1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như hệ thống tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy tư tưởng cốt lõi của Người là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà thực chất là giải phóng con người. Vấn đề
con người và phát huy nhân tố con người để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là
một vấn đề trung tâm, xuyên suốt, luôn được đề cập đến như một mục tiêu
thiêng liêng, cao cả nhất của sự nghiệp cách mạng mà Hồ Chí Minh theo đuổi
và luôn được tỏa sáng trong từng suy nghĩ và hành động của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của nhân tố con người đối với sự
nghiệp cách mạng, đối với sự phát triển của xã hội. Trong bất kỳ thời kỳ nào,
giai đoạn cách mạng nào, con người vẫn luôn là vốn quý nhất, là mục tiêu, là
động lực của sự nghiệp cách mạng, vì vậy cần phải có những cách thức để tác
động làm cho nhân tố con người được bộc lộ và phát huy. Đây được coi là
những tư tưởng có giá trị to lớn, làm rõ nhân tố có vai trị quyết định đối với
những thắng lợi rực rỡ của cách mạng Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và
tương lai.
Nhân tố con người và phát huy nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có ý nghĩa quan trọng, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
đường lối, chính sách của Đảng ta về sử dụng, phát huy nhân tố con người ở
Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển như vũ
bão, tồn cầu hố trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành một đặc
trưng của nền kinh tế thế giới thì vai trị động lực, vị trí trung tâm của con
người trong q trình phát triển đã thực sự được khẳng định. Con người và phát
huy nhân tố con người thu hút sự quan tâm, chú ý, được thảo luận rộng rãi trên
các diễn đàn trong nước và quốc tế. Trong tiến trình phát triển cả lý luận và
thực tiễn đều chứng minh: nhân tố con người đóng vai trị quyết định xu hướng
2
vận động của thế giới đương đại. Luôn theo sát sự biến động của thời cuộc,
đánh giá đúng đắn vị trí, vai trị của nhân tố con người, Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI (01.2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Con
người thực sự là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên,
là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất quyết định thành công của sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trải qua 65 năm xây dựng và phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh ln là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt trung, cao cấp; cán bộ khoa học lý luận chính trị của hệ thống chính
trị; trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các khoa
học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý 1. Học viện đã vinh dự được Đảng và
Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Sao Vàng, Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Để
thực hiện được nhiệm vụ chính trị đó, Học viện ln ln coi trọng nâng cao
chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ, đổi mới mạnh mẽ, công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ để ngang tầm với địi hỏi của cơng cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế. Sự nỗ lực, cố gắng không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ của Học viện
là nhân tố quyết định mọi thành công kể trên.
Đánh giá cao vai trò của con người và nhân tố con người, Đảng ủy và
lãnh đạo Học viện đã luôn quan tâm xây dựng, bồi dưỡng và rèn luyện đội ngũ
cán bộ một cách toàn diện từ lập trường, quan điểm chính trị, phẩm chất đạo
đức đến trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kiến thức thực tiễn, phương pháp
Ban Chấp hành Trung ương, Quyết định số 224-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 01 năm 2014, Hà Nội.
1
3
nghiên cứu và giảng dạy; hồn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích sự
sáng tạo, tạo động lực cho phát triển khoa học, đồng thời tôn vinh các cán bộ,
các nhà giáo, các nhà khoa học, nhất là các chuyên gia đầu ngành. Đó là những
nhân tố làm bộc lộ và phát huy một cách hiệu quả nhân tố con người, nhân tố
đã góp phần đưa Học viện thực sự trở thành một trung tâm quốc gia về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu lý luận, có những đóng góp thực sự vào q
trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
khẳng định được vị thế, vai trò của Học viện trong sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu đòi hỏi của tình hình trong nước và thế
giới như hiện nay, đội ngũ cán bộ của Học viện vẫn chưa thực sự đáp ứng được
yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra. Vì vậy, Học viện cần phải tiếp tục, thường xun,
liên tục có những giải pháp tích cực nhằm phát huy tối đa nhân tố con người;
phải nâng cao về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đủ sức đảm đương
ngày càng tốt hơn nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó trong thời kỳ mới.
Làm thế nào để phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong thời kỳ đầy
biến động như hiện nay? Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng địi hỏi
phải được nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống nhằm tìm kiếm những giải
pháp kịp thời, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố
con người ở Trung tâm Học viện Chính trị Quốc gia hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ” làm chủ đề nghiên cứu cho đề án tốt nghiệp chương trinh cao
cấp lý luận chính trị, hệ tập trung, năm học 2014-2015.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề án
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát huy nhân tố con người, đề án làm sáng tỏ thực trạng phát huy
nhân tố con người, chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, tìm ngun nhân để từ
4
đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả nhân tố con người ở
trung tâm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí minh trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy
nhân tố con người, giá trị lý luận và thực tiễn của những quan điểm đó;
Làm rõ thực trạng phát huy nhân tố con người tại Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh;
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người
Công tác phát huy nhân tố con người ở trung tâm học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề án nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát huy nhân tố con người và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc
xây dựng nhân tố con người ở ở trung tâm học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh thời kỳ đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề án sử dụng các phương pháp logic và lịch sử, kết hợp phân tích, so sánh
và đối chiếu và các phương pháp liên ngành khác
5. Ý nghĩa của đề án
Đề án thành công một lẫn nữa khẳng định tính khoa học đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người, góp phần vào việc đưa ra
các giải pháp nhằm phát huy tối đa nhân tố con người ở Trung tâm Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5
6. Kết cấu của đề án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung của đề án được kết cấu thành 4 phần
Phần I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con
người
Phần II: Thực trạng và những giải pháp nhằm phát huy nhân tố con
người ở trung tâm Học viện Chính trị quốc gia hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Phần III: Tính khả thi và hiệu quả của đề án
Phần IV: Tổ chức thực hiện đề án
Phần V: Kết luận và một số kiến nghị
6
PHẦN I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1. Quan niệm Hồ Chí Minh về con người
Hồ Chí Minh khơng có một tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhân tố
con người nhưng trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng về con người là
một tư tưởng xuyên suốt, thâm nhập toàn bộ hệ thống, được biểu hiện thật đa
dạng và vô cùng phong phú. Vấn đề con người luôn luôn được nhắc đến như
một mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng mà Người theo
đuổi.
Trong các bài nói, bài viết của mình, khái niệm con người được Hồ Chí
Minh sử dụng bằng nhiều từ ngữ khác nhau như con người, người ta, dân, nhân
dân, đồng bào, quần chúng… để diễn đạt nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo hoàn
cảnh, điều kiện, nội dung cụ thể từng thời kỳ cách mạng. Khi nói đến con người
trong lĩnh vực chính trị, Người thường dùng các từ như nhân dân, dân chúng,
đồng bào, cán bộ đảng viên… khi đề cập đến những vấn đề của con người
trong các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, triết học, người dùng các từ như người,
con người …
Trong những năm 20 của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh thường dùng các khái
niệm “người bản xứ”, “người nô lệ”, “người cùng khổ”, “người vô sản thuộc
địa”…để chỉ người dân Việt Nam mất nước và tất cả những con người của các
dân tộc bị chế độ thực dân đàn áp, bóc lột trên thế giới. Sau cách mạng tháng
Tám, Người sử dụng các khái niệm “đồng bào”, “nhân dân”…để chỉ người
Việt Nam thốt khỏi ách nơ lệ. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Người dùng khái niệm “lao động chân tay”, “lao động trí óc”, “nông dân tập
thể”, “người chủ tập thể”…để chỉ con người Việt Nam mới, con người xã hội
chủ nghĩa.
Đối với Hồ Chí Minh, khơng có con người trừu tượng mà chỉ có con người
cụ thể với ý nghĩa đầy đủ nhất. Đó là con người có cuộc sống riêng, có những
7
mối quan hệ gắn với gia đình, quê hương, với tập thể, đồng bào trong cộng
đồng dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh đã nêu lên một định nghĩa rất độc đáo
về con người: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” 1. Với định nghĩa
này, con người có tính xã hội và là thành viên của một cộng đồng nhất định,
nằm trong các mối quan hệ khác nhau tạo thành thể thống nhất là xã hội lồi
người.
Như vậy, có thể thấy cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về con người, về cơ
bản là xem xét con người trong các mối quan hệ với cộng đồng xã hội. Quan
niệm đó thể hiện rõ tính giai cấp, tính lịch sử, xã hội của khái niệm con người.
Khi Hồ Chí Minh nói tới con người thường dùng các thuật ngữ: quần chúng,
nhân dân, đồng bào và ngược lại khi nói tới các thuật ngữ này cũng tức là nói
về con người. Đây là nét độc đáo trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con
người.
Có thể khái qt quan niệm của Hồ Chí Minh về con người với những nét
chính như sau:
Thứ nhất: Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể thống nhất
Con người là một chỉnh thể thống nhất về thể lực, tâm lực và các hoạt
động của nó. Bản thân con người là một hệ thống các cấu trúc bao gồm nhiều
yếu tố như sức khỏe, đời sống tinh thần và tri thức, tất cả được bộc lộ ra thông
qua hoạt động của con người. Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, làm
điều kiện, bổ sung cho nhau trong đời sống con người. Hồ Chí Minh nhìn nhận
con người trong sự thống nhất giữa hai mặt đối lập: người đời khơng phải thánh
thần, ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ai cũng có tính tốt tính xấu, có thiện có ác, có
ưu điểm khuyết điểm…Từ đó, Người đòi hỏi việc cải tạo xã hội cũ đồng thời
cũng là quá trình cải tạo bản thân mỗi con người nhằm làm cho phần xấu mất
dần đi và phần tốt nảy nở như hoa mùa xn.
1
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2011, tập 5, tr. 130.
8
Thứ hai: Quan điểm của Hồ Chí Minh thể hiện mối quan hệ của con người
cá nhân với cộng đồng xã hội. Hồ Chí Minh ln xét con người trong mối quan
hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính (thanh niên, phụ nữ), theo lứa tuổi
(phụ lão, nhi đồng), theo nghề nghiệp (cơng nhân, nơng dân, trí thức), trong
khối thống nhất dân tộc và quan hệ quốc tế.
Thứ ba: Hồ Chí Minh ln khẳng định bản chất con người mang tính lịch
sử - xã hội
Đứng vững trên quan điểm duy vật mác - xít, Hồ Chí Minh đã kết hợp
nhuần nhuyễn các yếu tố truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, dân
tộc và quốc tế để xem xét, đánh giá đúng đắn về bản chất con người… Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, khơng có khái niệm con người trừu tượng mà luôn luôn là
con người cụ thể, lịch sử gắn liền với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Con
người tồn tại với tư cách vừa là con người cá thể vừa là con người cộng đồng,
gia đình, giai cấp, xã hội, con người nói chung ln gắn với hoạt động thực tiễn
đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội. Song, xét đến cùng, đó là con người Việt
Nam cùng khổ, bị áp bức, bị bóc lột đang đứng lên để tự giải phóng mình, từng
bước làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Con người ấy cũng được đặt trong mối
quan hệ với dân tộc, quốc tế, nhân loại.
Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người với tư cách là cá nhân,
tập thể, cộng đồng hay cả nhân loại đều là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu
tố sinh vật và yếu tố xã hội, mang bản chất xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo
và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân tố con người
Hồ Chí Minh không đưa ra quan niệm cụ thể về nhân tố con người nhưng
thực chất, Người đã đề cập đến nhân tố con người một cách toàn diện trong hệ
thống tư tưởng của mình. Với phương pháp khái qt hố, chúng ta thấy Hồ
Chí Minh đề cập đến nhân tố con người với một số nội dung sau:
9
- Thứ nhất, xét theo phương diện nhân tố con người với tư cách là chủ thể
hoạt động, Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động tự giác của con người.
- Thứ hai, nhân tố con người với tư cách là tổng hoà các phẩm chất, năng
lực của con người.
- Thứ ba, nhân tố con người với những tiêu chí về nhân cách, việc giáo
dục, tạo dựng mẫu con người mới được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm.
Như vậy, theo quan niệm Hồ Chí Minh, nhân tố con người là hệ thống
những thuộc tính, những đặc trưng quy định vai trị chủ thể tích cực, chủ động,
sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động
với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực, giá trị xã hội của con người.
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh khơng đưa ra quan niệm cụ thể về
nhân tố con người nhưng thực chất, Người đã đề cập đến nhân tố con người
một cách toàn diện trong hệ thống tư tưởng đó. Người thường dùng các thuật
ngữ như “tài dân”, “sức dân”, “sức người”, “lực lượng của dân” để chỉ khái
niệm nhân tố con người. Khái quát lại, Hồ Chí Minh đề cập đến nhân tố con
người với một số nội dung sau:
Thứ nhất, xét theo phương diện nhân tố con người với tư cách là chủ thể
hoạt động tích cực, chủ động các giá trị vật chất và tinh thần theo nghĩa “mọi
thứ đều do con người làm ra”. Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động tự giác
của con người. Nhờ có lao động sản xuất mà tư tưởng của con người và chế độ
xã hội biến đổi.
Thứ hai, nhân tố con người với tư cách là tổng hoà các phẩm chất, năng
lực của con người. Hồ Chí Minh ln u cầu mỡi người phải tu dưỡng, rèn
luyện để vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chun. Đức, chính là đạo đức
cách mạng. Những phẩm chất tiêu biểu mà Người thường đề cập đó là: Trung
với nước, hiếu với dân; là yêu thương con người; là cần kiệm liêm chính, chí
cơng vơ tư… Tài, trong quan niệm Hồ Chí Minh, là năng lực, trình độ chun
mơn, nghiệp vụ của mỗi người. Đức và tài phải thống nhất, hài hòa, tác động
10
biện chứng với nhau như Người nhắc nhở có đức mà khơng có tài thì làm việc
gì cũng khó, nhưng có tài mà khơng có đức đó là kẻ vơ dụng.
Thứ ba, nhân tố con người không chỉ bao hàm vai trò sức mạnh của mỗi cá
nhân, cá thể mà còn là vai trò sức mạnh tổng hợp của các giai cấp, tầng lớp
người trong cộng đồng xã hội, tạo nên động lực mạnh mẽ nhằm giải phóng và
cải tạo xã hội: “Sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, của nhân dân lao động,
chứ không phải của anh hùng cá nhân”1.
Thứ tư, nhân tố con người với những tiêu chí về nhân cách, việc giáo dục,
tạo dựng mẫu con người mới đáp ứng yêu cầu của xã hội được Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm. Vì lẽ đó, Người sớm khẳng định: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” 2. Đó phải là
những con người kiểu mẫu về năng lực, nhân cách, đóng vai trị quyết định đối
với cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để có được con người mới xã hội
chủ nghĩa, đòi hỏi phải quan tâm và đầu tư mạnh mẽ cho công tác giáo dục, đào
tạo, đẩy mạnh vận động tuyên truyền để xác lập động cơ, nhu cầu, niềm tin, lý
tưởng… qua đó mà nâng cao năng lực hoạt động của con người.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh có thể đưa ra khái niệm: Nhân tố con
người là hệ thống những thuộc tính, những đặc trưng quy định vai trị chủ thể
(cá nhân, tập thể, cộng đồng) tích cực, chủ động, sáng tạo của con người, bao
gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà các đặc trưng
về phẩm chất, năng lực, giá trị xã hội của con người mới Xã hội chủ nghĩa
trong quá trình cách mạng Việt Nam.
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người từng nhắc đến cụm từ “phát huy
nhân tố con người”, nhưng không chỉ ra nội hàm khái niệm về phát huy nhân tố
con người. Tuy nhiên, nội dung của nó được thể hiện trong tồn bộ hệ thống tư
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 7, tr. 507.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 66.
11
tưởng, trong hoạt động cách mạng của Người. Phát huy nhân tố con người
thường được Hồ Chí Minh diễn đạt dưới một số hình thức như: Thi đua và các
phong trào thi đua yêu nước là hình thức phát huy nhân tố con người ở đỉnh cao
bởi trong đó nhằm vào sự giác ngộ, tự nguyện của mỗi người; phát huy sức
mạnh của quần chúng nhân dân, của cộng đồng dân tộc Việt Nam; huy động
sức mạnh của mỗi con người Việt Nam yêu nước, mỗi một “con Rồng cháu
Tiên”; phát huy vai trò của cán bộ đảng viên, của các tầng lớp, giai cấp, các thế
hệ già trẻ, gái trai... trong sự nghiệp cách mạng.
Từ nhận thức tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn, để phát huy
nhân tố con người, Hồ Chí Minh ln bắt đầu từ hiểu con người, trên cơ sở đó
mà đánh giá đúng đắn về khả năng hoạt động, về tiềm năng sức mạnh, năng
lực, phẩm chất, nhân cách để dùng người và tìm cách phát huy nguồn sức mạnh
to lớn đó. Nói cách khác, phát huy nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, của con người
Việt Nam; là sự hiểu biết, đánh giá đúng đắn, cảm thông và tin tưởng con
người, lấy đó làm cơ sở để phát hiện, tạo điều kiện làm bộc lộ, sử dụng, bồi
dưỡng, phát huy những yếu tố cấu thành nên nhân tố con người.
Với cách hiểu như vậy, phát huy nhân tố con người được Hồ Chí Minh đề
cập ở một số nội dung như sau:
- Chỉ ra vai trò của nhân tố con người: Con người là vốn quý nhất, nhân tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp cách mạng
- Chỉ ra các nội dung phát huy nhân tố con người:
Phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của sự nghiệp cách mạng.
Phát huy nhân tố con người với tư cách là một thực thể thống nhất giữa
phẩm chất và năng lực.
Phát huy nhân tố con người với tư cách là thực thể thống nhất giữa cá nhân
và xã hội.
12
- Tổ chức khai thác, bồi dưỡng, tạo điều kiện để nhân tố con người được
nuôi dưỡng và phát triển.
4. Quan niệm của Hồ Chí Minh về một số giải pháp nhằm phát huy
nhân tố con người
Chăm lo cho con người, phát huy mọi tiềm năng sẵn có của con người,
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí minh đã quan tâm tới một số giải pháp chủ yếu sau
đây:
Giải pháp về nhận thức: Phát triển con người không phải chỉ là một quá
trình lựa chọn cái tối ưu trong hoạt động của con người nói chung mà trước hết
là phải có nhận thức, quan niệm đúng đắn về vị trí, vai trị của con người trong
q trình phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức và đánh giá đúng giá trị của con
người, đặc biệt là các giá trị sinh thể và giá trị đạo đức cùng với giá trị vật chất
là vấn đề đầu tiên ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát huy nhân tố con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn phát huy các nguồn lực của nhân dân,
Đảng, chính quyền và bản thân mỗi cá nhân con người phải có sự tin tưởng
tuyết đối vào con người, vào ý chí đấu tranh để giải phóng con người; có lịng
thương u vơ hạn, sự cảm thơng sâu sắc với con người. Đảng tin vào dân, tin
vào sức mạnh vĩ đại của dân là điều kiện, tiền đề cho dân tin Đảng. Nếu Đảng
để mất đi “Chữ tín” với nhân dân thì sẽ mất đi chỗ dựa tin cậy và vững chắc
nhất. Niềm tin ở vai trò và sức mạnh của con người, của quần chúng nhân dân
là cơ sở để hoạch định những chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố
con người. Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với con người, khơng chỉ ở chỗ thấy
được vai trò sức mạnh trong con người, mà cịn từ sự mong muốn được khai
sáng, cảm hóa, hướng dẫn, chia sẻ với mỗi người, để con người vươn lên để
hồn thiện mình, khẳng định vị thế của mình trong xã hội.
Với một cách nhìn hết sức độ lượng, khoan dung, Hồ Chí Minh cho rằng:
“Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo
13
sửa chữa chỗ xấu cho họ”1. “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” 2. Với niềm tin vào
tính hướng thiện của con người, bằng sự nhân từ và bao dung, sẵn sàng xoá bỏ
mặc cảm, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau… Hồ Chí Minh đã đặt
nền tảng vững chắc cho sự đoàn kết dân tộc, sự thống nhất trong Đảng, khơi
dậy và phát huy trong mỗi con người những mầm thiện, niềm tin, sức mạnh
vươn lên trong sự nghiệp cách mạng.
Giải pháp về thể chế, chính sách: Để phát huy nhân tố con người, Hồ Chí
Minh đã cùng tập thể Đảng, Chính phủ xây dựng thể chế, hoạch định, xác lập
một hệ thống chính sách tương đối hồn chỉnh, phù hợp với thực tiễn, phục vụ
cho lợi ích của dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, bao quát các
lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh xã hội.
Việc con người có thể phát huy mạnh mẽ năng lực hành động tự do, sáng
tạo đến đâu phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội. Trong hiện thực cụ thể
điều ấy phụ thuộc trực tiếp và trước tiên vào tổ chức hoạt động của bộ máy
chính trị. Để cho dân tin, dân theo, dân ủng hộ, để nhân tố con người được phát
huy thì quyền lợi của con người phải được bảo vệ mà tiền đề quan trọng nhất là
ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật. Ngay sau ngày nước ta giành độc lập, để
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, quyền lợi, hạnh phúc của nhân dân, Hồ Chí
Minh đã nhanh chóng cùng tập thể Đảng, Chính phủ xây dựng và ban hành
Hiến Pháp 1946. Bản Hiến pháp đã phản ánh và quy định chặt chẽ về quyền và
nghĩa vụ của con người.
Đồng thời với việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, Chủ tịch Hồ Chí
minh nhấn mạnh đến xây dựng và ban hành các chính sách nhằm động viên,
khích lệ và phát huy tối đa nguồn động lực của con người. Hồ Chí Minh đã đưa
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.4, tr. 318
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.14, tr. 672
14
ra những chỉ dẫn quý báu trong việc dùng người để phát huy nhân tố con người
trong đó có chính sách dùng người tài. Người cho rằng: “Tài” hay “nhân tài”
được hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất: "tài to, tài nhỏ"; "người có danh vọng",
"người có cơng tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi của Tổ quốc, nhân
dân", "người hiền tài", "hiền năng", "người hay, người giỏi"… nhưng có chung
mục đích "vì quyền lợi của Tổ quốc, lợi ích của đồng bào". “Tùy tài mà dùng
người, tài to ta dùng việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực gì, ta cắt
làm việc ấy1. Sở dĩ phải khéo dùng người vì: Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân
tài nước ta dù chưa nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân
phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều. Song nếu chỉ
khéo dùng mà dùng khơng đúng, theo Hồ Chí Minh, sẽ phạm phải chứng bệnh
ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn. Ham dùng kẻ khéo nịnh
hót mình mà chán ghét những người chính trực, ham dùng người hợp với mình
mà tránh những người khơng hợp với mình.
Để phát huy nhân tố con người, Hồ Chí Minh cùng tập thể Đảng, Chính
phủ đã hoạch định, xác lập một hệ thống chính sách tương đối hồn chỉnh, phù
hợp với thực tiễn, phục vụ cho lợi ích của dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của
nhân dân, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là những vấn đề an sinh
xã hội để tất cả mọi tầng lớp nhân dân từ miền xuôi đến miềm ngược, dù khác
nhau về giai cấp, tôn giáo, địa vị xã hội, đều có thể đem khả năng của mình ra
phục vụ cho đất nước. Người cịn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành
độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết
rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" 2. Người còn
chú ý đến chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu vật chất
ngày càng cao của nhân dân. Người quan niệm, kinh tế là lĩnh vực thuộc cơ sở
1
2
. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.43
. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.175.
15
hạ tầng, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã
hội. Phải chú trọng xây dựng kinh tế thì mới có điều kiện để xây dựng và phát
triển các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng như văn hóa. Theo Người “có thực
mới vực được đạo” vì thế kinh tế phải đi trước một bước. Chú trọng các chính
sách an sinh xã hội nhằm phát huy nguồn động lực con người cũng là một giải
pháp được Hồ Chí Minh chú ý. Trong Di chúc trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại những lời dặn dò tha thiết và đầy trách nhiệm “Đảng cần phải có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hố nhằm khơng ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân” 1
Giải pháp về giáo dục: Khi xác định vị trí, ý nghĩa của chiến lược con
người, Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người”; “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có
con người xã hội chủ nghĩa...”. Con người xã hội chủ nghĩa có thể được hồn
thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế – xã hội. Người nêu rõ trong Thư
gửi các học sinh: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được
hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo
các em nên những người cơng dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo
dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em…Non sơng
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là
nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em”2.
Hồ Chí Minh chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục hướng vào các
giá trị dân tộc, hiện đại và nhân văn, một nền giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, tơn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng của
mọi người để phụng sự đoàn thể và góp phần vào cuộc tiến hóa chung của nhân
loại. Con người được giáo dục toàn diện sẽ trở thành những con người mới 1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 15, tr. 622.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 4, tr.34-35.
16
chủ nhân tương lai của đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh.
Ngày nay, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát
triển như vũ bão, tồn cầu hố trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành
một đặc trưng của nền kinh tế thế giới thì vai trị động lực, vị trí trung tâm của
con người trong quá trình phát triển đã thực sự được khẳng định. Trong hệ
thống các nhân tố tác động tới sự phát triển xã hội, nhân tố con người ln
đứng ở vị trí trung tâm, giữ vai trò quyết định. Các nguồn lực khác như: vốn,
tài nguyên thiên nhiên tự nó tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ trở thành
động lực của sự phát triển khi kết hợp với nhân tố con người, trở thành khách
thể chịu sự cải tạo, khai thác, sử dụng của con người. Trong khi các nhân tố
khác có thể bị khai thác cạn kiệt thì nhân tố con người lại có tính vơ hạn.Tính
vơ hạn đó được biểu hiện ở chỗ nó có khả năng khơng chỉ tự sản sinh về mặt
sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã
hội nếu biết chăm lo, nuôi dưỡng và khai thác một cách hợp lý. Trong điều kiện
đó, chúng ta càng cần nhận thức đầy đủ hơn những chỉ dẫn quý báu trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người nhằm xây dựng một nước
Việt Nam giàu mạnh và ngày càng phát triển.
17
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT
HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở TRUNG TÂM HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm quốc gia đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trung, cao cấp, cán bộ khoa học lý
luận chính trị của Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị - xã hội; là trung
tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu về
khoa học chính trị. Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, Học viện phải xây
dựng được đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng, có đủ phẩm
chất, trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
1.Thực trạng vấn đề phát huy nhân tố con người ở Học viện Chính
trị quốc gia trong những năm vừa qua
1.1. Những thành tựu
Trong những năm vừa qua, vấn đề phát huy nhân tố con người ở Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã đạt được một số thành tựu sau:
Thứ nhất: Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại Học viện không ngừng
phát triển về số lượng và chất lượng. Tính đến tháng 2-2013, ở trung tâm Học
viện có hơn 800 cơng chức, viên chức. Về trình độ chun mơn, có: 211 Tiến sĩ
(gồm cả PGS,TS; 156 nam, 55 nữ); 238 thạc sĩ (103 nam, 135 nữ). Về độ tuổi
của cán bộ khoa học có học hàm, học vị TS (gồm cả PGS,TS): độ tuổi 30-34: 2
đồng chí; 35-39 tuổi: 20 đồng chí; 40-49 tuổi: 35 đồng chí).Về độ tuổi của cán
bộ khoa học có trình độ Ths: độ tuổi 25-29: 9 đồng chí; 30-34 tuổi: 50 đồng
chí; 35-39 tuổi: 83 đồng chí; 40-44 tuổi: 47 đồng chí. Tính đến ngày 31/7/2014,
số cán bộ tại Trung tâm Học viện là 889 cán bộ trong biên chế và 5 người hợp
đồng, trong đó có 91 giảng viên cao cấp, 3 nghiên cứu viên cao cấp, 16 chuyên
viên cao cấp; 7 giáo sư, tiến sĩ; 82 phó giáo sư, tiến sĩ; 208 tiến sĩ.
18
Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ giảng dạy và nghiên cứu của Học viện được
tuyển chọn với yêu cầu cao cả về năng lực và phẩm chất chính trị từ các địa
phương, các ngành, các trường đại học, được đào tạo đúng chuyên ngành, cơ
bản và chuyên sâu. Qua thống kê sơ bộ đánh giá về chất lượng cơng chức, viên
chức (căn cứ vào bình xét các danh hiệu thi đua năm học), năm 2013, qua đánh
giá thực hiện nhiệm vụ năm học, có: 38,1% cơng chức hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ là 61,86%. Tỷ lệ viên chức hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ là 5,88%; hoàn thành tốt nhiệm vụ là 77,5% và hoàn thành nhiệm
vụ là 16,5%. Đội ngũ cán bộ trẻ cũng được chuẩn hóa cao từ khi được tuyển
dụng, được Hội đồng tuyển dụng chọn lọc một cách khắt khe, vì vậy về cơ bản
họ có một nền tảng kiến thức tương đối vững vàng.
Trên nhiều lĩnh vực chuyên ngành đã có những cán bộ có uy tín trong và
ngồi Học viện, đã và đang phát huy có hiệu quả năng lực nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn và giảng dạy lý luận chính trị. Một số cán bộ khoa học vừa là nhà giáo
dục, nhà sư phạm, người thầy gương mẫu, vừa là nhà khoa học có nhiều cơng
trình được đánh giá cao, có thể trở thành những nhà khoa học đầu ngành có uy
tín. Một số cán bộ có khả năng sư phạm tốt, biết kết hợp một cách sáng tạo các
phương pháp khác nhau, các phương tiện hiện đại cho từng môn học và từng
đối tượng học viên mang lại hiệu quả cao, phát huy được tính chủ động, tích
cực và sáng tạo của người học. Nhiều cán bộ, giảng viên luôn theo sát những
vấn đề bức xúc nảy sinh từ thực tiễn để thu thập và xử lý thơng tin, vì vậy các
bài giảng ln sống động, mang tính thời sự cao nhờ những tri thức thực tiễn và
cách thức luận giải vấn đề khoa học từ thực tiễn đang đòi hỏi. Một số cán bộ
khoa học được đào tạo ở nước ngồi có trình độ ngoại ngữ khá thành thạo trong
nghiên cứu khoa học và trong giao tiếp. Trong những năm qua đội ngũ cán bộ
của Học viện đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của
Đảng và của dân tộc; đã có bước trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất
lượng.
19
Thứ hai: Học viện đã xây dựng được cơ chế và chính sách nhằm tạo điều
kiện cho việc phát huy nhân tố con người ngày càng hiệu quả hơn.
Những căn cứ có tính ngun tắc được qn triệt khi tiến hành cơng tác
cán bộ nói chung của Học viện có thể kể đến bao gồm:
Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997 của Ban Chấp hành Trung
ương (khoá VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hoá đất nước và Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm
2020;
Chiến lược cán bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đến năm
2015 (2010); xây dựng quy hoạch nhân lực Học viện đến năm 2020 (năm
2012);
Chiến lược hoạt động khoa học mười năm (2005-2015) của Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Việc tuyển dụng cán bộ công chức viên chức và xét tuyển cán bộ được tiến
hành thường xuyên, chặt chẽ về quy trình, tiêu chuẩn ngày càng cao để không
những đáp ứng về số lượng mà còn từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ. Học viện thường xuyên tiến hành quy hoạch, rà soát, bổ sung
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo đúng quy định. Vụ Tổ chức cán bộ
tham mưu cho Giám đốc ban hành 9 quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; quy
định về việc xác định vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viện chức các đơn
vị trực thuộc Học viện; quy định về luân chuyển, biệt phái và đi thực tế dài hạn
của cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên; quy hoạch về phát triển nguồn nhân
lực của Học viện đến năm 2020.
Thứ ba: Việc tổ chức phát huy nhân tố con người của các đơn vị trong hệ
thống học viện có nhiều chuyển biến tích cực. Ngồi việc thực hiện theo sự chỉ
đạo chung của cấp trên, nhiều đơn vị rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ
cán bộ của đơn vị mình. Xây dựng chiến lược con người trong đơn vị để tạo ra
20
lớp thế hệ cán bộ kế cận; tạo ra môi trường làm việc bình đẳng, cơng khai; có
các chính sách thiết thực nhằm động viên, khuyến khích cán bộ, cơng chức
trong q trình cơng tác. Trong những năm gần đây, nhiều cán bộ trẻ được tạo
điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học với hình thức đấu thầu các đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp bộ trọng điểm; đề tài Giám đốc giao nhiệm
vụ.
Có được những thành tựu đó phải kể đến những nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Đảng ủy và Ban Giám đốc Học viện đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc cùng tồn
thể cán bộ, cơng chức, viên chức thực hiện mục tiêu, phương hướng chung của
Học viện là: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, tồn diện các mặt cơng tác; tập trung
nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa
học, nỗ lực hồn thành nhiệm vụ.
Đại hội Đảng bộ Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
lần thứ nhất ngày 16/9/2010 với chủ đề: “Đoàn kết, đổi mới mạnh mẽ, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học,
xứng đáng với Học viện mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh” được tiến hành. Đại
hội nêu rõ mục tiêu: “Xây dựng Đảng bộ ln ln trong sạch, vững mạnh,
đồn kết, lãnh đạo Học viện hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị để
xứng đáng là trung tâm quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản
lý; là trung tâm quốc gia về về nghiên cứu khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các khoa
học chính trị và khoa học hành chính”1.
Với phương châm chỉ đạo đó là bám sát đường lối và nhiệm vụ của Đảng
và Nhà nước, xây dựng Học viện trở thành trường Đảng hiện đại và vững
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: 65 năm xây dựng và phát triển, Nxb Lý luận chính trị, H., 2014,
tr.112
1