Võ Thành Danh (2020). Chuỗi giá trị nấm rơm ở Đồng bằng Sông Cửu Long. NXB Đại học
Cần Thơ.
[15]. Lê Vĩnh Thúc (2019). Báo cáo chuyên đề: “Quy trình trờng nấm rơm trong nhà với chi phí
thấp” trong đề tài “Cải thiện chuỗi giá trị nấm rơm ở Đồng bằng Sông Cửu Long” 2017-2020.
[16]. Nguyễn Hồng Huế, Lê Vĩnh Thúc, Trần Ngọc Hữu & Nguyễn Quốc Khương (2020). Hiệu
quả bổ sung phân hữu cơ khoáng và phân trùn quế đến sinh trưởng và năng suất nấm rơm
(Volvariella volvacea) trờng ngồi trời. Tạp chí Khoa học Nơng nghiệp Việt Nam, 18(12),
1077-1083.
[17]. Nguyễn Hửu Q, Nguyễn Hờng H́ & Lê Vĩnh Thúc (2018). Khảo sát phương pháp xếp mô
và liều lượng meo đến sinh trưởng và năng suất nấm rơm (Volvariella volvacea) trong điều
129
Đỗ Tấn Khang và cs.
kiện ngồi trời. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 54 (Số chuyên đề: Nông nghiệp),
98-105.
[18]. Nguyễn Hồng Huế, Nguyễn Bùi Đăng Khoa, Nguyễn Quốc Khương & Lê Vĩnh Thúc (2019).
Ảnh hưởng của liều lượng sodium acetate đến sinh trưởng và năng suất nấm rơm. Tạp chí
Khoa học Cơng nghệ Nơng nghiệp Việt Nam, 11(108), 130-135.
[19]. Trần Nhân Dũng, Đỗ Tấn Khang, Trần Văn Bé Năm & Huỳnh Quốc Nhân (2020). Sổ tay Sản
xuất meo nấm rơm. NXB Đại học Cần Thơ, 36 trang.
[20]. Phạm Văn Đổng, Trần Vĩnh Khá & Trần Nhân Dũng (2019). Ảnh hưởng của các loại cơ chất
lục bình, mùn cưa, bông vải, mụn dừa và vi khuẩn sợi đến sự sinh trưởng và phát triển nấm
rơm (Volvariella volvacea). Tài liệu lưu hành bộ, Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ
sinh học - Trường Đại học Cần Thơ.
[21]. Phan Thị Phới, Nguyễn Thanh Tịnh, Trần Thị Xuân Lan, Trần Văn Bé Năm & Trần Nhân
Dũng (2020). Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ rơm và phụ phẩm bồn bồn lên năng suất nấm rơm
(Volvariella volvacea). Tạp chí Công Thương, 24, 45-50.
[22]. Ahlawat, O. P., Singh, R. & Kumar, S. (2011). Evaluation of Volvariella volvacea strains for
yield and diseases/insect-pests resistance using composted substrate of paddy straw and cotton
mill wastes. Indian J. Microbiol., 51, 200-205.
[23]. Ahlawat, O. P. & Kaur, H. (2020). Evaluation of hybrids and single spore isolates of paddy
straw mushroom Volvariella volvacea (Bull.) Singer for fruiting body yield and nutritional
quality. Journal of Environmental Biology, 41(4), 727-734. DOI:10.22438/jeb/41/4/MRN1255.
[24]. Trần Thị Xuân Lan, Lê Thanh Quang, Trần Văn Bé Năm, Đỗ Tấn Khang & Trần Nhân Dũng
(2020). Lai tạo chủng nấm rơm mới từ hai loại nấm rơm đen và nấm rơm trắng (Volvariella
volvacea). Tạp chí Di truyền và Ứng dụng, chuyên san nấm và công nghệ sinh học, 4, 13-18.
[25]. Shrestha, B., Zhang, W., Zhang, Y. & Liu, X. (2012). The medicinal fungus Cordyceps
militaris: research and development. Mycological Progress, 11, 599-614.
[26]. Trịnh Thị Xuân & Lê Anh Tuấn (2016). Nghiên cứu mơi trường thích hợp cho sản x́t quả
thể nấm dược liệu Cordyceps militaris (Clavicipitaceae: Hypocreales). Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, (CĐ Nông nghiệp 2016), 88-92.
[27]. Nguyễn Tường Vi, Phạm Thị Thùy Dương & Trần Nhân Dũng (2019). Khảo sát sự ảnh hưởng
của nguồn nitrogen, khoáng vi lượng đến sự hình thành quả thể và sinh tởng hợp
polysaccharide của nấm Cordyceps militaris. Tạp chí Di truyền và Ứng dụng (chuyên san
Nấm và Công nghệ sinh học), 1-7.
[28]. Tăng Nguyễn Mai Trinh, Nguyễn Tường Vi & Trần Nhân Dũng (2019). Khảo sát ảnh hưởng
của sữa tươi tiệt trùng không đường TH - true milk, loại ánh sáng đến sự sinh tổng hợp của
nấm Cordyceps militaris. Tạp chí Di truyền và Ứng dụng (chuyên san Nấm và Công nghệ
sinh học), 14-20.
[29]. Suárez-Arroyo, I. J., Loperena-Alvarez, Y., Rosario-Acevedo, R., Martínez-Montemayor, M.
M. (2017). Ganoderma spp.: A promising adjuvant treatment for breast cancer. Medicines
(Basel), 4(1), 15. DOI: 10.3390/medicines 4010015.
130
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
[30]. Trần Nhân Dũng, Bùi Thị Mỹ Hương, Trần Văn Bé Năm và Đỗ Tấn Khang (2019). Khảo sát
năng suất và chất lượng của nấm Linh chi (Ganoderma lucidum) trên bã mía và mạt cưa cao
su có bở sung dinh dưỡng. Tạp chí Di truyền và Ứng dụng (chuyên san Nấm và Công nghệ
sinh học), 88-93.
[31]. Hồ Thị Thu Ba, Trần Nhân Dũng, Trịnh Tam Kiệt, Trương Trần Thuận (2017). Kết quả nuôi
trồng nấm Linh chi tầng Ganoderma applanatum phát hiện ở Tịnh Biên, An Giang. Tạp chí
Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 102105.
[32]. Hồ Thị Thu Ba (2019). Thu thập, tuyển chọn và nghiên cứu quy trình nuôi trồng hai loại nấm
ăn và nấm dược liệu hoang dại ở vùng Thất Sơn, An Giang. Luận án Tiến sĩ Công nghệ Sinh
học, Trường Đại học Cần Thơ.
[33]. Nguyễn Diễm My, Đỗ Tấn Khang, Nguyễn Phạm Anh Thi & Trần Nhân Dũng (2019). Khảo
sát môi trường nuôi cấy nấm vân chi đỏ (Trametes sanguinea (L.) Imazeki). Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 55(2), 158-165.
[34]. Trần Đức Tường, Võ Thị Thu Duyên, Dương Xuân Chữ & Bùi Thị Minh Diệu (2019). Hiệu
quả của thay thế mùn cưa cây cao su bằng vỏ tràm trong nuôi trồng nấm vân chi đỏ
(Pycnoporus sanguineus (L.: Fr.) Murrill). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 55(2),
74-80.
[35]. Trần Đức Tường, Dương Xuân Chữ & Bùi Thị Minh Diệu (2017). Hiệu quả thay thế mùn cưa
cây cao su bằng cùi bắp để trồng nấm vân chi đỏ (Pycnoporus sanguineus). Tạp chí Khoa học
Cơng nghệ Nông nghiệp Việt Nam, 12(85), 98-103.
[36]. Trần Nhân Dũng, Phạm Bảo Đăng, Trần Gia Huy & Nguyễn Tường Vi (2019). Khảo sát hiệu
suất ly trích polysaccharide từ nấm Linh chi (Ganoderma lucidum) bằng 5 loại dung môi khác
nhau. Tạp chí Di truyền và Ứng dụng (Chuyên san Nấm và Công nghệ sinh học), 74-81.
[37]. Chang, S. T. & Miles, P. G. (2004). Mushrooms, Cultivation, Nutritional value, Medical
effect, and Environmental impact, CRC Press, 27-47.
[38]. Ng’etich, O. K., Nyamangyoku, O. I., Rono, J. J., Niyokuri, A. N., Izamuhay, J. C. (2013).
Relative performance of Oyster mushroom (Pleurotus florida) on agroindustrial and
agricultural substrate. International journal of Agronomy and Plant Production, 4 (1), 109116.
[39]. Dương Hoàng Tú, Châu Thị Chấp Ngãnh & Trần Nhân Dũng (2011). Sử dụng mùn cưa cao
su, bã mía, và mụn dừa làm cơ chất nuôi trồng nấm bào ngư trắng (Pleurotus florida). Tài liệu
lưu hành bộ, Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học - Trường Đại học Cần Thơ.
[40]. Tăng Nguyễn Mai Trinh, Bùi Thị Minh Diệu & Trần Nhân Dũng (2019). Nghiên cứu thử
nghiệm trồng nấm bào ngư trắng (Pleurotus florida) trên cơ chất vỏ trái thốt nốt. Tạp chí Di
truyền và Ứng dụng (Chuyên san Nấm và Công nghệ sinh học), 101-106.
[41]. Nguyễn Thị Bích Thùy, Ngơ Xn Nghiễn, Cờ Thị Thùy Vân & Trịnh Tam Kiệt (2009).
Nghiên cứu sự mọc và hình thành quả thể nấm cốc lớn Clitocybe maxima (Gartn. Ex mey.: fr)
Quel, Tạp chí Di truyền học và Ứng dụng, 5(2), 44 - 45.
131
Đỗ Tấn Khang và cs.
[42]. Kumla, J., Suwannarach, N., Jaiyasen, A., Bussaban, B. & Lumyong, S. (2013). Development
of an edible wild strain of Thai oyster mushroom for economic mushroom production. Chiang
Mai Journal of Science, 40(2), 161-172.
[43]. Trần Thị Trúc, Đỗ Tấn Khang, Bùi Thị Minh Diệu & Trần Nhân Dũng (2019). Khảo sát ảnh
hưởng nguồn dinh dưỡng đến sinh trưởng và phát triển của nấm Chân dài Panus giganteus
(Berk.) Corner. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 55(2), 110-118.
[44]. Nguyễn Hoàng Thạnh, Đỗ Tấn Khang, Nguyễn Tường Vi & Trần Nhân Dũng (2019). Nghiên
cứu môi trường và giá thể phù hợp để sản xuất nấm Hoàng kim (Pleurotus citrinopileatus
Singer). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 55(2), 95-102.
[45]. Aulakh, M. S., Khaera, T. S., Doran, J. W. & Bronson, K. F. (2001). Managing crop residue
with green manure, urea and tillage in rice-wheat rotation. Soil Science Society of America
Journal, 62, 820-827.
[46]. Lu, W. J., Wang, H. T., Nie, Y. F., Wang, Z. C., Huang, D. E., Qiu, X. Y. & Chen, J.C. J. C.
(2004). Effect of inoculating flower stalks and vegetable waste with ligno-cellulolytic
microorganisms on the composting process. Journal of Environmental Science and Health,
Part B, 39, 871-887.
[47]. Nguyễn Thanh Tịnh, Phan Thị Phới, Trần Thị Xuân Lan, Trần Văn Bé Năm, Đỗ Tấn Khang
& Trần Nhân Dũng (2020). Tuyển chọn vi khuẩn phân giải Lignocellulose để xử lý cơ chất
trờng nấm rơm (Volvariella volvacea). Tạp chí Cơng Thương, 24, 93-98.
[48]. Vetayasuporn, S. (2007). Using Cattails (Typha latifolia) as a Substrate for Pleurotus
ostreatus (Fr.) Kummer Cultivation - SciAlert Responsive Version. Journal of Biological
Sciences, 7, 218-221.
[49]. Payapanon, A., Suthirawut, S., Shompoosang, S. & Tsuchiya, K. (2011). Increase in yield of
the straw mushroom (Vovariella volvacea) by supplement with Paenibacillus and Bacillus to
the compost. Journal Faculty of Agriculture Kyushu University 56(2), 249-254.
DOI:10.5109/20317.
[50]. Trần Văn Bé Năm, Lê Phạm Thị Tường Anh, Đỗ Tấn Khang & Trần Nhân Dũng (2019).
Đánh giá hiệu quả vi sinh vật phân giải cellulose trong nuôi trồng nấm Linh chi (Ganoderma
lucidum). Tạp chí Di truyền và Ứng dụng (Chuyên san Nấm và Công nghệ sinh học), 82-87.
[51]. Nguyễn Thị Ngọc Nhi & Trần Nhân Dũng (2016). Phân lập giớng nấm mới Termitomyces
clypeatus. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 46b, 17-22.
[52]. Hồ Thị Thu Ba, Trần Nhân Dũng & Trương Trần Thuận (2018). Khảo sát độc tính bán trường
diễn của cao chiết từ nấm thượng hoàng (Phellinus sp.) hoang dại trên chuột nhắt trắng. Tạp
chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam, 50-54.
132
Nghiên cứu nấm lớn tại Trường Đại học Cần Thơ từ năm 2007-2022
ABSTRACT
MACRO FUNGAL RESEARCH ACTIVITIES AT CAN THO
UNIVERSITY FROM 2007 TO 2022
Do Tan Khang1, Le Vinh Thuc2, Tran Van Be Nam1, Tran Nhan Dung1*
1
Biotechnology Development and Research Institute, Can Tho University
2
College of Agriculture, Can Tho University
*Email:
The macro fungal research activities at Can Tho University (CTU) are still quite young, compared to
other mushroom research centers in Vietnam. Studying on identification of macro fungal varieties/species
based on traditional morphological and molecular methods is the strength of CTU. The production
technologies of common edible and medicinal mushrooms have been studied, in which paddy straw
mushrooms are studied and developed economically. Particularly, the spawn production process of paddy
straw mushroom, the process of producing paddy straw mushrooms in the house as well as in the field is very
prominent, and at the same time, the production process of others species of mushrooms such as lingzi
mushroom (Ganoderma lucidum), oyster mushrooms, Cordyceps militaris, big cup mushroom, Pycnoporus
sanguineus, wood-ear mushrooms have been established and transferred to companies, farmers etc. Many
substrates such as rice straw, rubber sawdust, bagasse, coco sawdust, cotton scraps, jaggery husk, cattails
scraps, corn cobs, etc. have been studied, and they can be developed to cultivate mushroom. There are many
new natural mushrooms discovered from That Son mountain area, An Giang province that have not been
disseminated to people such as: snow mushroom (Tremella fuciformis), tough mushroom (Lentinus
squarosolus), orange red silver ear mushroom (Tremella cinnabarina), melaleuca mushroom (Tylopilus
felleus), thin orange lie mushroom (Pycnoporus sanguineus), buffalo skin reishi (Amauroderma
subresinosum), royal Korea reishi mushroom (Ganoderma apllanatum), black reishi mushroom
(Amauroderma niger), Phellenus sp. that need more focusing on research. Mushroom strains breeding,
molecular research and advanced study on macro-mushroom pests and diseases will be implemented in the
future.
Keywords: Edible and medicinal mushrooms, straw mushroom economic efficiency, mushroom
cultivation, technology transfer, molecular identification.
133
134