Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Kinh nghiệm chuyển sang cơ chế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.22 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
**********

ĐỀ ÁN MÔN KTCT

KINH NGHIỆM CHUYỂN
SANG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : LỘ KIM CÚC
SINH VIÊN THỰC HIỆN: MAI VĂN LÂM
LỚP 78 – K.33

Ngày 05 tháng 12 năm 2008
Mục lục


Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG. .5
1. Khái niệm về kinh tế thị trường.....................................5
1.1.......................................................................... Định nghóa
........................................................................................... 5
1.2..................................Đặc trưng của cơ chế thị trường
........................................................................................... 5
2. Vai trò, đặc điểm của cơ chế thị trường......................7
2.1................................................................................Vai trò
........................................................................................... 7
2.2..........................................................................Đặc điểm
........................................................................................... 9
Chương II: KINH NGHIỆM CHUYỂN SANG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH


NGHIỆM CHO VIỆT NAM.........................................................10
1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam...........10
1.1...........Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở
nước ta còn ở giai đoạn sơ khai..................................10
1.2.......Hệ thống thị trường trong nước đang hình thành
chưa đồng bộ................................................................12
1.3...........Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
......................................................................................... 12
1.4.....Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở
rộngkinh tế đối ngoại hội nhập vào thị trường
khu vực và Thế Giới...................................................13
1.5......Quản lí Nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu
......................................................................................... 14
2. Kinh nghiệm chuyển sang cơ chế thị trường ở một số
nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam................15
Chương III: GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM...........................................17
1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần.................................................................................... 17
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng
nhanh tiến bộ khoa học công nghệ; trên cơ sở đẩy
mạnh phân công lao động xã hội................................18

2


3. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, triệt để xóa bỏ cơ chế quản lí hành
chính bao cấp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền
tệ, giá cả.........................................................................19

4. Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN..............................20
LỜI MỞ ĐẦU
Trong một thời gian dài , do nhận thức chưa đầy đủ
về CNXH và Nhà nước XHCN một hệ thống các Nhà
nước XHCN đã được hình thành và hoạt động theo cơ
chế kinh tế và cơ chế quản lí kinh tế tương ứng với
nhận thức đó. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhận
thức lại một cách thiết thực về CNXH, đặc biệt là
trong điều kiện lịch sử hiện đại Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã bắt đầu điều chỉnh nó bằng công cuộc
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường, song Đảng Cộng
Sản Việt Nam vẫn khẳng định có tính nguyên tắc là
phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và
theo đó một cơ chế kinh tế, cơ chế quản lí được xác
lập thích ứng với nguyên tắc đó.
Nền kinh tế thị trườn sẽ giúp đất nước ta thoát
khỏi lạc hậu, vươn lên, đuổi kịp các nước phát triển
trên thế giới. Chúng ta không thể phủ nhận rằng
nền kinh tế thị trường có những ưu điểm và tác dụng
mà không có cơ chế nào hoàn toàn thay thế được tuy
nhiên nền kinh tế thị trường cũng có những khuyết
tật vốn có của nó. Vì thế, phải nắm thực trạng nền
kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay và nhìn vào nền
kinh tế của các nước đang phát triển để rút ra những
bài học kinh nghiệm để vận dụng vào thực tiễn nền
kinh tế Việt Nam cho phù hợp. Phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN.
Dưới đây chúng ta tập trung nghiên cứu thực trạng

của nền kinh tế Việt Nam và các giải pháp đối với
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trên cơ sở đánh

3


giá và nghiên cứu các bài học kinh nghiệm từ nền
kinh tế thị trường của một số nước phát triển trên
thế giới.
Chương I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Khái niệm về kinh tế thị trường:
1.1.
Định nghóa:
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó
các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị
trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Kinh tế
thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng
hóa dựa trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định.
1.2.
Đặc trưng của cơ chế thị trường:
Khi phân tích cơ chế kinh tế trong thời kì tự do cạnh
tranh của CNTB, C.Mac đã chỉ ra những đặc trưng sau:
Một là: các quan hệ kinh tế hoàn toàn chịu sự chi
phối của các qui luật thị trường, chưa bị biến dạng
bởi các quyết định hành chính của nhà nước và
các thế lực độc quyền.
Hai là: giá cả thị trường là kết quả khách quan
của quan hệ cung cầu, nó tồn tại độc lập với cả

người mua và người bán, họ chỉ là những ngừoi
nhân giá.
Ba là: Tư liệu sản xuất và sức lao động được tự
do di chuyển từ nghành này sang nghành khác theo
cơ chế thị trường, do đó nâng cao hiệu quả đầu tư
của Tư Bản.
Như vậy theo C.Mac cơ chế thị trường gồm có các
bộ phận cấu thành sau :
- Quan hệ cung cầu là trung tâm của cơ chế thị
trường .
- Giá cả thị trường là cốt lõi của cơ chế thị
trường.
- Cạnh tranh là sức sống của cơ chế thị trường.

4


Theo tôi, cơ chế thị trường là tổng thể phương
thức vận hành nền kinh tế sao cho phù hợp với các
qui luật khách quan của thị trường, trong đó gồm có
các quan hệ kinh tế ( mà quan hệ cung cầu là trung
tâm), các hình thức kinh tế( mà giá cả thị trường
là cốt lõi), các phương pháp (mà cạnh tranh là sức
sống). Từ đó tạo ra những lực hút đẩy theo một xu
hướng nhất định, nhằm chi phối 3 vấn đề cơ bản
của nền sản xuất xã hội là: sản xuất cái gì, sản
xuất bằng cách nào và sản xuất cho ai.
Muốn chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN tất yếu phải
nghiên cứu những đặc trưng của mô hình kinh tế

hướng tới. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia
phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế
thị trường. Chẳng hạn, mô hình kinh tế Cộng hòa
liên bang Đức, Thụy Điển, Trung Quốc… Nếu gác lại
những đặc điểm riêng, cá biệt của những mô hình
kinh tế kể trên chỉ tính đến những đặc trưng chung
nhất, vốn có của thị trường, có thể nêu những
đặc điểm mang tính phổ biến sau:
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế cao.
Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự
chịu trách nhiệm với những quyết định sản xuất và
kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do
liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản
xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng
của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ
từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại
nền kinh tế hàng hóa. Đồng thời cũng là biểu hiện
và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hóa. Kinh
tế hàng hóa không bao dung hành vi bao cấp, nó
độc lập với bao cấp và đồng nghóa với tự chủ,
năng động.
Hai là, trên thị trường hàng hóa rất phong phú.
Người ta tự do mua bán hàng hóa. Trong đó người
mua chọn người bán, người bán tìm người mua, họ

5


gặp nhau ở giá thị trường. Đặc trưng này phản ánh
tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh

tế tự nhiên.
Sự đa dạng phong phú về số lượng và chủng loại
những hàng hóa trên thị trường một mặt phản
ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội,
mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của thị
trường. Những ưu thế trên của thị trường phản ánh
trình độ phát triển của Khoa học – kó thuật và công
nghệ. Vì vậy, nói đến kinh tế thị trường là nói đến
một nền kinh tế phát triển cao.
Ba là, giá được hình thành ngay trên thị trường.
Giá thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá
thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh
tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa, dịch vụ. Trên
cơ sở giá thị trường, giá là kết quả của sự thương
lượng và thỏa thuận giữa người mua và người bán,
đặc trưng này phản ánh yêu cầu lưu thông hàng
hóa. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hóa,
người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người
mua lại muốn mua với giá thấp. Đối với người bán,
giá phải đáp ứng được nhu cầu bù đắp được chi phí
và có lợi nhuận. Đối với người mua, giá phải phù
hợp với lợi ích giới hạn của họ.
Giá thị trường dung hòa được lợi ích của người mua
lẫn người bán.
Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của thị
trường, nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất
độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu
cầu của các quy luật giá trị , tất cả các đơn vị sản
xuất hàng hóa đều phải sản xuất và kinh doanh
trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong

điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận, các đơn vị
sản xuất và kinh doanh đua nhau cải tiến kó thuật,
áp dụng kó thuật mới vào sản xuất để nâng cao
năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động
cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu nghạch.

6


Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra
một cách phổ biến trong lónh vực sản xuất và trong
lónh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lónh vực sản xuất
bao gồm: cạnh tranh nội bộ nghành và cạnh tranh
giữa các nghành với nhau. Cạnh tranh trong lónh vực
lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa người tham gia trao
đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Hình thức
và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất
phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng
của cạnh tranh là lợi nhuận.
Năm là, thị trường là một nền kinh tế mở. Nó
rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ
thống thị trường và hệ thống pháp luật.
2. Vai trò, đặc điểm của cơ chế thị trường:
2.1.
Vai trò:
Kinh tế thị trường tạo ra động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển để đáp ứng với nhu cầu
của xã hội. Do cạnh tranh giữa những người sản
xuất khác buộc các chủ thể sản xuất phải cải
tiến kó thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản

xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức thấp nhờ
đó có thể tạo nên giá cả cạnh tranh trên thị
trường. Người tiêu dùng đang tìm kiếm những sản
phẩm có chất lượng tốt nhưng giá cả cũng phải
hợp lí. Lúc trước, người tiêu dùng hướng đến những
sản phẩm ngoại nhập mặc dù giá cả rất cao. Bởi
vì do tâm lí của những người tiêu dùng và cũng do
chất lượng của các sản phẩm trong nước không cao.
Bây giờ sản phẩm trong nước đã dần lấy lại vị thế
của mình trên thị trường trong nước và nước ngoài
với chất lượng và giá cả cạnh tranh. Có những sản
phẩm hàng Việt Nam chất lượng cao. Quá trình đó
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, đào tạo càng nhiều cán bộ có
năng lực cao.

7


Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời
và tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa, sự
phát triển king tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân
công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản
xuất. Vì thế, phát huy được tiềm năng, lợi thế của
từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước, có tác
dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Bộ
Công nghiệp cho biết sẽ khuyến khích các dự án
sản xuất, lắp ráp ô tô đầu tư vào 3 vùng kinh tế
trọng điểm. Ba vùng kinh tế trọng điểm gồm miền
Bắc với tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng –

Quảng Ninh và các tỉnh lân cận; miền Trung với
các tỉnh từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa; miền Nam
với các tỉnh trong khu vực tứ giác phát triển TP.HCM
– Bà Rịa Vũng Tàu – Đồng Nai – Bình Dương – C ần Thơ.
đây là khu vực có sự phát triển kinh tế nhanh, nhu
cầu về ô tô lớn, cơ sở hạ tầng tốt. Đầu tư vào khu
vực này, DN ngoài được hưởng những lợi thế có
sẵn, còn được chính quyền địa phương quan tâm coi
đây là một trong những nghành công nghiệp mũi
nhọn, ưu đãi đặc biệt về các lónh vực như thuê đất,
đào tạo nhân lực… Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã
giao cho 4 tổng công ty nhà nước gồm:Tổng công ty
Công nghiệp ô tô Việt Nam, Tổng công ty than Việt
Nam, Tổng công ty Máy động lực và Máy Nông
nghiệp Việt Nam và Công ty cơ khí ô tô Sài Gòn
đảm nhiệm vai trò nòng cốt trong nghành công
nghiệp ô tô. Các tổng công ty này có trách nhiệm
xây dựng và triển khai các dự án sản xuất ô tô
và phụ tùng theo hướng phân công chuyên môn
hóa, hợp tác hóa, có công nghệ hiện đại được
chuyển giao từ các hãng sản xuất ô tô lớn trên
thế giới, và tỷ lệ sản xuất trong nước phải cao hơn
mức định hướng chung. Ước tính, nhu cầu vốn phát
triển công nghiệp ô tô từ nay đến 2010 là 16.000
tỷ – 18.000 tỷ đồng; từ 2010 đến 2020 là 35.000 đến
40.000 tỷ đồng(7, 04/08/2004).

8



Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá
trình tích lũy và tập trung sản xuất, do đó tạo điều
kiện ra đời của sản xuất lớn với trình độ xã hội
hóa cao, chọn lọc những người kinh doanh giỏi, hình
thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ cao, lao
động lành nghề đáp ứng được nhu cầu của đất
nước. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một
tất yếu, một nhiệm vụ cấp bách để chuyển nền
kinh tế laic hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện
đại hội nhập vào sự phân công lao động. Đó là con
đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất,
khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước
vào sự nghiệp CNH- HDH. Nhờ phát triển kinh tế
nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác
được tiềm năng trong nước và thu hút vốn, kỹ
thuật, công nghệ ở nước ngoài. Theo ông Dominic
Scriven – Giám đốc công ty Dragon Capital khẳng định:
“ Việt Nam có thể thu hút gấp 2-4 lần số vốn đầu
tư gián tiếp từ nước ngoài(FPI)hiện nay, bởi GDP
tăng trưởng ổn định, hàng hóa xuất khẩu có sức
cạnh tranh”.(5, tr72)
2.2.
Đặc điểm:
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể có tính
độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Các chủ thể của các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp
có quyền quyết định về vấn đề sản xuất kinh
doanh của mình để tạo ra sản phẩm đáp ứng nay đủ
nhu cầu của xã hội. Các chủ thể doanh nghiệp sẽ
điều tra chủ thể nhu cầu của người tiêu dùng trên

thị trường để có thể quyết định sản xuất những
sản phẩm can thiết trên thị trường.
Giá cả do thị trường quyết định. Hiện nay giá cả
hàng hóa trên thị trường tăng vọt. Do những tác
động chủ quan lên thị trường khiến cho cạnh tranh tự
do lành mạnh bị kìm hãm đó cũng là nguyên nhân
góp phần làm giá cả hàng háo tăng lên.

9


Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn
có của nền kinh tế thị trường như: quy luật giá trị,
quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu… Sự tác động
của các quy luật đó hình thành cơ chế điều tiết
của nền kinh tế. Khi đã quyết định phát triển theo
kinh tế thị trường và đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng đó là giá cả phải chăng, chất lượng tốt.
Nền kinh tế hiện nay có sự điều tiết vó mô của
Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch
hóa, chính sách kinh tế. Nhà nước ta đã đưa ra những
hệ thống luật kinh tế bao gồm một số đạo luật cơ
bản: Luật Doanh Nghiệp name 1999, Luật Hợp Tác Xã
năm 2003, luật Doanh Nghiệp Nhà nước năm 2003,
Luật đầu tư nước ngoài ( được xửa đổi bổ sung năm
2000).
Chương II: KINH NGHIỆM CHUYỂN SANG CƠ CHẾ THỊ
TRƯỜNG Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:

1.1.
Trình độ phát triển nền kinh tế thị
trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai:
Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp,
bên cạnh một số lónh vực, một số cơ sở kinh tế đã
được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong
nhiều nghành kinh tế máy móc cữ kó , công nghệ
lạc hậu. Theo UNDP, việt nam đang ở trình độ công
nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc
lạc hậu 2-3 thế hệ( có lónh vực 4-5 thế hệ). Lao
động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
số lao động xã hội. Do đó, năng suất, hiệu quả
sản xuất của nước ta còn thấp so với khu vực và
thế giới (năng suất lao động của nước ta chỉ bằng
30% mức trung bình của thế giới), năng suất lao
động của việt nam thấp hơn các nước ASEAN từ 2-15
lần, và chưa có dấu hiệu gia tăng. Điều này ảnh

10


hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của việt
nam.
Năm 2006, ngân sách đầu tư cho phát triển khoa
học chỉ mới đạt tới 0,43% tính trên tổng sản phẩm
trong nước (số liệu của Bộ Khoa học và công nghệ –
KH&CN) trong khi tỉ lệ này ở Trung Quốc là 1,3% vào
năm 2005, còn ở Hàn Quốc là 2,64% và Nhật Bản
là 3,45% vào năm 2003, số người làm ngiên cứu
khoa học cũng chỉ trên dưới 40.000 người tức là rất

thấp, chỉ bằng khoảng 0,05% người dân, trong khi con
số này ở Hàn Quốc là 2,19% hay ở Mỹ là 3,67%
( năm 2003).(6, 15/11/2007)
Kết cấu hạ tầng hệ thống đường giao thông, bến
cảng, hệ thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu. Hệ
thống giao thông kém phát triển làm cho các địa
phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó
làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không
thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên
môn hóa sản xuất để phát huy thế mạnh. Hiện nay
có rất nhiều đường xá không đảm bảo, có thể
gây ra tai nạn mặc dù nhà nước đã chi ngân sách
để sửa chữa nhưng vẫn không hoàn thành.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên
thị trường trong nước, cũng như thị trường nước
ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất, kỹ thuật và
công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp,
khối lượng hàng hóa nhỏ, chủng loại hàng hóa còn
nghèo nàn, chất lượng hàng hóa thấp, giá cả cao vì
khả năng cạnh tranh còn yếu. Giá bán của nhiều
sản phẩm trong nước cao hơn giá quốc tế. Đặc biệt
là giá điện, điện thoại, các cước phí vận tải biển
cao hơn hầu hết các nước trong khu vực, gấp 2-3 lần
nước có mức giá trung bình trong khu vực. Hơn thế
nữa, tốc độ tăng trưởng của GO (tổng giá trị sản
xuất) khu vực công nghiệp tăng bình quân 12- 15%,
trong khi giá trị gia tăng của khu vực này chỉ dưới
10%. Điều này cho thấy nhiều nghành công nghiệp

11



có giá trị gia tăng thấp. Theo báo cáo cạnh tranh
toàn cầu năm 2004 của diễn đàn kinh tế thế giới ,
thứ hạng về năng lực cạnh tranh của việt nam đã
giảm 17 bậc so với năm 2003. do chi phí sản xuất cao,
năng suất lao động thấp làm cho rất nhiều sản
phẩm của các nghành không có khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam

Số
nước
xếp hạng
Thứ
hạng
của
việt
nam
Đứng
trên(nước)
Nguồn: diễn
năng lực cạnh

199
8
53

199
9

53

200
0
59

200
1
75

200
2
80

200
3
102

200
4
104

39

48

53

60


65

60

77

14

5

6

15

15

42

27

đàn kinh tế thế giới(WEF). Xếp hạng
tranh hàng năm.(5, tr24)

Chưa xây dựng được đội ngũ những nhà quản lí
kinh tế, những nhà doanh nghiệp giỏi, thích ứng được
với cơ chế thị trường và quen kinh doanh theo pháp
luật. Người dân nhiều năm sống trong cơ chế bao
cấp, mới bước đầu làm quen với cơ chế thị trường.
Pháp luật kinh tế mới hình thành, chưa đồng bộ.
Người dân chưa có thói quen và tập quán kinh doanh

theo pháp luật. Một số cơ quan làm chức năng “cầm
cân nảy mực” thiếu năng lực và thiếu nghiêm minh.
Phẩm chất của một bộ phận cán bộ công chức,
viên chức còn thấp, thiếu tinh thần trách nhiệm, lại
thiếu sự kiểm tra giám sát. Tình trạng tham nhũng
vẫn diễn ra phổ biến, có nơi diễn ra nghiêm trọng
hơn trước.

12


1.2.
Hệ thống thị trường trong nước đang hình
thành chưa đồng bộ:
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa
lôi cuốn các vùng trong nước vào một mạng lưới
giao thông hàng hóa thống nhất. Thị trường hàng
hóa- dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và
còn nhiều hiện tượng tiêu cực(hàng giả, hàng nhập
lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị
trường).
Thị trường hàng hóa sức lao động mới manh nha,
một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất
khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sình
hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị
trường này là sức cung về lao động giản đơn lại vượt
quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm
được việc làm. Theo kết quả điều tra lao động và
việc làm của bộ lao động, thương binh và xã hội,
đến ngày 1/7/2004, số người được đào tạo nghề

nghiệp và kỹ năng( có trình độ sơ cấp hoặc có
chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 22,5%;
trong đó tỉ lệ đã qua đào tạo nghề là 13,3%; tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; tốt nghiệp
cao đẳng, đại học trở lên là 4,8%. Nếu so sánh với
các nước trong khu vực thì số lao động chính quy còn
rất thấp. Nhìn chung, lao động việt nam kém cả về
số lượng và chất lượng.
1.3.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị
trường:
Nền kinh tế thị trường là kinh tế có nhiều thành
phần do vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình
sản xuất hàng hóa cùng tồn tại, đan xen nhau, trong
đó sản xuất hàng hóa phân tán còn phổ biến.
Nhiều thành phần kinh tế phù hợp với nhiều trình
độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất
trong thời kì quá độ, đồng thời phản ánh kinh tế thị
trường ở nhiều hướng khác nhau, đang vận động

13


biến đổi với đặc trưng là kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Tuy nhiên với nhiều thành phần kinh
tế, tương ứng với những trình độ khác nhau, nhiều
loại hình sản xuất khác nhau, thì sản xuất nhỏ của
nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ là
phổ biến.
Nền kinh tế nhiều thành phần mà không có sự

quản lí chặt chẽ của nhà nước ta thì sẽ làm cho kinh
tế phát triển chệch hướng XHCN. Mỗi thành phần
kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về
tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của mỗi giai
cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Các thành phần
kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
1.4.
Sự hình thành thị trường trong nước gắn
với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập
vào thị trường khu vực và thế giới:
Trong hoàn cảnh phát triển kinh tế –kó thuật của
nước ta thấp xa các nước khác. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, nước ta luôn bị thua thiệt.
Điều này thể hiện khả năng cạnh trành của nền
kinh tế nước ta yếu trên thị trường thế giới. Toàn
cầu hóa, khu vực hóa hiện nay đang là xu thế tất
yếu của thời đại, nó đang đặt ra những cơ hội và
những thách thức to lớn cho chúng ta đòi hỏi chúng
ta phải biết nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức,
phải nâng cao khả năng cạnh trành của hàng hóa
nước ta, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới , nhằm phát huy lợi thế so sánh của đất nước,
tranh thủ sức mạnh của thế giới, thúc đẩy thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và phát triển nhanh nền kịnh tế thị trường
theo định hướng XHCN. Thời gian qua, Việt Nam đã có
những nỗ lực rất cao trong cải thiện môi trường đầu
tư. Những nỗ lực này đã có kết quả bước đầu, tuy
nhiên cần phải lưu ý rằng môi trường đầu tư được
cải thiện không chỉ được đánh giá về trạng thái


14


trước sau mà còn phải đảm bảo tính hấp dẫn so
với các đối thủ cạnh tranh. Theo ý kiến của một
giám đốc đầu tư thương mại quốc tế của một tập
đoàn lớn của Mỹ được công ty tư vấn quản lý
A.T.Kearney chọn trong hơn 1000 ý kiến điều tra về
môi trường đầu tư thì: “bán được nhiều hàng ở việt
nam và mong đợi khai thác được nhiều nguồn ở việt
nam hơn trong tương lai, nhưng chúng tôi không chắc
sẽ đầu tư vào thị trường này trong thời gian tới.
Đầu tư cho các nghành công nghệ cao, chúng tôi có
những khoảng đầu tư lớn ở châu Á, nhất là Trung
Quốc, Malaysia và Singapore. Tuy nhiên, ở Việt Nam chi
phí giao dịch cao, công nghệ thông tin tốn kém và
luật thương mại chưa phát triển là những thách thức
với chúng tôi”. Chính vì vậy mà kết luận của Công
ty A.T.Kearney là mặc dù Việt Nam có những tién bộ
nhất định trong cải thiện đầu tư nhưng “Việt Nam
không chỉ cần chạy nhanh mà phải chạy nhanh hơn
các nước khác”. Cũng theo kết quả ngiên cứu của
công ty này, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách 15
thị trường hấp dẫn đầu tư nhất trong các thị trường
của châu Á nhưng thứ bậc của Việt Nam vào
tháng9/2004 là 12, giảm 4 bậc so với cùng thời
điểm 2003.(5, tr66-67)
1.5.
Quản lí nhà nước về kinh tế – xã hội

còn yếu:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng ta nhận định về vấn đề này như sau: “hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ
và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài
chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch
hóa, quy hoạch xây dựng, quản lí đất đai còn nhièu
yếu kém, thủv tục hành chính… đổi mới chậm.
Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số lónh vực
quan trọng, chưa phất huy tốt vai trò chủ đạo trên thị
trường. Quản lí xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở,

15


tiêu cực, một số trường hợp còn gây tác động xấu
đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều
bất hợp lí. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn.
Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc”
(3, tr66)
Nghị quyết hội nghị TW 8, khóa 7 đã đưa ra trong
nhiệm vụ hoàn thiện và xây dựng nhà nước phải
đặt ra trọng tâm vào cải cách hành chính nhà nước.
Cụ thể, trong những năm trước mắt phải làm tốt
một số công việc sau đây: cải thiện thể chế hành
chính; chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt
động của hệ thống hành chính; xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính. Cải cách kinh tế đã
được thực hiện trong nhiều năm qua; cải cách hành
chính trước đây có đề cập nhưng phải đến Hội nghị

TW8, khóa 7 mới thành chủ trương lớn. Cải cách
hành chính trong những năm qua còn chậm chạp và
cục bộ. Hai cuộc cải cách hành chính và kinh tế có
quan hệ biện chứng. Nhưng bộ máy hành chính chưa
đủ khả năng đáp ứng yêu cầu quản lí kinh tế –
xã hội trong điều kiện mới, nhất là bộ máy hành
chính ở các đô thị lớn – là nơi đang phát triển kinh
tế thị trường với tốc độ cao. Trong những năm qua,
Nhà nước mới chủ yếu cải cách thủ tục hành
chính để bớt gây phiền hà cho nhân dân, còn công
tác cải cách bộ máy hành chính rất chậm. Vì vậy,
việc điều hành công vụ giữa các cơ quan cô9ng
quyền còn dậm chân, chồng chéo chức năng,
nhiệm vụ và không rõ ràng về quyền hạn. Trong khi
đó lại có những lónh vực không có cơ quan nào chịu
trách nhiệm rõ ràng.(6, 15/11/2007).
Theo một số chuyên gia, rất nhiều sản phẩm của
Việt Nam đang có nguy cơ mất thị trường vì không
đáp ứng được nhu cầu của các nhà nhập khẩu.
Vấn đề hoàn toàn không phải là do chất lượng mà
do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu tính chuyên
nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại. Rõ ràng,

16


với tư cách là một nhà quản lí và phụ trách chương
trình xúc tiến thương mại của quốc gia, Bộ Thương mại
chưa làm tròn vai trò của mình trong việc định hương
và hỗ trợ các doanh nghiệp từ việc tổ chức xúc

tiến, lựa chọn thị trường cần xúc tiến và sự phối
hợp các doanh nghiệp trong nghành và liên nghành
như thế nào cho có hiệu quả nhất. Theo thống kê
của Bộ Thương mại, năm 2004 nguồn ngân sách hỗ
trợ cho hội chợ nước ngoài và khảo sát chiếm 60%
tổng ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm. Nguyên nhân do tham gia hội chợ theo
kiểu manh mún, mạnh doanh nghiệp nào lo cho doanh
nghiẹp nấy, mạnh nghành nào lo cho nghành ấy,
không chú trọng đến qui hoạch tổng thể, đặc biệt
chưa chú trọng và biết kết hợp giữa hình ảnh của
doanh nghiệp với hình ảnh của quốc gia. Trong bối
cảnh kinh doanh toàn cầu hiện nay, hình ảnh quốc gia
giữ vai trò cực kì quan trọng.(5, tr94)
2. Kinh nghiệm chuyển sang cơ chế thị trường ở
một số nước và bài học cho Việt Nam.
Thứ nhất, là sự quan tâm của chính phủ đối với nền kinh tế thị trường
trong nước. chính phủ phải có những chính sách định hướng cho nền kinh tế
trong nước phát triển. chính phủ phải chi ngân sách cho việc phát triển khoa
học công nghệ, ngân sách đầu tư của nhà nước vào khoa học công nghệ ở các
nước: Trung Quốc là 1,3% (2005), ở Hàn Quốc là 2,64% và Nhật là 3,45%
(2003). (6,15/11/2007). Nhà nước các nước giảm bớt những thủ tục hành
chính đối với các nước vào đầu tư nên thu hút được nhiều vốn FDI.
Thứ hai, thu hút đầu tư nước ngồi, quan hệ hợp tác đa phương hóa.
Chẳng hạn, như Brazin sớm có chính sách cải cách, mở cửa kinh tế, thu
hút đầu tư trực tiếp FDI. Luật vốn đầu tư nước ngồi tạo khung pháp lí đảm
bảo cho các nhà đầu tư an tâm đưa vốn, công nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí

17



tuệ. Nhà đầu tư dược tự do tái xuất số tiền bằng tổng số vốn đầu tư ban đầu
đã đưa vào Brazin. Số ngoại tệ còn lại được coi là lợi nhuận thu được, cũng
được phép đưa ra nước ngoài sau khi nộp thuế 15%. Người nước ngoài hay
doanh nghiệp nước ngoài được phép mua bất động sản ở ngoài khu vực ven
biển, biên giới.
Thứ ba, vấn đề xuất nhập khẩu là vấn đề không thể thiếu trong nền kinh
tế thị trường. để tỷ trọng xuất khẩu vào các nước cao thì doanh nghiệp phải
chú trọng dến chất lượng sản phẩm, giá cả mới có thể cạnh tranh trên thị
trường. năng lực của các doanh nghiệp trong nghành dệt may của Việt Nam
hiện rất còn yếu, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Trung Quốc thống lĩnh
thị trường này, là đối thủ cạnh tranh mà các doanh nghiệp trong nghành dệt
may Việt Nam cần phải vượt qua. Trên các thị trường lớn như: EU, Hoa Kỳ,
hay Nhật Bản, các sản phẩm dệt may Trung Quốc đều chiếm khoảng 65 -75
% thị phần.
Qua đó, rút ra bài học cho Việt Nam khi xây dựng
kinh tế thị trường là chính phủ cần quan tâm đến
nền kinh tế của đất nước, đưa ra những chính sách
kinh tế phù hợp với nền kinh tế của đất nước. Nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế có sự cạnh tranh
rất lớn nên chúng ta nên đưa ra những sản phẩm
có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh nếu không sẽ
bị loại khỏi thị trường thế giới. Bên cạnh đó, chúng
ta cũng phải xác định nền kinh tế của nước ta là
kinh tế thị trường định hướng XHCN nên nhà nước
phải quản lí chặt chẽ để nền kinh tế không đi

18



chệch hướng. Nước ta nên thực hiện những chính
sách kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ
tầng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tăng xuất
khẩu, giảm nhập khẩu. Nước ta nên đầu tư phát
triển khoa học, công nghệ, xây dựng đội ngũ cán
bộ quản lí có trình độ. Chính phủ xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch vững mạnh.
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần:
Trước đây khi xây dựng nền kinh tế kế hoạch,
chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản
với 2 hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hóa vận
hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu
sở hữu cũ bằng cách đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ thể
kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một
trong những cơ sở của kinh tế hàng hóa.
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế trong thời kì quá độ là một trong những
điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát
triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh
tổng hợp của mọi thành phần kinh tế. Các khu vực kinh
tế được khuyến khích phát triển theo hướng XHCN. Tất
cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp
luật, tuy vị trí, qui mô, tỉ trọng, trình độ có khác nhau.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn

lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong
những lónh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp khu

19


vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chủ trương cổ
phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những
doanh nghiệp mà nhà nước không nắm 100% vốn. Xây
dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên
cơ sở các công ty nhà nước, có sự tham gia của các
thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kó thuật
công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện
chế độ quản lí công ty đối với tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh có vốn nhà nước, doanh nghiệp thực
hiện sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa
dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần
giúp hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương
án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện
tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã.
2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ;
trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã
hội:
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản
phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần
phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố
lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như

từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn
hóa nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều
nghành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất –
kó thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao động.
Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong
nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước
ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với
phân công lao động nước ngoài, gắn thị trường trong
nước với thị trường quốc tế. Nhờ đó mà thị trường
trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao
động, tài nguyên cơ sở vật chất hiện có được khai
thác có hiệu quả. Thị trường được khai thông trên

20



×