MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU .....................................................................................................1
1.1. Lý do lựa chọn đề án.......................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu của đề án..............................................................................................3
1.3. Nhiệm vụ của đề án.............................................................................................4
1.4. Giới hạn đề án.....................................................................................................4
Phần 2. NỘI DUNG................................................................................................. 5
2.1. Căn cứ xây dựng đề án ......................................................................................5
2.1.1. Căn cứ khoa học ..............................................................................................5
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý............................................................................... 11
2.1.3. Cơ sở thực tiễn...............................................................................................13
2.2. Nội dung cơ bản của đề án ..............................................................................16
2.2.1. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án ...............................................16
2.2.2. Nội dung cụ thể đề án cần thực hiện............................................................. 21
2.2.3. Các biện pháp thực hiện trong đề án .............................................................22
2.3.Tổ chức thực hiện đề án....................................................................................25
2.3.1. Những thuận lợi và khó khăn........................................................................ 25
2.3.2. Các nguồn lực phục vụ thực hiện dự án ........................................................27
2.3.3. Tiến độ thực hiện đề án................................................................................30
2.3.4.Phân công trách nhiệm thực hiện đề án ..........................................................31
2.4. Dự kiến hiệu quả của đề án ............................................................................32
2.4.1. Sản phẩm của đề án.........................................................................................32
2.4.2. Tác động và ý nghĩa của đề án........................................................................32
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................34
3.1. Kết luận.............................................................................................................34
3.2. Kiến nghị...........................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................37
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC
ASEAN
ASEM
BQL
CNTT
ĐH
ĐTVNN
GD
GD&ĐT
HNQT
HTQT
LHS
ODA
TP. HCM
XHCN
WTO
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
Hiệp hội các qc gia Đông Nam Á
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu
Ban Quản lý
Công nghệ thơng tin
Đại học
Đào tạo với nước ngồi
Giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Hội nhập quốc tế
Hợp tác quốc tế
Lưu học sinh
Viện trợ phát triển chính thức
Thành phố Hồ Chí Minh
Xã hội chủ nghĩa
Tổ chức Thương mại Thế giới
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ ÁN
Ngày nay, khơng ai có thể phủ định vị trí và vai trò của hợp tác và hội nhập
quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của mỗi quốc gia. Đối với nước ta,
ngay từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, Đảng ta đã chú trọng
đến công tác hợp tác quốc tế, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ của các nước anh em
bạn bè thế giới để phát triển đất nước, trong đó có lĩnh vực giáo dục.
Công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt nở rộ
sau khi nước ta mở cửa nền kinh tế. Từ những năm cuối 1990, các trường đại học
Việt Nam bắt đầu hợp tác liên kết đào tạo với nước ngoài, các chương trình, dự án,
các hoạt động hợp tác quốc tế ngày càng được nâng cao về số lượng và quy mơ.
Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi nhanh và phức tạp như hiện nay,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu.
Năm 2016 là năm bản lề, đánh dấu giai đoạn mới về hội nhập quốc tế toàn
diện và sâu rộng hơn của Việt Nam tro ng bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi về
kinh tế và chính trị, trong đó ẩn chứa nhiều nhân tố khó lường có thể dẫn đến hệ lụy
cả ngắn hạn và dài hạn, tác động đến tất cả các nước và các khu vực trên thế giới.
Các liên kết kinh tế cả song phương lẫn đa phương liên tục được thành lập,
phát triển, khẳng định cho xu thế mới trong trào lưu tồn cầu hóa. Cuộc cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ sẽ thúc đẩy hiệu quả của các hoạt động
trên các ngành nghề, lĩnh vực góp phần phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia.
Tuy nhiên, thách thức về quản trị nhà nước, các vấn đề an ninh phi truyền thống, lao
động việc làm, an sinh xã hội, khoảng cách giàu nghèo cũng này sinh đòi hỏi Chính
phủ các nước triển khai các nghiên cứu để đưa ra các chính sách phù hợp, kịp thời
giải quyết các vấn đề đó.
Ở cấp độ tồn cầu, các nước trên thế giới bắt đầu triển khai các mục tiêu phát
triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030 trên các lĩnh vực như tăng trưởng
kinh tế bền vững và việc làm cho mọi người dân, khẩn trương hành động để ứng
phó với biến đổi khí hậu và các hệ lụy, tăng cường các biện pháp triển khai, làm
sống động quan hệ đối tác tồn cầu vì phát triển bền vững, xóa mọi hình thức nghèo
ở mọi nơi, bảo đảm sức khỏe, phúc lợi cho tất cả các lứa tuổi, bảo đảm giáo dục
chất lượng bao trùm, công bằng, cơ hội học tập suốt đời, giảm sự bất bình đẳng
trong từng quốc gia và giữa các quốc gia. Để đạt được các mục tiêu này, các quốc
gia, bên cạnh việc hợp tác chặt chẽ với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới,
cần lồng ghép các mục tiêu này trong các chính sách chiến lược và kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội.
Ở cấp độ khu vực, hội nhập ASEAN trong lĩnh vực văn hóa-xã hội được đẩy
mạnh với việc triển khai Kế hoạch hành động của Cộng đồng Văn hóa-Xã hội
ASEAN dựa trên 5 thành tố: Thu hút sự tham gia của người dân và mang lại lợi ích
thiết thực cho người dân; Đáp ứng tốt hơn lợi ích của người dân về phúc lợi, bảo trợ
xã hội, bình đẳng giới, quyền con người, giảm nghèo, y tế, việc làm, giáo dục và
thông tin; Cộng đồng bền vững; Cộng đồng tự cường; và Cộng đồng năng động.
Đây chính là cơ sở để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực trong lĩnh vực văn
hóa, xã hội.
Trong bối cảnh tình hình thế giới như vậy, việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, khoa học-công
nghệ, giáo dục, lao động, văn hóa, y tế là một nhiệm vụ quan trọng để bảo đảm hội
nhập toàn diện, bền vững. Đặc biệt hội nhập quốc tế về giáo dục đã và đang ngày
càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phương thức, đối
tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng. Việt Nam đã ký kết nhiều thỏa thuận,
hiệp định hợp tác về giáo dục, trao đổi giảng viên, sinh viên, công nhận văn bằng
với nhiều nước trên thế giới, đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng Cộng đồng
văn hóa-xã hội ASEAN, tham gia sâu rộng vào các thể chế, diễn đàn đa phương cấp
khu vực và toàn cầu như Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO); Tổ
chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam Á (SEAMEO), Tổ chức Bộ trưởng
Á-Âu, Tổ chức các nước Pháp ngữ (Francophonie), Mạng lưới các Trường đại học
Đông Nam Á (AUN)…
Tuy nhiên, mức độ tham gia và thực hiện các cam kết, tiêu chuẩn quốc tế
mặc dù gia tăng, nhưng về tổng thể còn hạn chế, chưa đồng bộ; còn nhiều vấn đề
phức tạp, khó khăn chưa được nghiên cứu và triển khai kịp thời. So với các nước
trong khu vực, mức độ công nhận của quốc tế về chất lượng nguồn nhân lực, chất
lượng đào tạo còn khiêm tốn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả
công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục giai đoạn 2016-2020 là vấn đề
có ý nghĩa cấp thiết.
Vì những lý do nêu trên, tôi xây dựng Đề án: “Nâng cao hiệu quả công tác
hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục giai đoạn 2016-2020” làm đề án tốt
nghiệp chương trình cao cấp lý luận chính trị.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
1.2.1.Mục tiêu chung
Đến năm 2020, giáo dục Việt Nam có một số cơ sở giáo dục đại học đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; sẽ tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục góp phần quan trọng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam thông qua học tập kinh nghiệm phát triển của nước ngoài,
khai thác hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ cho giáo dục, đặc biệt là về phát triển, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; đổi
mới nội dung, chương trình đào tạo tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của các nước;
tăng cường kiểm định chất lượng giáo dục tiến tới cơng nhận văn bằng, tín chỉ giữa
Việt Nam với các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới; nâng quy mô học
sinh, sinh viên, học viên gửi đi đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài, đồng thời thu
hút học sinh, sinh viên, học viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam; phát triển
dạy-học ngoại ngữ và bằng ngoại ngữ, ứng dụng CNTT.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ nay đến năm 2020, đề án được thực hiện sẽ từng bước đạt được những
mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, đề án sẽ góp phần thực hiện mục tiêu của hội nhập quốc tế về giáo
dục hướng tới mục tiêu đưa giáo dục Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, vững
chắc hơn về chất lượng, đảm bảo phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, phục vụ mục
tiêu chính trị cơ bản của Đảng và nhân dân ta. Theo đó, hợp tác và hội nhập quốc tế
về giáo dục không tách rời mục tiêu giữ vững chủ quyền quốc gia, định hướng
XHCN “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; phát triển con
người tồn diện, có năng lực thích ứng với tình hình mới.
Thứ hai, trong bối cảnh tồn cầu hóa mạnh mẽ, hội nhập quốc tế về giáo dục
góp phần đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để
phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội. Hợp tác và hội
nhập quốc tế hiệu quả trong giáo dục sẽ từng bước nâng cao trình độ, năng lực cạnh
tranh của nhân lực Việt Nam tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, thậm
chí tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới và có khả năng cạnh trạnh với
lao động các quốc gia này.
Thứ ba, hội nhập quốc tế về giáo dục góp phần đưa nền giáo dục Việt Nam
tiến gần hơn tới các nền giáo dục chất lượng cao trong khu vực ASEAN, cụ thể hóa
chủ đề “Giáo dục-Niềm hy vọng phát triển trong tương lai” mà Diễn đàn Giáo dục
ASEAN đã đặt ra, cũng như hướng tới mục tiêu đưa ASEAN trở thành một tổ chức
có chung một Bản sắc, một Tầm nhìn và một Cộng đồng (one Identity, one Vision,
one Community).
Thứ tư, nâng cao hơn nữa hiệu quả trong hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo
dục trong giai đoạn 2016-2020 sẽ có những đóng góp quan trọng trong việc thực
hiện các mục tiêu trong Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
Các nhiệm vụ chính của đề án được xác định bao gồm:
- Đánh giá sơ lược thực trạng công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong
giáo dục nhằm chỉ ra những thành tựu và hạn chế còn tồn tại;
- Đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác hợp tác và
hội nhập quốc tế trong giáo dục;
- Đề xuất lộ trình và nguồn kinh phí thích hợp đối với từng hoạt động;
- Đưa ra các khuyến nghị hợp lý và kịp thời đối với các tổ chức tham gia
thực hiện dự án.
1.4. GIỚI HẠN ĐỀ ÁN
1.4.1. Đối tượng tác động
Các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam.
1.4.2. Không gian thực hiện
Trong phạm vi ngành Giáo dục và Đào tạo.
1.4.3. Thời gian thực hiện
Đề án được thực hiện từ năm 2016 đến năm 2020.
Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1. Căn cứ khoa học
2.1.1.1 Một số khái niệm cơ bản trong đề án
Nguồn nhân lực
Khái niệm "nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm
"nguồn lực con người". Khi được sử dụng như một công cụ điều hành, thực thi
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có
tham gia lao động - hay cịn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao
động gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu
lao động được gọi là lực lượng lao động. Tuy nhiên, nguồn nhân lực không bao chỉ
bao gồm số lượng mà bao gồm các yếu tố khác như được trình bày trong các khái
niệm dưới đây.
Theo Liên hợp quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và
năng lực của tồn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế, hoặc tiềm năng để phát
triển kinh tế-xã hội trong một cộng đồng”1
Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ q trình chun mơn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong
tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư
trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai” 2
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các
mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng
được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH”.3
Như vậy, nguồn nhân lực có thể được hiểu là nguồn lực con người của một
quốc gia hay một vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định đang và có khả năng
tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là
lực lượng lao động mà một quốc gia sở hữu, bao gồm số người trong độ tuổi lao
1
World Bank (2000), World Development Indicators. - London: Oxford
David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbush (2008), Economics, Mc Graw-Hill Higher Education
3
GS.VS Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội
2
động, có khả năng lao động. Ở góc độ rộng hơn, nguồn nhân lực là tồn bộ q
trình chun mơn mà con người tích luỹ được và có khả năng đem lại thu nhập
trong tương lai.
Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực được hình thành từ sự phát triển ở mức độ cao về
thể lực và trí lực của con người.
Thể lực của nguồn nhân lực được hiểu bao gồm sức khỏe thể chất và sức
khỏe tinh thần. Thể lực là nền tảng cơ bản đảm bảo cho con người có cuộc sống
khỏe mạnh và trường thọ cũng như có khả năng đóng góp vào q trình phát triển
của đất nước thông qua việc cúng ứng sức lao động. Thể lực tốt là lợi thế cho phát
triển trí lực.
Trí lực của nguồn nhân lực bao gồm trình độ văn hóa, chun mơn kỹ thuật
và kỹ năng lao động thực hành của người lao động. Trí lực được coi là yếu tố quyết
định trong sự phát triển nguồn nhân lực do nó quyết định phần lớn khả năng lao
động sáng tạo của con người.
Một số nghiên cứu cũng đề cập tới vai trò của yếu tố tâm lực hay phẩm chất
tâm lý xã hội. Tâm lực được hiểu là ý thức trong lao động thể hiện thông qua tác
phong và tinh thần làm việc (tuân thủ giờ giấc quy định, tự giác cao, năng động, có
khả năng thích nghi với các môi trường làm việc khác nhau…..).
Như vậy, không phải lao động nào đã qua đào tạo đều được xem là nhân lực
chất lượng cao. Nguồn nhân lực chất lượng cao trước hết bao gồm những người có
năng lực chun mơn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao, có năng lực thực tế tạo
nên kết quả cao và vượt trội trong cơng việc, có năng lực cạnh tranh, có đóng góp
thực sự hữu ích cho xã hội. Nhân lực chất lượng cao cũng cần có (i) khả năng sáng
tạo, (ii) khả năng thích ứng nhanh với mơi trường lao động và với tiến bộ khoa học
công nghệ mới, (iii) tinh thần kỷ luật, ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ, kỹ
năng làm việc nhóm...
Hợp tác quốc tế trong giáo dục
Theo UNESCO, hợp tác quốc tế về giáo dục không chỉ được hiểu đơn thuần
là việc chuyển giao các nguồn lực và bí quyết kỹ thuật mà cịn là việc học hỏi lẫn
nhau và chia sẻ kinh nghiệm giữa các quốc gia, tổ chức trong lĩnh vực giáo dục.
Hợp tác quốc tế cần được xem như một kết nối cùng có lợi giữa các đối tác, nhằm
mục đích nâng cao năng lực của họ để theo đuổi các mục tiêu giáo dục nhất định.
Hợp tác quốc tế cũng không nên được hiểu một cách giới hạn giữa chính phủ các
quốc gia. Thực tế đa dạng của các hoạt động hợp tác, trao đổi giáo dục cho thấy vai
trò của nhiều đối tượng từ cấp cơ sở đến cấp quốc gia và quốc tế.
Hội nhập quốc tế trong giáo dục
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng
nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration
internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực
chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu
Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự
hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến
tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về
khái niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho
rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một q trình. Sản
phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ.
Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các
khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước
hết là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương
mại, đầu tư, thư tín, thơng tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các
cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an
ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh
đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập
vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các
nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân cơng lao
động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ
khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham
gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác.
Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội
nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập
kinh tế quốc tế.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn khơng có một định nghĩa nào về khái niệm
“hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hồn tồn trong giới học thuật và cả giới
làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu
chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ
chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở
cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa,
cơ lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc
tế” đều chưa đầy đủ và thiếu chính xác.
Theo TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao, cách tiếp cận phù hợp nhất là
xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm tồn diện và thường xun
vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là
quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa
trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt
chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức
quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi
ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên
sự hợp tác quốc tế thơng thường: nó địi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ
thể tham gia. Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của
quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam
kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng
tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh
tế, chính trị, an ninh-quốc phịng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có
thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm
vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực,
liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
Hội nhập quốc tế về giáo dục là quá trình mở cửa, trao đổi giáo dục, tri thức,
con người với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần, kiến thức với thế
giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn
hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã
hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một
cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ,
tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các
hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-xã hội với các nước.
Hội nhập văn hóa-giáo dục-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm
sâu sắc quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền
vững hơn cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày càng
gần gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư duy và hành
động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các chính sách xã hội
của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi nước được thụ
hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa và tri thức của nhân loại; đặc biệt, hình thành và
củng cố tình cảm gắn bó thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc gia của
riêng mình (ý thức cơng dân khu vực/tồn cầu).
2.1.1.2. Vai trò của hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục đối với quá trình
xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao
Sở hữu nguồn nhân lực chất lượng cao là mục tiêu của tất cả quốc gia trên
thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, điều này khó có thể đạt
được nếu thiếu các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục.
Thứ nhất, q trình cơng nghiệp hóa, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng từ thế kỷ XIX tới nay đã khiến nền sản xuất thế giới chuyển dịch mạnh
mẽ từ chỗ dựa chủ yếu vào nông nghiệp đi kèm với hoạt động gia công, chế biến
thô, giá trị gia tăng thấp sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại và xa hơn là nền
kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về kỹ năng và trình độ lao động cũng có
sự chuyển biến mạnh mẽ. Nếu không đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, nguồn nhân lực Việt Nam có nguy cơ tụt hậu nhanh chóng so với
chuẩn kỹ năng, kiến thức mà thị trường lao động tồn cầu địi hỏi.
Thứ hai, so với các quốc gia phát triển có thu nhập cao, các quốc gia đang
phát triển thường phải đối mặt với sự thiếu hụt nguồn lực phục vụ giáo dục, đào tạo.
Ngoài vốn vật chất, yếu tố không thể thiếu giúp cải thiện nhanh chóng chất lượng
lao động là tri thức và cơng nghệ hiện đại. Tuy nhiên, các nguồn lực này lại chủ yếu
sẵn có tại các quốc gia phát triển. Vì thế, q trình hợp tác quốc tế về giáo dục
chính là cơ hội tiếp cận và gia tăng nguồn lực phục vụ giáo dục, đảm bảo mục tiêu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Như vậy, hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục để góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn lực con người và từ đó sẽ góp phần
to lớn phát triển xã hội, quốc gia-dân tộc.
2.1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả trong công tác hợp tác và hội nhập
quốc tế trong giáo dục
Yếu tố văn hóa- thể chế
Giáo dục và cải thiện chất lượng lực lượng lao động là một bộ phận trong
tổng thể q trình phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, công tác hợp tác và hội nhập
quốc tế trong giáo dục phải tuân thủ những định hướng, chiến lược mà mỗi quốc gia
lựa chọn cho mỗi chặng đường phát triển.
Thứ nhất, công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục không thể
vượt khỏi khuôn khổ xác định bởi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành về giáo dục và hợp tác giáo dục. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế ngày càng
mở rộng, công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục cũng đồng thời phải
tuân thủ các quy định của tổ chức mà quốc gia đó là thành viên, đặc biệt là các cam
kết về hàng hóa dịch vụ và di chuyển thể nhân. Do đó, hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật chặt chẽ và đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ loại bỏ những
lực cản, tạo động lực tích cực cho các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong
giáo dục phát triển.
Thứ hai, công tác hợp tác và hội nhập quốc tế phải đảm bảo hướng tới các
mục tiêu chung của tồn ngành giáo dục nói riêng và của đất nước nói chung. Một
hệ thống thể chế coi trọng vai trị của giáo dục, có định hướng phù hợp với xu
hướng chung của thế giới sẽ giúp các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong
giáo dục đi đúng hướng, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội qua từng thời kỳ.
Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế được hiểu bao gồm nguồn lực kinh tế, nguồn lực con người và
công nghệ phục vụ cho các hoạt động hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
giáo dục. Đối với các quốc gia đang phát triển, hội nhập và quốc tế hóa giáo dục
trước hết địi hỏi có sự điều chỉnh mang tính hệ thống (cơ sở đào tạo, người học,
phương pháp giảng dạy và đánh giá….) nhằm tuân thủ các chuẩn mực chung của
thế giới. Quá trình này ln cần tới một lượng nguồn lực kinh tế không nhỏ. Mặt
khác, trong kỷ nguyên kỹ thuật số, sự hạn chế về mặt tiếp cận và ứng dụng công
nghệ cũng là một trong những rào cản quan trọng khiến công tác quảng bá, kết nối
và chia sẻ thông tin trong lĩnh vực giáo dục trở nên kém hiệu quả. Vì thế, hợp tác và
hội nhập quốc tế trong giáo dục cần rất linh hoạt về mặt hình thức để phù hợp với
các điều kiện nguồn lực sẵn có mà vẫn đảm bảo được hiệu quả ở mức độ cao nhất.
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý
Đề án được xây dựng trên các cơ sở chính trị và pháp lý sau:
2.1.2.1. Căn cứ chính trị
Bước sang thế kỷ XXI, các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã cho thấy
sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và định hướng phát triển đất nước. Trong đó,
sự cần thiết phải hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của quốc gia luôn được nhấn mạnh. Điều này được thể hiện rõ qua
một số các định hướng và văn bản của Đảng và Chính phủ từ đầu những năm 2000
tới nay.
Về định hướng chung, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra chủ trương
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Nghị quyết
số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế; Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”; Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
05/02/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Riêng đối với lĩnh vực giáo dục, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI đã khẳng định nhiệm vụ “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây
dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 mà chính phủ Việt Nam đưa
ra cũng nhấn mạnh “phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược”. Cụ thể hơn, Chiến lược phát triển
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đặt ra mục tiêu “đưa nhân lực Việt Nam trở
thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập
quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta
lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận
trình độ các nước phát triển trên thế giới”.
Hướng tới mục tiêu chung nêu trên, Chiến lược phát triển giáo dục 20112020 chỉ rõ định hướng hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và
phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng chung của hội nhập giáo dục là mở rộng giao lưu hợp tác với các nền
giáo dục trên thế giới nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại, trên cơ sở đó,
phát hiện và khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
Gần đây nhất, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế một lần nữa
nhấn mạnh hội nhập quốc tế là một trong chín giải pháp góp phần giúp nền giáo dục
Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Mặt khác, trên bình diện thế giới, hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế
không thể đảo ngược. Việt Nam đã tham gia và trở thành thành viên của hầu hết các
tổ chức quốc tế và khu vực như: ASEAN, ASEM, APEC và WTO. Hội nhập quốc
tế về giáo dục là một bộ phận quan trọng, khơng thể tách rời trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Dù đạt được những thành tựu đáng kể trong phổ cập giáo dục, chất lượng
giáo dục ở Việt Nam còn nhiều hạn chế so với khu vực và thế giới. Vì thế, để bắt
kịp với trình độ phát triển của thế giới về giáo dục, Việt Nam cần chủ động hội nhập
quốc tế để học tập và phát triển phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thế giới và
của khu vực, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
2.1.2.2. Cơ sở pháp lý
Các định hướng và văn bản của Đảng và Chính phủ về giáo dục trong thời kỳ
mới và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đã được cụ thể hóa thơng qua các
văn bản pháp lý sau:
- Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI ngày
04/11/2013 về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
- Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ Ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW;
- Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc
tế và Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 do Chính phủ ban hành về Chương
trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW;
- Quyết định số 2448/QĐ-TTg ngày 16/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020;
- Quyết định số 2653/QĐ-BGDĐT ngày 25/7/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch hành động của ngành giáo dục triển khai chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW.
- Chỉ thị số 15/CT-TTG ngày 07/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục
triển khai Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế;
- Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược tổng thể Hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030;
- Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án xây dựng và triển khai Kế hoạch thực hiện các mục tiêu của Cộng đồng
Văn hóa – Xã hội ASEAN đến năm 2025.
2.1.3. Cơ sở thực tiễn
2.1.3.1. Bối cảnh quốc tế
Hiện nay, Giáo dục Việt Nam phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay
đổi nhanh và phức tạp. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành xu thế tất
yếu. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0), sự phát triển thần tốc
của công nghệ thông tin và truyền thông, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của kinh
tế tri thức đang tác động trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo dục trên thế
giới. Việc mở rộng quan hệ, tiếp thu kinh nghiệm, tìm kiếm đối tác, tranh thủ sự hỗ
trợ của các nước tiên tiến và các tổ chức quốc tế là một xu thế lớn của thế giới hiện
đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Tuy
nhiên, trong q trình đó, các nước đang phát triển cũng gặp khơng ít khó khăn,
thách thức về thị trường, vốn, trình độ quản lý, trình độ khoa học và cơng nghệ,
buộc phải nhanh chóng đổi mới một cách tồn diện cả về phương thức lãnh đạo,
quản lý, xây dựng định hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để rút ngắn
khoảng cách phát triển. Do đó, ngày nay, HNQT là lựa chọn chính sách của hầu hết
các quốc gia để phát triển.
Không nằm ngoài xu thế trên, hợp tác quốc tế về giáo dục thế giới hiện nay
đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, cao hơn và phức tạp hơn: hội nhập
quốc tế về giáo dục. Như Hội nghị thế giới về giáo dục đại học, tổ chức vào tháng
7/2009 tại UNESCO Paris nhận định, giáo dục đại học đang chuyển động dưới tác
động của những động lực mới như: sự gia tăng nhu cầu nhập học, sự đa dạng hoá
các loại trường và nguồn cung ứng, sự hợp tác giữa các nhà truờng, tồn tại các nhu
cầu học tập suốt đời, sự tác động của công nghệ thông tin và truyền thông, trách
nhiệm xã hội của các trường đại học, và sự thay đổi trong vai trị của chính phủ. Về
cơ bản các động lực này là biểu hiện cụ thể của một thế giới tồn cầu hố trong giáo
dục đại học, nơi các rào cản về địa lý, kinh tế và chính trị đang dần được dỡ bỏ. Nói
cách khác, sân chơi giáo dục trở thành nơi mọi người đều có thể học hỏi kiến thức,
phát triển kỹ năng, và mọi quốc gia, tổ chức đều có thể tham gia cung ứng giáo dục
trên tinh thần vừa hợp tác vừa cạnh tranh bình đẳng.
Một quá trình khác song hành với hợp tác quốc tế về giáo dục là quốc tế hoá
giáo dục. Quốc tế hoá giáo dục hay giáo dục xuyên biên giới là quá trình hội nhập
quốc tế về giáo dục trong đó các yếu tố quốc tế và đa văn hố được tích hợp vào
chức năng, nhiệm vụ, cách thức cung ứng và tiến trình tổ chức thực hiện giáo dục.
Quá trình này hiện đang diễn ra chủ yếu thông qua sự dịch chuyển qua biên giới của
bốn nhân tố cơ bản: người học, nhà giáo, chương trình giáo dục và nhà cung ứng
dịch vụ giáo dục.
Quốc tế hóa giáo dục hay giáo dục xuyên biên giới hiện phát triển mạnh mẽ
với hai đặc trưng cơ bản: (1) bên cạnh sự dịch chuyển xuyên biên giới vốn có từ lâu
của người học và nhà giáo, đã hình thành và tăng cường việc dịch chuyển xuyên
biên giới của chương trình giáo dục và nhà cung ứng giáo dục; (2) bên cạnh sự dịch
chuyển xuyên biên giới theo cơ chế phi thương mại (thông qua hợp tác quốc tế với
các dự án ODA và hợp tác đào tạo) đã hình thành và phát triển sự dịch chuyển
xuyên biên giới theo cơ chế thương mại. Hai cơ chế này có quan hệ mật thiết với
hai tổ chức quốc tế hàng đầu trong tiến trình quốc tế hố giáo dục là UNESCO và
WTO. Hai tổ chức này đều coi giáo dục là động lực quan trọng và vì vậy đều đặt ra
nhiệm vụ phải đẩy mạnh q trình quốc tế hóa giáo dục. Tuy nhiên, UNESCO
hướng tới việc thúc đẩy giáo dục xuyên biên giới thơng qua các hoạt động khơng
nhằm mục đích lợi nhuận trong khi WTO lại coi giáo dục là dịch vụ thương mại và
vì vậy giáo dục xuyên biên giới là nhằm mục đích lợi nhuận cũng như chịu sự điều
chỉnh của các thỏa thuận hay cam kết trong khuôn khổ WTO. Nói cách khác, giáo
dục khơng chỉ có chức năng đào tạo và tạo phúc lợi xã hội, mà còn có các chức
năng kinh tế, kết nối xã hội, và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế.
2.1.3.2. Bối cảnh trong nước
Sau 30 năm Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh
tế quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như: gia tăng thu nhập bình quân
đầu người, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển
dịch theo hướng tăng tỉ trọng của công nghiệp- dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp;
tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội
được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân; đầu tư cho cơ sở hạ
tầng có tiến bộ; năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên. Tổng kết 5 năm triển khai
Nghị quyết 08/TW cũng cho thấy, Việt Nam đã đạt được các thành tựu to lớn trong
lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế ở các khía cạnh kinh tế xã hội khác nhau, đặc biệt
trong việc tận dụng các cơ hội sau khi gia nhập WTO.
Trong lĩnh vực giáo dục, Luật giáo dục năm 2005, Luật giáo dục đại học năm
2012 và Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26/9/2012 đã quy định một số nội dung
quan trọng cho hợp tác quốc tế như các mục tiêu hoạt động hợp tác quốc tế, các
hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học, hoạt động liên kết đào tạo với
nước ngoài trong giáo dục đại học, và trách nhiệm của Nhà nước về hợp tác quốc
tế…Tuy nhiên, thực tế đào tạo trong nước hiện nay cho thấy các chương trình liên
kết đào tạo với nước ngồi cũng như các chương trình đào tạo của các cơ sở giáo
dục nước ngoài ở Việt Nam vẫn chưa thực sự có sức lan tỏa, góp phần làm thay đổi
các chương trình đào tạo trong nước. Trong khi đó, hầu hết các cơ sở giáo dục hiện
nay ở Việt Nam vẫn chưa có quan hệ chặt chẽ với thực tiễn và doanh nghiệp. Ngồi
ra, trình độ giảng viên và cơ sở vật chất tại các cơ sở giáo dục của Việt Nam hiện
nay cịn ở mức thấp. Trình độ lao động của Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu
cầu của thị trường quốc tế và người sử dụng lao động nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam. Những thực tế này đặt ra yêu cầu cần phải thúc đẩy mạnh mẽ hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực giáo dục của Việt Nam.
Theo định hướng của Đảng và Chính phủ, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu và
rộng với khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế ở Việt Nam cũng được gắn với
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, trong đó khẳng định phấn đấu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính
trị-xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao;
tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. Chiến lược cũng đã
xác định rõ một trong ba đột phá là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới vì vậy sẽ tạo ra
nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh nhiều thách thức đối với
sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà.
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
2.2.1. Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong đề án
2.2.1.1. Nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam giai đoạn 20162020
Để tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, việc phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng. Quy hoạch phát triển nhân lực
Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 được phê duyệt theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg
ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ đã thể hiện rõ tầm nhìn dài
hạn và bước đi phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn, gắn với yêu cầu của hội
nhập quốc tế với những mục tiêu cụ thể về cơ cấu lao động và bậc đào tạo. Cụ thể,
đến năm 2020, nước ta cần có 63 triệu người lao động làm việc trong nền kinh tế,
trong đó 44 triệu người được đào tạo, chiếm 70% tổng số lao động. Số lao động có
trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học trong tổng số lao động được đào tạo cần
đạt 18,7% vào năm 2020.
Kế hoạch kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 đặt mục tiêu tăng trưởng
kinh tế bình quân từ 6,5% - 7%/năm; việc làm tăng bình quân 0,7 triệu việc
làm/năm, tương đương 1,3%/năm. Kết quả là năng suất lao động dự kiến tăng ở
mức bình quân khoảng 6%/năm. Trong bối cảnh năng suất lao động tại Việt Nam
mới chỉ ở mức thấp trong khu vực châu Á, các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế đòi
hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải được cải thiện theo hướng tiệm cận với chuẩn
của thế giới.
Người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thơng minh và sáng tạo, nhạy
bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức. Tuy vậy, xét về mặt chất lượng, nguồn nhân
lực nước ta còn khá nhiều hạn chế. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,39 trên 10 điểm, trong khi Hàn Quốc
là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94… Phần lớn lực lượng lao
động của nước ta là lao động phổ thông, số lao động được đào tạo chuyên mơn cịn
thấp, thợ lành nghề ít… Theo kết quả khảo sát “Thiếu hụt lao động kỹ năng ở Việt
Nam” do Viện Khoa học lao động và xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội phối hợp với tập đoàn Manpower tiến hành tại 6.000 doanh nghiệp thuộc 9
lĩnh vực kinh tế tại 9 tỉnh, thành phố ở Việt Nam cho thấy: có khoảng 25% doanh
nghiệp tham gia khảo sát cho rằng lao động thiếu hiểu biết về công nghệ và khả
năng sáng tạo; 20% đánh giá lao động thiếu khả năng thích nghi với cơng nghệ mới;
trên 30% doanh nghiệp khơng tìm được lao động có kỹ năng mà họ cần. Các con số
này cho thấy còn tồn tại một khoảng cách khá lớn giữa cung lao động (sản phẩm
của quá trình giáo dục, đào tạo) và nhu cầu thị trường lao động trong nước cũng như
khu vực.
2.2.1.2. Thực trạng công tác hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục
Một số thành tựu trong hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục
Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong lĩnh vực hội nhập quốc tế
về giáo dục. Trong thập niên 90, Việt Nam đã tiến hành mở rộng các quan hệ hợp
tác quốc tế về giáo dục với các đối tác truyền thống, có quan hệ chặt chẽ với Nga,
Trung Quốc, Đức... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về giáo dục với
khoảng 100 nước và vùng lãnh thổ; đã ký kết và đang thực hiện hàng trăm văn bản
hợp tác giáo dục cấp Chính phủ và cấp Bộ; đang là thành viên chính thức và khơng
chính thức của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực về giáo dục.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm 2008 đến hết năm 2015,
đã có gần 150 điều ước, thỏa thuận quốc tế về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục được
ký kết và thực hiện. Ở quy mô quốc gia, Việt Nam đã tổ chức nhiều diễn đàn giáo
dục quốc tế, làm điểm đến thu hút đầu tư giáo dục của nhiều nước, nhiều tổ chức.
Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam
Á (SEAMEC 40) năm 2005 và SEAMEC 47 tháng 3 năm 2013. Cùng với Cộng hòa
Liên bang Đức, Việt Nam là nước đồng sáng lập Hiệp hội Bộ trưởng Giáo dục ÁÂu (ASEMME) và đã tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng ASEMME 2 năm
2009 tại Hà Nội. Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đăng cai nhiều hội nghị, hội
thảo, diễn đàn, triển lãm giới thiệu giáo dục lớn như Triển lãm giáo dục và đào tạo
nghề trong khuôn khổ Hội nghị các Bộ trưởng APEC về nguồn nhân lực (2014),
Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học Việt Nam-Nhật Bản (2009, 2012, 2015),
Việt Nam-Hungary (2016), Diễn đàn-Triển lãm giáo dục Việt Nam-Đài Loan
(2015), Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu (2016),... Việt Nam cũng tham gia nhiều
chương trình phát triển giáo dục của cộng đồng ASEAN và SEAMEO,…Tiếng nói
của Việt Nam trên diễn đàn giáo dục ASEAN và quốc tế vì vậy ngày càng có uy tín.
Việt Nam đã tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức giáo dục quốc tế
như Tổ chức Đảm bảo chất lượng quốc tế (INQAAHE), Mạng lưới đảm bảo chất
lượng chất lượng Châu Á-Thái Bình Dương (APQN), Mạng lưới các tổ chức đảm
bảo chất lượng Đông Nam Á (AQAN), Cơ quan đảm bảo chất lượng của Mạng lưới
các trường đại học Đông Nam Á.
Nhiều mơ hình hợp tác song phương về giáo dục giữa Chính phủ Việt Nam
và Chính phủ các quốc gia đối tác đã đem lại những mơ hình đào tạo chất lượng cao
như Trường Đại học Việt-Đức, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội
(hợp tác với chính phủ Pháp), Trường Đại học Việt-Nhật. Những dự án này đang và
sẽ có đóng góp quan trọng để giáo dục đại học Việt Nam hội nhập cao với các nền
đại học tiên tiến trên thế giới.
Ở quy mô cơ sở đào tạo, quan hệ hợp tác song phương giữa các trường đại
học, viện nghiên cứu với nhiều hình thức khác nhau: trao đổi học thuật, trao đổi
sinh viên, giáo viên, nghiên cứu khoa học, liên kết đào tạo ..... Ví dụ, Đại học Quốc
gia Hà Nội, một trong các trường đại học lớn nhất của cả nước đã ký kết hợp tác với