1
1. Mở đầu
Công tác dân số là bộ phận rất quan trọng của chiến lược phát triển đất
nước. Nó khơng chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà cịn có ý nghĩa về văn hóa, xã
hội, góp phần quyết định sự phát triển bền vững.
Hơn 40 năm sau ngày giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất
nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân của chúng ta có bước trưởng thành vượt bậc về mọi
mặt. Tuy nhiên, có một thực tế trong cơng tác dân số là quy mô và tốc độ dân
số tăng quá nhanh, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện
chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đầu năm 1993, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VII) đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về chính sách
dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), đặt trọng tâm vào thực hiện
kế hoạch hóa gia đình, mục tiêu giảm nhanh tốc độ tăng quy mơ dân số. Bộ
Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 47-NQ/TW về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết 04-NQ/TW, đặt trọng tâm tiếp tục giải quyết vấn đề quy mô
dân số, đồng thời “Từng bước nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể
chất, trí tuệ, cơ cấu”.
Với sự nỗ lực của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các bộ,
ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người dân;
sự hợp tác hiệu quả của các quốc gia, tổ chức quốc tế, công tác Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Mặt khác, cũng bộc
lộ không ít hạn chế, yếu kém cần khắc phục.
Chính vì thế, với bài thu hoạch cuối môn học, học viên xin chọn đề tài:
“Công tác dân số ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho bài thu hoạch.
2
2. Nội dung
Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế - xã hội phát triển, công
tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được triển khai có bài bản, có hiệu quả,
Việt Nam đã đạt và duy trì được mức sinh thay thế một cách vững chắc. Chỉ
tiêu 2,1 con/phụ nữ liên tục được giữ vững từ năm 2006 đến nay và luôn bảo
đảm “mức sinh thay thế”. Mơ hình gia đình hai con đang trở nên phổ biến.
Chúng ta cũng đang có quy mơ dân số lớn và mật độ dân số cao, nhưng
vẫn duy trì được tốc độ tăng chậm (giai đoạn 2009 - 2019, bình quân hằng
năm tăng khoảng 1%). Năm 2017, nước ta có khoảng trên 93 triệu dân và tiếp
tục tăng chậm lên đến khoảng 110 triệu vào giữa thế kỷ. Dân số đông là một
thị trường lớn, hấp dẫn đầu tư nhưng cũng là thách thức lớn về an ninh lương
thực; giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; môi trường…
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ “Cơ cấu dân số vàng” do cơ cấu
dân số theo tuổi biến đổi nhanh. Năm 2006, Việt Nam đã bắt đầu bước vào
thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” khi có trên 66% dân số trong độ tuổi có khả
năng lao động (từ 15 đến 64 tuổi). Theo dự báo của Tổng cục Thống kê (năm
2016), thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” của Việt Nam kéo dài đến khoảng năm
2041. Đây là giai đoạn mang lại nhiều cơ hội nhờ lực lượng dân số trong độ
tuổi lao động dồi dào. Tuy nhiên, cũng là thách thức trong quá trình nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm và việc làm có năng suất, chất lượng,
thu nhập cao.
Tuy nhiên, từ năm 2011, Việt Nam đã bước vào quá trình già hóa và sớm
trở thành nước có dân số già với tỷ lệ 10% dân số là những người từ 60 tuổi
trở lên. Cũng theo dự báo của Tổng cục Thống kê (năm 2016), Việt Nam sẽ
trở thành nước có “dân số già” vào khoảng năm 2032 khi chạm “ngưỡng” tỷ
lệ 20%. Điều đáng chú ý là, trong giai đoạn này, người cao tuổi vẫn chủ yếu
3
là lớp người thuộc thời kỳ chiến tranh, sống ở nơng thơn, nghèo khó nên sức
khỏe yếu, đi kèm đó là phần lớn khơng có bảo hiểm xã hội… Đây là những
những thách liên quan đến vấn đề an sinh xã hội của nhóm người này nói
riêng và là thách thức liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của đất nước
nói chung.
Bên cạnh đó, tình trạng biết trước giới tính thai nhi ngày càng phổ biến,
do tư tưởng trọng nam khinh nữ dẫn đến tình trạng mất cân đối giới tính khi
sinh diễn ra nghiêm trọng; tình trạng di cư đơ thị hóa, tích tụ dân số đang diễn
ra khá mạnh, khơng được kiểm sốt tốt là những đặc điểm tác động tiêu cực
vào quá trình phát triển bền vững về mặt dân số, xã hội.
Trên thực tế, chất lượng dân số Việt Nam được đánh giá là tăng lên
nhưng tăng chưa cao. Nếu coi chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng
về thể chất, trí tuệ và tinh thần của tồn bộ dân số, thì các kết quả đạt được
của nước ta hiện nay còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Vì vậy, nâng cao chất lượng dân số cần được tiếp cận theo hướng vòng
đời để nâng cao khả năng, sự bình đẳng giới trong quá trình tiếp cận và tham
gia của toàn bộ dân số ở tất cả các nhóm tuổi tới các cơ hội phát triển và dịch
vụ bao gồm sức khỏe, giáo dục, việc làm, phúc lợi, tơn giáo, tài chính và mơi
trường… hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Được sự quan tâm từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
trong nhiều năm qua, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã tích cực
triển khai thực hiện có hiệu quả một số đề án đóng góp vào nâng cao chất
lượng dân số, như tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh
và sàng lọc sơ sinh; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi; tăng cường tư vấn và dịch vụ sức khỏe sinh sản, sức
khỏe tình dục, dân số - kế hoạch hóa gia đình cho vị thành niên và thanh
4
niên… và đã thu được những kết quả tốt. Tuy nhiên, vẫn chỉ mới thu được
trong khuôn khổ từ các đề án mà chưa được nhân rộng trong cộng đồng.
Các đặc điểm và xu hướng dân số hiện nay đã và đang đặt ra những vấn
đề cần quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng, bởi dân số
đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường.
Trước hết, là vấn đề bảo đảm an ninh lương thực cho quốc gia khi có dân
số lớn. Một trong những mục tiêu hàng đầu trong các Mục tiêu phát triển bền
vững (SDGs) của Liên hợp quốc (năm 2003) là chấm dứt đói nghèo dưới mọi
hình thức ở mọi nơi. An ninh lương thực của Việt Nam hiện đang được bảo
đảm và có phần dành để xuất khẩu. Nhưng trong tương lai, khi dân số đơng
hơn và diện tích đất đai dành cho nông nghiệp bị thu hẹp do yêu cầu mở rộng
công nghiệp hóa, thì an ninh lương thực cũng đứng trước những thách thức
đáng kể. Hiện nay, diện tích đất trồng lúa bình quân đầu người ở nước ta đã
vào loại thấp nhất thế giới nhưng vẫn đang tiếp tục giảm mạnh. Chỉ tính từ
năm 2001 - 2010, diện tích trồng lúa giảm gần 370.000ha và tiếp tục giảm
mạnh trong 10 năm tiếp theo 2011 - 2020 do vẫn phải dành đất trồng lúa cho
cơng nghiệp hóa.
Bên cạnh đó, theo dự báo của tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam, trong
vòng 30 năm tới, Việt Nam là một trong 30 quốc gia “có nguy cơ rất lớn” do
các tác động của biến đổi khí hậu, trong đó 5,3% tổng diện tích đất của cả
nước có thể bị ngập lụt. Đây là khó khăn lớn cho vấn đề an ninh lương thực.
Dân số vẫn tiếp tục tăng, khả năng sẽ đạt gần 110 triệu vào giữa thế kỷ,
đòi hỏi tổng cầu về lương thực ngày càng lớn, trong khi đó tổng cung bị đe
dọa bởi thu hẹp diện tích, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, dịch bệnh tăng...
Hai là, phát triển hệ thống giáo dục phổ thông từ chiều rộng sang chiều
sâu. Trong thời kỳ “dân số vàng”, quy mô dân số độ tuổi đi học (5 - 24 tuổi)
đã giảm từ hơn 33,2 triệu người năm 1999 xuống còn khoảng 29,5 triệu năm
5
2013 và tiếp tục giảm trong các năm gần đây do mức sinh thấp. Ở phạm vi hộ
gia đình, số con mỗi cặp vợ chồng ít và trên phạm vi toàn quốc, áp lực dân số
lên hệ thống giáo dục phổ thông quốc gia giảm mạnh. Số học sinh phổ thông
giảm về số tuyệt đối tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục. Từ “đỉnh
điểm” trong năm học 2001 - 2002 với 17.875,6 nghìn học sinh, chỉ cịn
14.747,1 nghìn vào năm học 2012 - 2013, tức là giảm tới trên 3 triệu học sinh.
Với sự biến chuyển quy mô và cơ cấu dân số trong độ tuổi đi học, đòi hỏi
phải chuyển giáo dục từ bề rộng sang bề sâu là một “bài tốn khó” đặt ra hiện
nay của nền giáo dục Việt Nam.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm. Đặc
điểm nổi bật của dân số trong giai đoạn cơ cấu dân số “vàng” là tỷ lệ dân số
trong độ tuổi có khả năng lao động (15 - 64 tuổi) rất cao, dao động từ 66%
đến 70%. Trong đó, khoảng nửa dân số trong độ tuổi lao động dưới 34 tuổi sẽ
thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi
nghề. Đây là dư lợi lớn của “cơ hội dân số vàng” cho tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, lao động đông và tăng nhanh cũng tạo ra thách thức về nâng cao chất
lượng lao động, việc làm và việc làm có thu nhập cao. Cơ hội cơ cấu dân số
“vàng” chỉ xuất hiện một lần, mỏ vàng khơng khai thác thì cịn, cịn cơ cấu
“dân số vàng” khơng khai thác thì sẽ mất.
Bốn là, vấn đề an sinh cho người cao tuổi, xây dựng xã hội thích ứng với
dân số già. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009, nước ta có 72,5%
người cao tuổi sống ở nông thôn. Trong số người cao tuổi, đến năm 2015
cũng mới chỉ có khoảng 48,27% được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp xã hội
với mức thấp. Như vậy, vẫn còn hơn nửa số người cao tuổi hiện nay sống
bằng lao động của mình, bằng nguồn hỗ trợ của con cháu và gia đình. Trong
khi đó, ở nơng thơn, ruộng đất ít, năng suất, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm
phòng khi bất trắc ở tuổi già. Trong bối cảnh con ít và con cái di cư, sống xa
6
cha mẹ, chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi trở thành vấn đề lớn. Bên cạnh
đó, là sự khác biệt thế hệ, các thế hệ sinh ra và lớn lên trong các hoàn cảnh
kinh tế, xã hội khác nhau: Chiến tranh và hịa bình; kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp và kinh tế thị trường; nghèo đói và khá giả; đóng cửa và hội
nhập; nơng thơn và đơ thị hóa... là rất lớn. Nếu khơng giải quyết tốt sẽ nảy
sinh mâu thuẫn và xung đột thế hệ. Trong khi, sự chuẩn bị cho một xã hội có
dân số già chưa được kỹ càng cả về phương diện chính sách, luật pháp, cơ sở
vật chất, kỹ thuật và tâm lý xã hội.
Năm là, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ảnh hưởng đến sự tồn tại
và phát triển bền vững của xã hội, tất yếu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như: khó
khăn trong việc kết hơn và duy trì chế độ “một vợ, một chồng” vì tỷ lệ nam
nhiều hơn nữ. Điều đó có thể xảy ra tình trạng bất ổn xã hội như nam giới kết
hôn muộn, tranh giành trong hôn nhân, ra nước ngồi kết hơn... Nguy cơ lan
rộng các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục do tình trạng quan hệ tình dục
ngồi hơn nhân tăng lên, mại dâm khó kiểm sốt, du lịch tình dục phát triển,
nguy cơ lan rộng các bệnh lây truyền qua đường tình dục, trong đó có
HIV/AIDS tăng cao, do “khan hiếm” phụ nữ. Gia tăng tội phạm xã hội do nạn
lừa đảo, bắt cóc, bn bán phụ nữ, mại dâm.... Phụ nữ có thể bị ép buộc sinh
thêm con, phá thai nhi gái, bất chấp sức khỏe và tính mạng, bị ngược đãi, phụ
tình, ruồng bỏ khi khơng sinh được con trai. Trong khi đó, kỹ thuật hỗ trợ
sinh được con trai ngày càng phát triển và phổ biến, khó được kiểm sốt dẫn
đến những hệ lụy khơn lường do hậu quả của tình trạng mất cân bằng giới
tính khi sinh.
Sáu là, nâng cao chất lượng cuộc sống của người di cư. Do q trình
cơng nghiệp hóa và mở rộng kinh tế thị trường, số người đăng ký hộ khẩu nơi
này, cư trú nơi khác ngày càng lớn và phần lớn trong số họ phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức như: nhà ở, chỗ ở hợp pháp; thiếu thơng tin, ít
7
hiểu biết những kiến thức để bảo vệ chính mình. Nhiều cuộc điều tra cho
thấy, các khó khăn trên đã đến mức đáng báo động, nhất là ở các thành phố
lớn, trường đại học, các khu công nghiệp tập trung.
Bảy là, vấn đề lồng ghép yếu tố dân số vào kế hoạch hóa phát triển ở
nước ta đang ở giai đoạn đào tạo, nghiên cứu, thử nghiệm, sơ khai. Trong khi
đó, quy mơ, cơ cấu, phân bố dân số biến đổi nhanh. Điều này hạn chế tính
hiệu quả của các kế hoạch phát triển. Để cải thiện tình trạng này cần nâng cao
trình độ cán bộ kế hoạch, có bộ chỉ tiêu về dân số và phát triển, có cơ sở pháp
luật. Dân số và phát triển có mối quan hệ hai chiều chặt chẽ nên trong quá
trình kế hoạch hóa cần phải xem xét và tính tốn rõ ràng mối quan hệ nhân quả giữa dân số (quy mô, cơ cấu, phân bố, mức sinh, mức chết, di cư và chất
lượng dân số) và phát triển (kinh tế, xã hội, mơi trường...) trong tồn bộ các
bước: lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, theo dõi và đánh giá kế hoạch.
Hiện nay, mức sinh của Việt Nam giảm và đã đạt được mức sinh thay
thế một cách bền vững. Vì vậy, ngày 04-01-2016, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 119-KL/TW về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình”. Đây là kết luận
mới và rất quan trọng. Kết luận này được cụ thể một số nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển trọng tâm chính sách dân số, từ kế hoạch hóa gia đình
sang dân số và phát triển, nhằm “giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về
quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số”, với các nội dung
được Kết luận số 119-KL/TW chỉ rõ, như: Duy trì mức sinh thay thế; giảm
thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng
với q trình già hóa dân số; điều chỉnh phân bố dân số hợp lý và nâng cao
chất lượng dân số.
8
Như vậy, với mục tiêu giảm sinh thì nay, chính sách dân số mới với 6
nội dung, có phạm vi rộng lớn hơn nhiều so với trước đây là chỉ tập trung vào
nội dung kế hoạch hóa gia đình. Việc “chuyển trọng tâm chính sách dân số từ
kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển”, về bản chất là sự mở rộng
chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đây là một chủ trương mới và rất
lớn của Đảng, là một bước ngoặt lớn trong chính sách dân số của Việt Nam,
kể từ năm 1961 đến nay.
Thứ hai, chuyển trọng tâm sang dân số và phát triển, cơng tác kế hoạch
hóa gia đình được thực hiện theo phương thức mới và hồn tồn khơng phải
là “từ bỏ kế hoạch hóa gia đình. Ví như vẫn phải “duy trì mức sinh thay thế”
để trung bình số con của mỗi bà mẹ khoảng 2,0 - 2,1 con, thì khơng thể “từ bỏ
kế hoạch hóa gia đình” được. Do đó, việc truyền thơng, phương thức cung cấp
phương tiện, dịch vụ cũng phải được tăng cường và phù hợp giữa các địa
phương có mức sinh khác nhau như Kết luận số 119-KL/TW chỉ rõ: “Giảm
sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh cịn cao; duy trì kết quả đã đạt được
ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng
nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”.
Thứ ba, lồng ghép biến dân số vào kế hoạch hóa phát triển. Quy mô, cơ
cấu, phân bố dân số đã và đang có xu hướng biến đổi nhanh. Để bảo đảm
nguyên tắc con người là trung tâm của phát triển; để kế hoạch có tính thực
tiễn, hiệu quả cao, phải tổ chức tốt cơng tác dự báo dân số và tính đến yếu tố
dân số trong kế hoạch hóa phát triển. Trước hết là kế hoạch hóa lao động việc làm tận dụng cơ cấu dân số vàng; kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo; kế
hoạch hóa y tế cần tính đến cơ cấu dân số theo tuổi biến đổi nhanh, di cư;
chính sách an sinh xã hội cần tính đến già hóa dân số diễn ra nhanh.
Thứ tư, đẩy mạnh thông tin, giáo dục, truyền thông mà trọng tâm là “dân
số và phát triển”. Điều này không đơn giản, vì những tư duy kế hoạch hóa gia
9
đình trong hơn nửa thế kỷ qua, đã “ăn sâu” trong mỗi cặp vợ chồng, trong
từng gia đình và trong toàn xã hội. Thành tựu đạt mức sinh thay thế một cách
vững chắc; cơ cấu dân số thay đổi nhanh và đã hình thành cơ cấu dân số
“vàng”; già hóa dân số; mất cân bằng giới tính khi sinh; di dân, đơ thị hóa
ngày càng mạnh mẽ; tác động kinh tế - xã hội trong thời kỳ mức sinh thấp, gia
đình nhỏ, gia đình hạt nhân; các giải pháp nâng cao chất lượng dân số (yêu
cầu tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và sau
sinh,...) cần được thông tin, tuyên truyền rộng rãi không những cho người dân
mà còn cần cho cả cán bộ, nhất là các nhà hoạch định chính sách. Với những
nội dung trên, việc đa dạng hóa kênh truyền thơng, chuyển tải những thơng
điệp phù hợp tới từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền là yêu cầu cấp bách
hiện nay.
10
3. Kết luận
Cơng tác dân số là nhiệm vụ có tính chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu
dài; là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn dân. Chuyển trọng tâm chính sách dân
số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Cơng tác dân số phải
chú trọng tồn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng và đặt trong
mối quan hệ mật thiết với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh bảo
đảm phát triển nhanh và bền vững. Chính sách dân số phải bảo đảm giữa
quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng
cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm ký cương pháp luật; giữa
việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch
vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đầu tư cho công tác dân số
là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế bảo đảm nguồn lực cho công
tác dân số. Tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với trọng
tâm công tác dân số trong từng thời kỳ bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy đảng, chính quyền và thống nhất trong quản lý chuyên môn nghiệp vụ.
Do vậy, cần giải quyết tồn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mơ, cơ cấu,
chất lượng, phân bố dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát
triển kinh tế- xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính
khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng,
thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số, phân bố dân số hợp
lý góp phần phát triển nhanh và bền vững đất nước./.
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số văn kiện, Nghị quyết của Đảng về công tác dân số, kế hoạch – hố
gia đình Đảng.
2. Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về thanh
niên, Bộ Nội vụ.
3. Số liệu, báo cáo của Tổng cục thống kê về dân số, kế hoạch – hóa gia đình.
4. Bước ngoặt về chính sách dân số
/>5. Dân số và phát triển: Thách thức mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững của
Việt Nam.
/>6. Giáo trình và các tài liệu bài giảng của môn học.