Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

luong chau tu cua vuong chi hoan tho duong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.2 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA VĂN HỌC
***********

LƯƠNG CHÂU TỪ CỦA VƯƠNG CHI HỐN
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THI PHÁP
BÀI TIỂU LUẬN CHUN ĐỀ
THƠ ĐƯỜNG – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN


Cán bộ hướng dẫn : PGS.TS.
Người thực hiện

:

Mã số học viên

:

Lớp

: Cao học Văn học Việt Nam

Khoá

:

出 塞 - 涼 州 詞  



黃 河 遠 上 白 雲 間,
 
一 片 孤 城 萬 仞 山。 
羌 笛 何 須 怨 楊 柳, 
春 風 不 度 玉 門 關。
 

Phiên âm Hán-Việt:
Xuất tái - Lương Châu từ 
Hồng Hà viễn thướng bạch vân gian, 
Nhất phiến cơ thành vạn nhận san. 
Khương địch hà tu oán "Dương liễu", 
Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan.

I. Thi pháp thơ Đường trong tác phẩm Xuất tái của Vương Chi Hốn
1. Cảnh tình.
Trong dòng thơ biên tái, bài thơ “Lương châu từ” của Vương Chi Hoán là bài thơ rất
hay với mỹ từ mang nỗi buồn của người chinh phu. Mặc dù lịch sử thơ Đường trước đó đã
có bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn cực kì nổi tiếng nhưng Vương Chi Hốn cũng
khiến cho người đời sau phải suy ngẫm khơng dứt về bài thơ của ông. Thơ Đường vốn rất cô


đọng súc tích chỉ với bốn dịng thơ. Bài thơ “Lương Châu từ” - “Xuất tái” của Vương Chi
Hoán đã làm được điều đó.
Điều khiến chúng ta chú ý đầu tiên là nhan đề của bài thơ. “Từ” có nghĩa là “ca” hay
“một lối văn để hát” như từ khúc, í chỉ những khúc hát trong nhạc phủ đời Đường. “Lương
châu” là tên của vùng đất thuộc tỉnh Cam Túc ở phía bắc Trung Quốc, vùng đất này nằm ở
biên giới phía bắc nên thường bị giặc Hồ đến quấy phá. Ở đây chiến tranh thường xảy ra
khiến cho dân chúng và binh lính phải rơi vào cảnh khốn cùng. Chính việc lấy vùng “Lương
châu” làm đề bài mà người đọc phần nào có thể hiểu được thâm ý của Vương Chi Hốn khi

ơng muốn thể hiện nổi bi ai của quân lính và người dân qua khúc ca về vùng chinh chiến
Lương Châu. Nhan đề bài thơ cịn có cái tên khác đó là “Xuất tái”. “Xuất” nghĩa là đi, “tái”
là nơi quan ải xa xơi, vùng đất có Hung nô hay đem quân cướp phá. Ý chỉ đi đến vùng hiểm
trở có chiến tranh ngồi biên ải xa xôi. Qua nhan đề tác phẩm, người đọc đã phần nào hiểu
được tình cảnh trớ trêu cùng nỗi sầu của người chinh phu trong bài thơ này.
Cảnh vật xuất hiện trong bài thơ Xuất Tái tạo nên một không gian rộng lớn chứa đựng
bầu tâm sự của Vương Chi Hốn.
“Hồng Hà viễn thướng bạch vân gian”
Mở đầu câu thơ tác giả phác họa dịng sơng “Hồng hà” là hình ảnh dịng sơng đi vào
thơ ca đời Đường rất nhiều. Sơng Hoàng Hà đã chứng kiến cuộc hán sở tranh hùm và biết


bao cuộc chiến trong lịch sử Trung Quốc. Hoàng Hà có độ cao cao chênh lệch rất lớn giữa
thượng nguồn và hạ nguồn làm nước chảy xiếc như thác tạo cảm giác hùng vĩ. Lý Bạch
trong bài thơ “Tương tiến tửu” đã mô tả cảnh tượng này trong câu thơ rất đẹp:
“Qn bất kiến
Hồng Hà chi thủy thiên thượng lai, 
Bơn lưu đảo hải bất phục hồi”
Vương Chi Hoán cũng nhận thấy độ cao của dịng sơng Hồng Hà hùng vĩ này, ơng
cho hai màu “hồng”- vàng và “bạch”- trắng nối nhau khiến cho không gian trải dài mênh
mông. Điều thú vị là màu vàng của sơng Hồng Hà lại khơng chảy theo chiều dài ra biển
như lẽ thường mà chảy lên - “thướng” theo chiều cao để nối trời với đất. Sơng Hồng Hà
chạy dài lên tận mây trắng, khiến ai nhìn thấy cũng có cảm giác rợn ngợp. Trước khơng gian
mênh mơng của dịng sơng Hồng Hà, nhà thơ như trở nên nhỏ bé. Thử hỏi khi đứng trước
sự rộng lớn của trời đất mà vị trí đứng lại là chốn biên ải xa xôi như vậy tác giả sao tránh
khỏi nỗi nhớ quê hương và quằn quại trước nỗi đau thời thế chinh chiến. Từ khung cảnh
dịng sơng, tác giả phóng tầm mắt sang một khung cảnh khác:
“Nhất phiến cơ thành vạn nhận san”
Vương Chi Hốn sử dụng một lúc ba từ đơn “nhất”, “phiến” và “cô” để chỉ sự lẻ loi
của “thành” nơi biên ải. “Nhất” đã là một, “phiến” là nhỏ, nay tác giả lại thêm từ “cô” để



khắc họa sự cơ độc, lẻ loi của thành trì. Để rồi tác giả tiếp tục đẩy sự cô độc của thành trì lên
cao hơn khi đem nó đối lập với “vạn nhận san”. Một thành nhỏ giữa không gian núi non
hùng vĩ, trùng điệp. Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh lay động lòng người. Đứng
trên Ngọc Mơn Quan, tác giả dõi mắt nhìn xa là một vùng cao nguyên hoang liêu với đủ các
gam màu thiên nhiên. Dịng Hồng Hà thì chảy ngược lên trời, núi non hùng vĩ như bao vây
một mảnh thành nhỏ vì vậy, sơng Hồng Hà như dãi lụa mềm nối liền trời xanh mây trắng
với mảnh thành trong chập chùng đồi núi biên cương tạo thành một bức tranh tả ý về vùng
biên tái phía Tây Trung Hoa thật sống động. Nhà thơ đã khéo thu nhỏ một “tòa thành lũy”
lại còn “một mảnh thành con”, rồi đem “một mảnh thành con” ấy đối với “muôn trùng đồi
núi” để làm tăng thêm cái cảm giác cô đơn, cô độc đến cùng cực của người lính nơi biên ải:
“Khương địch hà tu oán dương liễu”
Tác giả gợi nhắc đến âm thanh rất đặc biệt nơi chiến trường biên giới Trung Quốc đó
là “Khương địch” – tiếng sáo của rợ Khương. Tiếng sáo khiến ta nhớ đến trận cuối cùng ở
Cai Hạ trong thời kì Hán Sở tranh hùng, vì khi tiếng sáo quân Trương Lương nỗi lên nó đã
làm tướng sĩ cuối cùng của Sở Vương Hạng Vũ bỏ chủ đi hết. Tiếng sáo trong câu thơ thứ ba
này ngân vang lên như nỗi lịng nhớ q hương quằn quại vì tiếng sáo của rợ Khương làm
bằng trúc, thổi lên vô cùng buồn bã, nó ai ốn, nó da diết như xé lòng về nỗi đau li biệt.


Câu thơ tiếp tục day dứt khi xuất hiện hình ảnh “Dương liễu” là hình ảnh bám từ rất
lâu trong văn học cổ Trung Quốc. Liễu tượng trưng cho nhiều ý nghĩa khác nhau nhưng khi
nhắc đến “Dương liễu” chúng ta nhớ đến điển tích liễu Chương Đài để nói lên sự chia ly, xa
cách. Đây chính là một nét văn hóa đặc trưng của người trung quốc - “chiết liễu” khi chia
tay. Trong bài thơ này “Dương liễu” được dùng cũng với ý nghĩa đó. Bạch cư dị từng coi
liễu là thứ cây li biệt trong Thanh môn liễu:
Vị cận đô môn đa tống biệt
Trường điều phàm chiết hàm xuân phong”
Nhắc tới cành liễu ta nghĩ đến mùa xuân, cành liễu như báo hiệu xuân đang về.

Không gian ngập tràn khí xuân nhưng cũng đầy ắp nỗi buồn. Liễu như mời gọi mùa xuân
nhưng lúc này nhà thơ đang ở xa xứ, lại bắt gặp liễu xanh trên đất khách lại càng chạnh lịng
nhớ q hương. Vì khi xn tới là lúc con người được sum họp bên gia đình. Nơi chiến
trường nhớ tới kẻ ở người đi. Cây dương liễu vì vậy mà cũng trở thành cây thương tâm. Con
người nào li biệt vì liễu xanh, cũng chỉ vì chinh chiến mà cách xa ngàn dặm. Khốt lên mình
màu áo chia li, liễu khiến nỗi đau dâng trào, dương liễu bị coi như kẻ gây ra chia ly, cách
biệt. Vương Chi Hốn đã khơng dùng cụm từ “chiết dương liễu” mà lại dùng “oán dương
liễu”, ý chừng tác giả không muốn trực tiếp nhắc đến tên của khúc hát. Đồng thời qua từ
“oán” khơi gợi cho người đọc nhiều mối liên tưởng khác nhau, đây chính là điểm sâu sắc mà


khơng phải bài thơ nào cũng có. Ở ngữ cảnh này, người đọc càng cảm thông hơn với số phận
của người chinh phu, ý thơ vì thế càng thêm thấm thía:
“Xn phong bất độ Ngọc Mơn quan”
Câu thứ tư xuất hiện hình ảnh “Ngọc Mơn” là tên một cửa ải ở huyện Đơn Hồng tỉnh
Cam Túc. Ngọc Mơn Quan là cửa ải của Trung Nguyên và Tây Vực, nằm cách Thành Đơn
Hồng chừng 90 km, được xây dựng từ thời Hán Vũ Đế và được trùng tu qua các triều đại
phong kiến Trung Hoa. Khi con đường tơ lụa được mở ra, khách bn ngọc từ Hịa Điền –
Tân Cương đến Trung Nguyên đều phải qua cửa ải này, do đó mà thành tên gọi. Thời bình là
cửa ngõ thơng thương, cịn thời chiến thì nơi đây chính là bãi chiến trường. Cảnh quang và
khí hậu nơi ở Ngọc Mơn Quan hết sức khắc nghiệt nhưng vô cùng kỳ thú, thêm vào đó
những ký ức chiến tranh đã tạo nên cảm xúc bi tráng cho dòng thơ biên tái đời Đường nói
chung và những “Khúc hát Lương Châu” nói riêng. Xun suốt bài thơ khơng có hình ảnh
của con người nhưng ẩn chứa trong mỗi câu thơ đều phảng phất hình bóng của con người.
Ta thấy điều đó qua tiếng sáo của rợ Khương, thấy hình ảnh của cây liễu. Ta cảm nhận được
chỗ đứng của người chinh phu ở Ngọc Mơn Quan. Khơng có một từ ngữ nào trực tiếp nói về
con người nhưng chính cảnh vật nơi biên ải đã giúp tác giả phơi bày nỗi lòng của người lính
nơi biên cương xa xơi. Ba câu đầu bài thơ tạo hơi thở mạnh nhưng đến câu cuối lại trầm lắng
khiến nỗi buồn càng trải dài mênh mang.



2. Thanh tình.
a. Thể loại
Bài thơ Xuất Tái theo thể “thất ngôn tứ tuyệt Đường luật” là thể thơ mỗi bài có bốn
câu và mỗi câu bảy chữ. Bài thơ theo cấu trúc bốn phần: khởi, thừa, chuyển, hợp, tương ứng
với bốn câu thơ trong bài.
b. Niêm
Niêm theo nghĩa đen là “dính” với nguyên tắc phân phối thanh theo chiều dọc. Ta căn cứ
vào chữ thứ nhì của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Trong bài thơ Xuất
Tái:
- Chữ thứ 2 trong câu 1 “hà” (B) đối với chữ thứ 2 trong câu 2 “phiến” (T)
- Chữ thứ 2 trong câu 3 “địch” (T) đối với chữ thứ 2 trong câu 4 “phong” (B)
- Chữ thứ nhì của câu 2 “phiến” (T) niêm với chữ thứ nhì của câu 3 “địch” (T).
- Chữ thứ nhì của câu 4 “phong” (B) niêm với chữ thứ nhì của câu 1 “hà” (B).
Điều đó tạo sự kết nối vịng trịn, tạo sự gắn kết chặt chẽ cho thi phẩm:

Hoàng
B


B

viễn
T

thướng
T

bạch


vân

gian

T

B

B


Nhất
T

Khương
B

Xn
B

phiến



thành

vạn

nhận


san

T

B

B

T

B

T

địch



tu

ốn

Dương

T

B

B


T

B

phong

bất

độ

Ngọc

Mơn

B

T

T

T

B

liễu
T

quan
B


c. Luật
Luật là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang trong một dòng thơ, sao cho bằng
trắc hòa hợp. Nguyên tắc này được tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu từ này là thanh
trắc là bài thơ được gọi là “trắc khởi cách”, Nếu từ này là thanh bằng thì bài thơ được gọi là
“bằng khởi cách”. Vì bài thơ Xuất Tái có chữ thứ hai trong câu thứ nhất là “hà” – vần bằng
nên bài thơ này theo vần bằng khởi cách.


Ngoài ra, câu thơ muốn cân đối phải đảm bảo sự cân bằng của “đòn cân thanh điệu”
theo yêu cầu của luật thi: “nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục, phân minh”. Điều này được
hiểu là chữ thứ tư sẽ là tâm đối xứng, các chữ thứ hai, thứ sáu phải tuyệt đối đúng thanh và
khác thanh với chữ thứ tư.
Bài thơ Xuất tái không tuân thủ đúng theo các nguyên tắc trên. Ở câu thứ 2 và câu
thứ 3, chữ thứ sáu của hai câu thơ này không thực hiện đúng theo quy tắc. Tuy nhiên, điều
này không khiến cho dòng cảm xúc của tác giả bị giới hạn trong một phạm vi nhất định. Bài
thơ vẫn thể hiện một cách sâu sắc những tư tưởng, tình cảm của thi nhân. Có thể xem đây là
một ẩn ý thể hiện cảm xúc buồn của tác giả.

d. Vận
Các chữ cuối của câu 1, 2, 4 vần với nhau “gian”, “san”, “quan” đã góp phần tạo
nên nhạc điệu cũng như tạo hiệu quả đáng kể cho việc diễn tả cảm xúc của nhà thơ. Âm “an”
ngân dài, giàn trải khiến cho nỗi sầu của tác giả trải dài cùng không gian vắng lặng nơi biên
ải.
e. Tiết tấu (ngắt nhịp)
Cách ngắt nhịp ở câu thơ 7 chữ ở Xuất Tái đều là chẵn trước, lẻ sau. Bài thơ ngắt
nhịp 4/3 Cách ngắt nhịp chẵn/lẻ (âm/dương) này là cố định, hầu như khơng có ngoại lệ,
khiến cho âm dương xen kẽ, chẵn lẻ luân chuyển nhịp nhàng và hài hòa.


Nhịp ngắt 4/3 trong bốn câu thơ đã tạo nên sự tinh tế trong việc diễn tả ý nghĩa của

bài thơ. Nhịp thơ chậm rãi như trải dài tâm trạng buồn của Vương Chi Hoán. Đặc biệt nhịp
ngắt 4/3 này càng khiến cho tâm trạng người chinh phu nơi biên ải xa xôi càng thấm đẫm nỗi
cô đơn, nhớ nhà. Chính nhịp điệu khắc khoải và tâm trạng buồn não nề trong thời kì chinh
chiến đã giúp bài thơ đi vào giai điệu ca từ trong lời bài hát của người dân.

3. Từ tình
a. Tự pháp:
Ở câu thứ ba “Khương địch hà tu oán dương liễu” tác giả cố ý phá luật thơ: chữ thứ
năm “oán” đáng lẽ phải là thanh bằng mới đúng luật, tác giả dùng thanh trắc “oán” làm cho
câu thơ trở nên mạnh và nặng nề. Nếu đặt vào đấy một chữ có thanh bằng, câu thơ sẽ nhẹ
tênh. Việc dùng thanh trắc ở chữ “oán” giúp tác giả dễ dàng thể hiện nỗi đau của người
chinh phu chinh chiến nơi biên ải. Ngoài ra chữ thứ sáu ở câu hai và câu ba đúng ra phải là
thanh trắc để đối lại với chữ thứ tư. Tuy nhiên, hai chữ “nhận” và “dương” lại là thanh bằng
làm cho người đọc như trôi tuột theo cảm xúc buồn của thi nhân. Việc sử dụng những sự
khác biệt về luật thơ càng cho thấy nỗi đau của tác giả gửi gắm vào bài là quá lớn.

4. Thời gian và không gian nghệ thuật
Trong thơ Đường, hầu hết các bài thơ đều chú ý cả hai khía cạnh khơng gian và thời


gian. Bài thơ “Xuất tái” là sự hòa quyện giữa không gian và thời gian. Chúng ta thấy rõ tác
giả đang xoay trong vòng thời gian chiến tranh. Thời gian như nuốt trọn bầu tâm trạng buồn
của tác giả. Ấy vậy mà không gian càng làm thấm đượm nỗi buồn, cào xé tâm can của
người chinh phu. Không gian trong bài thơ được mở rộng với cảnh sông núi mênh mông
của vùng biên tái, nơi chiến tranh diễn ra liên miên. Khơng gian này bào mịn trái tim, khiến
cho người đứng ở Ngọc Mơn Quan trơng ra xa thấy mình càng nhỏ bé đến vơ tận. Khơng
gian cịn mở ra nhiều ẩn ý về nỗi đau không chỉ người chinh phu gánh chịu nơi chiến
trường. Bởi khi cô đơn đứng giữa một nơi sặc mùi tử khí thì chinh phu nhớ về quê nhà.
Chiến tranh đã đẩy họ đi quá xa khiến cho thê thiếp, mẹ già và người thân ngóng đợi. Đan
xen vào khơng gian rộng lớn là thời gian mùa xuân. Khí xuân nào đến được nơi biên ải.

Chính khoảng thời gian này càng đẩy sự cơ đơn lên cao tột độ. Nỗi niềm của tác giả phả vào
bài thơ tỏa khắp không gian và thời gian nhưng quy tụ lại chỉ ở một trái tim đau nhói.

II. KẾT LUẬN
Vương Chi Hốn được người đời tơn làm “thi thiên tử” chỉ với bài thơ “Xuất Tái” của
ông. Bài thơ như chạm đến nỗi đau tận cùng của những người lính chinh chiến. Khơng
những thế, chỉ với bốn câu thơ nhưng ý nghĩa của nó khơng dừng lại ở nội dung đau buồn
của người chinh phu mà còn khiến bao nhiêu con người trải qua trong thời kì chiến tranh
loạn lạc phải rơi nước mắt. Cách đây một trăm năm, bài thơ đã có chỗ đứng riêng từ bao đời


và là khúc hát phổ biến trong dân chúng. “Xuất tái” đã từng là một ca khúc rất nổi tiếng, dù
ngày nay nó khơng cịn phù hợp với thời hiện đại, tuy nhiên, mỗi khi cất giọng đọc bài thơ
thì mỗi người dân Trung Hoa đều có cảm xúc lắng động. Họ nhớ về bài ca này như một
chặng dài lịch sử đã qua. Ẩn hiện trong bài thơ hình ảnh của người lính nơi biên ải và nỗi
đau của kẻ ra trận, người hậu phương. Vì vậy, khi nhắc lại cái tên “Xuất Tái” thì người đọc
lại ln cảm thấy đau buồn và cảm động khi nhớ về một thời kì chinh chiến đầy khổ đau trên
đất nước Trung Hoa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Phức (2013), Thi pháp thơ Đường, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh.
2.

Hình

Phước

Liên


(2013),

Lương

Châu

Từ



nỗi

buồn

/>
chiến

tranh



×