Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch môn xã hội học phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.4 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo đã trở thành những vấn đề nổi cộm
mà ai cũng cảm nhận được. Nó diễn ra giữa các vùng, miền khác nhau, giữa khu
vực thành thị và nông thôn..., thậm chí trong nội bộ một giai cấp, trong cùng một
nghề nghiệp hay giữa các hộ gia đình.
Phân tầng xã hội là một nội dung hết sức quan trọng trong các nội dung
nghiên cứu về cơ cấu xã hội cũng như những vấn đề khác của xã hội học. Trong
đời sống xã hội, hầu hết các khía cạnh của mỗi con người đều trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến vị trí của họ trong thang bậc xã hội. Phân tầng xã hội cũng là vấn
đề được quan tâm nghiên cứu và kiến giải dưới con mắt của nhiều nhà xã hội học
theo các trường phái khác nhau trong lịch sử. Những quan điểm này cho thấy
những kiến giải từ các cách tiếp cận khác nhau, nhìn nhận phân tầng xã hội từ các
nguồn gốc khác nhau, do đó họ cũng đánh giá vấn đề này theo các xu hướng đối
lập nhau – hoặc tích cực, hoặc tiêu cực, hoặc ơn hịa hơn với nó.
Tuy nhiên, các cách lý giải này trong lịch sử dường như chưa giải tích thỏa
mãn vấn đề nghiên cứu, chưa đi đến cùng bản chất của phân tầng xã hội và do đó
chưa thực sự đem lại cái nhìn khách quan, tồn diện và đúng đắn về phân tầng xã
hội.
Trên cơ sở tổng tích hợp các lý thuyết, các quan điểm về phân tầng xã hội
trong lịch sử, bằng những nghiên cứu khoa học công phu, sáng tạo và nghiêm túc
của mình, các nhà xã hội học Việt Nam đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện lý
thuyết về phân tầng xã hội. Qua đó, lý giải một cách thỏa đáng tất cả các chiều
cạnh của vấn đề nghiên cứu. Lần đầu tiên trong lịch sử, các khái niệm phân tầng xã
hội, phân tầng xã hội hợp thức, phân tầng xã hội không hợp thức được đề cập, kiến
giải một cách đầy đủ, chặt chẽ, đem lại cái nhìn mới mẻ, đậm chất xã hội học
nhưng cũng rất thực tiễn về vấn đề này. Nó khơng chỉ mở ra cho các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội một cách tiếp cận và nghiên cứu mới về phân tầng xã hội, mà
còn là gợi ý hết sức đáng lưu tâm cho các nhà lãnh đạo, quản lý trong việc hướng

1



tới xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên
cơ sở xây dựng một xã hội dựa trên sự phân tầng hợp thức.
Bài thu hoạch xin được trình bày một số vấn đề về phân tầng xã hội, phân
biệt phân tầng xã hội hợp thức với phân tầng xã hội không hợp thức, trên cơ sở đó,
bước đầu khuyến nghị các vấn đề liên quan đến xây dựng một xã hội trên cơ sở
phân tầng xã hội hợp thức ở nước ta.

2


NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM PHÂN TẦNG XÃ HỘI
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phân tầng xã hội trong lịch sử, trong đó
đáng chú ý là quan điểm của các nhà xã hội học:
Phân tầng xã hội là sự phân chia nhỏ xã hội thành các tầng lớp khác nhau về
địa vị kinh tế, địa vị chính trị, học vấn, kiểu dáng nhà ở, nơi cư trú, phong cách
sinh hoạt, cách ứng xử, sở thích nghệ thuật. Đây là một trong những khái niệm cơ
bản của xã hội học. Đó là một khái niệm để chỉ sự phân chia các cá nhân hay các
nhóm xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Mỗi tầng bao gồm các cá nhân, các
nhóm xã hội có địa vị kinh tế, chính trị, uy tín giống nhau. Phân tầng xã hội diễn ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa, v.v..
Khi nói đến phân tầng xã hội, các nhà xã hội học đề cập đến bất bình đẳng
xã hội, coi đó như một yếu tố cơ bản cho việc hình thành nên sự phân tầng xã hội.
Một số tác giả lưu tâm đến sự biến đổi hình thức của phân tầng xã hội, và cho rằng
điều đó phụ thuộc vào tính chất "mở" của hệ thống xã hội. Một số tác giả khác
quan tâm đến sự phân phối khơng đồng đều các lợi ích giữa các thành viên trong xã
hội, coi đó là nguyên nhân dẫn tới sự phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội và bất
bình đẳng xã hội có mối quan hệ mật thiết. Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân
tầng xã hội là kết quả. Sự không ngang nhau về mọi lĩnh vực giữa các cá nhân

trong xã hội dẫn đến cơ hội và lợi ích của các cá nhân là khơng như nhau, từ đó dẫn
đến việc các cá nhân hay các nhóm xã hội có cùng chung lợi ích sẽ tập hợp lại
thành một nhóm. Nhiều nhóm có cơ hội và lợi ích khác nhau ra đời. Có nhóm lợi
ích và cơ hội nhiều, có nhóm thì ít, từ đó dẫn đến phân tầng xã hội.
Phân tầng xã hội khơng có ý nghĩa tuyệt đối. Do vị thế xã hội của các nhân
có thể thay đổi, từng ngày, từng giờ, có cá nhân hơm nay thuộc tầng lớp này, mai
lại thuộc tầng lớp khác. Bởi vì cơ hội và lợi ích của họ khơng cịn nằm trong tầng
lớp đó nữa.

3


Trên cơ sở tập hợp, phân tích, tuyển lựa và tiếp thu 1 cách có phê phán
những quan niệm nói trên, các nhà xã hội học Việt Nam đã đưa ra quan niệm sau:
Phân tầng xã hội là sự phân chia, sự sắp xếp và hình thành cấu trúc các tầng
xã hội (bao gồm cả sự phân loại, xếp hạng). Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế
hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín cũng như sự
khác nhau về trình độ học vấn, loại và trình độ nghề nghiệp, phong cách sinh hoạt,
cách ăn mặc, kiểu nhà ở, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, trình độ tiêu dùng,…
Phân tầng xã hội là một “cấu trúc tầng bậc” của xã hội. Cấu trúc “tầng bậc”
là một thuộc tính phổ biến của mọi khách thể vật chất, tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phân tầng xã hội chỉ là một cấu trúc đặc thù phản ánh cấu trúc tầng bậc phổ biến
của mọi khách thể.
Khái niệm phân tầng xã hội có thể hiểu theo ba đặc trưng chủ yếu, đó là:
- Có sự sắp xếp cao thấp giữa các tầng (theo cấu trúc “dọc”).
- Có sự gắn liền với bất bình đẳng xã hội (sự khơng ngang bằng nhau về
năng lực như thể chất, trí tuệ và cơ may giữa các cá nhân); sự phân công vị thế
chiếm ưu thế và sự phân công lao động xã hội.
- Có sự di chuyển, di động giữa các tầng (Cơ động dọc), hoặc trong nội bộ
từng tầng (cơ động ngang) và các loại cơ động khác.

Phân tầng xã hội không phải là một cấu trúc cố định, nhất thành, bất biến mà
luôn vận động, biến đổi. Khoảng cách giữa các tầng có thể dãn ra hoặc thu hẹp lại
tỳ thuộc vào những tác động kinh tế xã hội, chính sách xã hội, thể chế chính trị, đặc
điểm cộng đồng, tính cơ động xã hội của các cá nhân, nhóm xã hội.
Phân tầng xã hội ln bao hàm thuộc tính “tĩnh” và “động”. Phân tầng xã hội
luôn vận động, biến đổi theo những xu hướng nhất định, tùy thuộc vào sự vận động
nội tại bên trong cũng như sự tác động của các yếu tố bên ngoài và sự tương tác
của các chủ thể bên trong và yếu tố bên ngoài.
Phân tầng xã hội không phải là hiện tượng độc lập tuyệt đối, tồn tại bên
ngoài cơ cấu xã hội mà nó là “nhát cắt bổ dọc”, cấu trúc “dọc” của cơ cấu xã hội.

4


II. PHÂN TẦNG XÃ HỘI HỢP THỨC VÀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
KHÔNG HỢP THỨC
1. Một số kiến giải về vấn đề phân tầng xã hội
Trước khi luận giải về phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không
hợp thức, cần điểm qua các quan điểm của các nhà xã hội học về phân tầng xã hội
trên cơ sở tổng tích hợp các nghiên cứu xã hội học về vấn đề này.
Trong lịch sử xã hội học đã từng tồn tại ba cách kiến giải khác nhau về phân
tầng xã hội: cách kiến giải của những người theo thuyết chức năng, những người
theo thuyết xung đột và những người theo thuyết dung hòa.
Những người theo thuyết chức năng cho rằng, phân tầng xã hội và bất bình
đẳng xã hội là những hiện tượng phổ biến, tất yếu, không thể tránh khỏi trong xã
hội loài người. Hiện tượng này tồn tại trong quá khứ và sẽ còn tiếp tục tồn tại như
một nét nổi bật trong xã hội hiện đại trong tương lai. Theo họ, phân tầng xã hội và
bất bình đẳng xã hội thực hiện một chức năng cần thiết và tích cực trong xã hội.
Theo thuyết chức năng, trong xã hội có một số địa vị xét về mặt chức năng là
quan trọng hơn những địa vị khác. Đó là những địa vị then chốt trong xã hội và để

đảm nhiệm những nhiệm vụ đó phải có những con người có những tài năng và kỹ
năng đặc biệt phù hợp. Không phải bất cứ ai trong xã hội cũng đều có tài năng hay
kỹ năng đặc biệt để đảm nhiệm những vị thế, vai trò nhất định trong xã hội. Để có
những kỹ năng đặc biệt đó, người ta phải trải qua những khóa học tập, huấn luyện
để có đủ trình độ đứng vào những địa vị cao một khi người ta sẽ nhận được những
lợi ích xứng đáng gắn với địa vị mà họ sẽ đảm nhận khi thành đạt. Do vậy, cần
thiết phải thiết chế hóa chế độ phân phối lợi ích bất bình đẳng một cách phù hợp
với những thang bậc trong xã hội.
Những người theo thuyết xung đột cho rằng, do sự khan hiếm các nguồn lực,
sự phân công lao động xã hội và bất bình đẳng trong phân bố nguồn lực, quyền lực
nên giữa các cá nhân, các nhóm xã hội ln có tình trạng xung đột, cạnh tranh lợi
ích. Những người theo thuyết xung đột đã phê phán một cách gay gắt thuyết chức

5


năng về phân tầng xã hội. Họ cho rằng, sự phân phối không đồng đều của cải trong
xã hội phân tầng đã khiến cho những kẻ có của, có đặc quyền được hưởng những
lợi ích dễ dãi trong giáo dục để phát triển tài năng trong khi cùng lúc đó lại làm cho
những người dưới đáy bị bất lợi. Sự thiết chế hóa chế độ bất bình đẳng đã duy trì
trật tự có lợi cho người giàu và chống lại những người nghèo. Như vậy, xã hội
phân tầng đã không sử dụng hết nguồn tài năng một cách có hiệu quả, đầy đủ. Nó
làm hạn chế tự do của tầng lớp bên dưới và làm tích tụ thêm, gay gắt thêm những
xung đột và bất bình đẳng xã hội.
Những người theo thuyết dung hịa cho rằng, trong xã hội ln có những
động cơ thơi thúc người ta chiếm giữ các vị trí xã hội, đồng thời cũng diễn ra các
quá trình mâu thuẫn, xung đột và tranh giành quyền thống trị.
Max Weber đưa ra nguyên tắc nghiên cứu “ba chiều” về phân tầng xã hội.
Ông đã tách một luận điểm về giai cấp thành ba phần riêng biệt, song có quan hệ
tác động qua lại mật thiết với nhau. Đó là địa vị kinh tế hay tài sản; địa vị chính trị

hay quyền lực; địa vị xã hội hay uy tín. Ơng nhấn mạnh, quyền lực kinh tế có thể là
kết quả từ sự sở hữu quyền lực trên các nền tảng khác. Địa vị xã hội hay uy tín có
thể xuất phát từ quyền lực kinh tế, nhưng đây không phải là trường hợp tất yếu.
Với Các Mác, học thuyết của ông về xã hội chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu
các mối quan hệ kinh tế và các quan hệ kinh tế này lại tạo thành nền tảng của giai
cấp. Quan hệ giai cấp là chìa khóa mọi mặt của xã hội. Mối lợi kinh tế quyền lực
chính trị và uy tín xã hội, tất thảy đều bắt nguồn từ cấu trúc giai cấp, các giai cấp
đó vượt qua các nhóm thu nhập, chúng được tạo ra theo cung cách mà nền sản xuất
được tổ chức về mặt xã hội.
Như vậy, các kiến giải của các nhà xã hội học trong lịch sử đều xoay quanh
các vấn đề nhằm trả lời các câu hỏi cơ bản, đó là: Một là, câu hỏi về nguồn gốc của
phân tầng xã hội? Vì sao lại có hiện tượng phân tầng xã hội? Hai là, phân tầng xã
hội để lại hậu quả gì cho con người? Nó là “tốt” hay là “xấu”? Nó có chức năng
“tích cực” hay “tiêu cực”? Ba là, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với phân

6


tầng xã hội? Chúng ta thừa nhận nó, cần thiết phải thiết chế hóa nó hay tìm cách
xóa bỏ, mở rộng hay thu hẹp khoảng cách cũng như phạm vi tác động của nó.
Khơng thể phủ nhận những tri thức xã hội về phân tầng xã hội mà các nhà xã
hội học đi trước đã nghiên cứu và đưa ra. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn
nhận, những kiến giải nói trên cịn có những hạn chế nhất định. Giữa chúng cịn có
nhiều sự khác biệt, thậm chí có chỗ cịn có sự đối lập, mâu thuẫn nhau. Những kiến
giải này chưa thực sự thuyết phục, cịn có những điểm gây phân vân, ngờ vực.
Để giải quyết triệt để những vấn đề còn vướng mắc về mặt lý luận, trên cơ sở
tổng – tích hợp những lý giải của các lý thuyết nói trên, các nhà xã hội học Việt
Nam đã giải quyết vấn đề bằng cách trả lời một cách gián tiếp câu hỏi lớn, tách câu
hỏi lớn thành các câu hỏi nhỏ; đồng thời tiến hành thao tác hóa khái niệm, tách
khái niệm phân tầng xã hội nói chung thành hai khái niệm bộ phận là “phân tầng xã

hội hợp thức” và “phân tầng xã hội không hợp thức” và đặt nó trong mối quan hệ
“phức tạp”, “đan kết” trong đó có cả mặt “tốt” và “xấu”, “tích cực” và “tiêu cực”
tùy thuộc vào nguồn gốc hình thành và tác động của chúng đến xã hội.
2. Phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không hợp thức
Phân tầng xã hội hợp thức là một cấu trúc tầng bậc cao, thấp, phản ánh sự
khác nhau, sự không ngang bằng nhau giữa các thành viên trong xã hội về ba dấu
hiệu chủ yếu: địa vị chính trị, địa vị kinh tế, địa vị xã hội. Tuy nhiên, cấu trúc tầng
bậc này là “hợp thức”, nó được hình thành chủ yếu dựa vào sự khác biệt khách
quan, tự nhiên giữa các thành viên trong xã hội về mặt năng lực (thể chất, trí tuệ),
sự khác biệt về tài, đức và sự cống hiến, đóng góp thực tế của mỗi cá nhân cho xã
hội.
Phân tầng xã hội hợp thức có nghĩa là, người nào tài càng cao, đức càng rộng
và sự cống hiến cho xã hội càng nhiều thì người đó càng xứng đáng đứng ở vị trí
cao trong xã hội, xứng đáng được giao phó cho những quyền lực cao, quan trọng để
lãnh đạo, quản lý xã hội. Họ xứng đáng được xã hội kính trọng, suy tơn và được
hưởng những lợi ích vật chất xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra.

7


Bên cạnh đó, ở tầng thấp hơn sẽ là những người có tài đức trung bình, cống
hiến cho xã hội ở mức trung bình và được đặt ở những vị trí trung bình với sự đánh
giá tương ứng với mức độ đóng góp trung bình của họ.
Ở tầng thấp hơn nữa là những người tài trí thấp, đóng góp cho xã hội ít, được
hưởng thành quả ít tương ứng với sức lực mà họ đóng góp, và được xã hội nhìn
nhận, đánh giá một cách tương ứng.
Thực chất, phân tầng xã hội hợp thức là sự vận hành theo nguyên tắc “làm
theo năng lực, hưởng theo lao động” mà Mác đã đề cập đến khi coi đây là nguyên
tắc thực hiện trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Đây cũng là tiêu
chí quan trọng nhất để phân biệt phân tầng xã hội hợp thức với phân tầng xã hội

không hợp thức.
Hợp thức được hiểu trong khái niệm phân tầng xã hội hợp thức là một khái
niệm khoa học. Nó hàm chứa ở trong đó cả sự phù hợp đạo lý, pháp lý, vừa phù
hợp với các giá trị, chuẩn mực và các quy tắc của đời sống văn hóa. Nó khơng chỉ
phù hợp với quy tắc, chuẩn mực của hiện tại, của cái đang diễn ra mà còn phù hợp
với xu hướng vận động đi lên mang tính quy luật của xã hội.
Đối lập với phân tầng xã hội hợp thức là phân tầng xã hội không hợp thức.
Phân tầng xã hội khơng hợp thức có nghĩa là phân tầng xã hội không dựa trên sự
khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự khác
nhau về tài, đức và sự đóng góp cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho xã
hội Phân tầng xã hội không hợp thức là phân tầng dựa vào những hành vi trái pháp
luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán phi pháp để trở nên giàu có, luồn lọt,
xu nịnh để có vị trí cao trong xã hội hoặc lưởi biếng, ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ,
hèn kém.
Trong xã hội phân tầng khơng hợp thức thì kẻ bất tài, vơ dụng vẫn có thể
chiếm vị trí cao, họ vẫn có thể chiếm đoạt nhiều của cải, làm giàu bất chính và
những người có tài đức lại khơng được ứng xử như vậy. Chính điều này đã tạo nên
những bất công xã hội.

8


Có thể mơ hình hóa hai loại phân tầng xã hội này bằng sơ đồ sau:

Từ sơ đồ trên có thể thấy, phân tầng xã hội có thể được hình thành theo một
logic tự nhiên, từ sự khác nhau một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), tài
năng, đức độ giữ các cá nhân cũng như sự cống hiến, đóng góp một cách thực tế
của mỗi cá nhân, tổ chức cho xã hội. Người nào có năng lực, tài năng, đức độ cao
sẽ có cơ hội được sắp xếp vào những vị trí xã hội cao, được nhận về mình những
thù lao (tiền lương, tiền thưởng cao), được tín nhiệm và tơn vinh cao. Những người

có năng lực, tài năng, đức độ trung bình sẽ có cơ hội được sắp xếp vào những vị trí
xã hội trung bình, được nhận về mình những thù lao trung bình, được xã hội tín
nhiệm và đánh giá ở mức trung bình. Những người có năng lực, tài năng, đức độ
thấp sẽ có cơ hội được sắp xếp vào những vị trí xã hội thấp, được nhận về mình
những thù lao thấp, được xã hội tín nhiệm và đánh giá một cách tương xứng.
Phân tầng xã hội đang được nói đến được giả định là chưa bị biến dạng, chưa
có sự can thiệp bởi một thế lực tiêu cực, nó tạo ra sự phân tầng xã hội hợp thức.
Hiểu theo nghĩa là một cấu trúc tầng bậc được hình thành phù hợp với chuẩn mực

9


pháp luật, đạo đức xã hội dựa trên nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao
động”. Nó tạo ra công bằng xã hội, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, góp phần
ổn định xã hội, tạo ra bộ mặt nhân văn, nhân bản, nhân ái của xã hội. Do vậy, phân
tầng xã hội hợp thức cần được chấp nhận và cần được tích cực tuyên truyền, vận
động để mọi người cùng chấp nhận và cần xây dựng một xã hội dựa trên phân tầng
hợp thức.
Song hành với cấu trúc phân tầng xã hội hợp thức là một cấu trúc hồn tồn
đối lập với nó – cấu trúc phân tầng xã hội không hợp thức. Cấu trúc này khơng
được hình thành do sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về
tài năng, đức độ giữa các cá nhân, sự cống hiến, đóng góp của mỗi cá nhân, tổ chức
cho xã hội mà lại dựa vào sự bợ đỡ, nịnh nọt, sự “liên minh ma quỷ” theo “lợi ích
nhóm”, những quy tắc chuẩn mực xã hội bị bóp méo, bị thao túng, những chính
sách pháp luật thiếu đúng đắn, khoa học, lạc hậu, sơ hở, chậm đổi mới, những hành
vi tham nhũng, làm ăn phi pháp, sự thao túng hay tha hóa quyền lực,…Tất cả
những điều đó sẽ tạo ra phân tầng xã hội không hợp thức.
Phân tầng xã hội không hợp thức sẽ tạo ra bất cơng bằng xã hội. Nó sẽ thủ
tiêu động lực phát triển, tích tụ bất bình trong xã hội, gây ra những bức xúc trong
nhân dân, làm phương hại đến bộ mặt nhân văn, nhân bản, nhân ái của xã hội. Phân

tầng xã hội như vậy cần bị phủ nhận và lên án gay gắt. Cần có kiến nghị để ngăn
chặn, kiểm sốt và trừng phạt đích đáng.
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI DỰA TRÊN
CƠ SỞ PHÂN TẦNG XÃ HỘI HỢP THỨC
Trên cơ sở tìm hiểu và phân tích hai khái niệm phân tầng xã hội hợp thức và
phân tầng xã hội không hợp thức, chúng ta có thể thấy:
Phân tầng xã hội hợp thức là một khái niệm có nội hàm mới, một đóng góp
mới cho khoa học xã hội. Phân tầng xã hội hợp thức gợi mở ra những ý tưởng cho
việc xây dựng một trật tự xã hội lý tưởng của sự công bằng xã hội.

10


Phân tầng xã hội hợp thức là tích cực, là cái mà cả xã hội đều hướng đến,
mong muốn xây dựng và được sống trong xã hội như vậy. Bởi vì, một xã hội như
vậy sẽ tạo ra được động lực, nguồn xung lực thúc đẩy xã hội tiến lên phía trước. Nó
sẽ góp phần tạo ra trật tự xã hội cũng như bộ mặt nhân văn, nhân bản, nhân ái cho
xã hội; đồng thời khắc phục được những tư tưởng bảo thủ, ích kỷ, hẹp hịi, kèn cựa,
đó kỵ, ganh ghét những người hơn mình. Mặt khác, nó sẽ tạo ra được chuẩn mực
cho sự đánh giá xã hội cũng như sự tự đánh giá đúng bản thân. Các cá nhân vừa
biết đặt ra cho mình những mục tiêu phấn đấu phù hợp vừa biết tự bằng lòng với
những gì mình có; khơng lười biếng, khơng ỷ lại song cũng không quá tham vọng
so với năng lực và những điều kiện hiện có của họ. Một xã hội mà mỗi người đều
tự biết rõ mình, biết rõ người, biết tự đặt mình vào vị trí của người khác, biết tự
nhìn nhận đánh giá bản thân từ vị trí mà xã hội giao phó; đồng thời hành động theo
đúng vị thế, vai trị của mình theo cái danh, cái phận của bản thân thì chắc chắn
rằng xã hội đó sẽ là một xã hội trật tự, kỷ cương, ổn định, công bằng và phát triển.
Ngược lại với xã hội phân tầng xã hội hợp thức chính là xã hội phân tầng
không hợp thức. Trong xã hội này, những kẻ lười biếng, vơ đạo đức, bất tài vẫn có
thể “ăn trên ngồi trốc”, hưởng thụ nhiều hơn những gì đáng được hưởng và hơn

những người khác, có quyền lực chi phối người khác. Những người có tài, có đức
có thể bị vùi dập, bị thiệt thòi và chịu nhiều cảnh ấm ức, bất cơng, bị đối xử phân
biệt, thậm chí bị ngược đãi bởi kẻ bất tài ln sợ người có tài nên hay tìm cách hại
người có tài bằng “mưu hèn, kế bẩn”.
Phân tầng xã hội không hợp thức vừa là biểu hiện của sự bất công xã hội,
vừa là biểu hiện của bất bình đẳng xã hội, do đó nó là tiêu cực và là yếu tố kìm hãm
sự phát triển xã hội. Phân tầng xã hội không hợp thức là xiềng xích trói buộc những
tiềm năng sáng tạo của các cá nhân, làm thui chột những năng lực thể chất và tinh
thần của những người lao động chân chính, là một trong những ngun nhân của
những bất bình, xung đột xã hội, từ đó dẫn đến sự mâu thuẫn, khủng hoảng xã hội.
Thậm chí, sự phân tầng xã hội không hợp thức sâu sắc sẽ dẫn đến những mâu thuẫn

11


sâu sắc trong các nhóm, các tầng, tạo ra mâu thuẫn đối kháng xã hội mà đỉnh cao là
sự phá vỡ trật tự xã hội và sự rối loạn xã hội.
Với xã hội phân tầng không hợp thức như vậy, đương nhiên là không ai
mong muốn trừ nhưng người nào đang được hưởng những lợi ích bất hợp thức từ
cấu trúc phân tầng đó. Cần thiết phải có sự phê phán một cách gay gắt trước công
luận và hơn thế nữa chúng ta đòi hỏi tầng lớp xã hội được hưởng lợi ích bất hợp
thức phải bị trừng phạt đích đáng trước pháp luật. Đồng thời, kiên trì giáo dục
những kẻ lười biếng, ỷ lại, thậm chí cưỡng bức họ lao động, tạo ra của cải cho bản
thân và xã hội.
Với những người nghèo khổ, yếu thế, bị rủi ro, tai nạn, thiếu vốn, thiếu kinh
nghiệm lao động, chúng ta cần cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ, tạo ra cho họ những
điều kiện sinh kế cần thiết để họ có thể tự vươn lên thoát nghèo. Đối với những cá
nhân, gia đình có cơng với cách mạng, cần huy động sự tham gia của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức đoàn thể và mỗi người phát huy truyền thống “uống nước nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để đền ơn đáp nghĩa, giúp họ có cuộc sống bằng

hoặc cao hơn so với mức sống trung bình của dân cư trong nước.
Từ việc phân tích và so sánh hai xã hội phân tầng hợp thức và khơng hợp
thức, có thể khẳng định:
Cần thừa nhận và ủng hộ, đồng thời tìm cách bảo vệ một xã hội dựa trên
phân tầng hợp thức. Hơn thế nữa, chúng ta cần tuyên truyền rộng rãi để đông đảo
mọi người cùng thừa nhận, ủng hộ và cùng góp sức duy trì, củng cố, phát triển và
bảo vệ một trật tự xã hội hợp thức. Một xã hội như vậy cần được thiết chế hóa
trong cuộc sống. Nhà nước cần tạo ra những hành lang pháp lý minh bạch, văn
minh, rộng rãi, an toàn, cần thiết và cởi mở cho phân tầng hợp thức, nơi mà mọi
người đều được phát huy năng lực, cống hiến theo khả năng và được hưởng các lợi
ích mà họ xứng đáng được hưởng theo đúng pháp luật của nhà nước và đạo lý của
xã hội.

12


Phân tầng xã hội hợp thức thực chất là trật tự của công bằng xã hội, là điều
kiện, phương thức và nền tảng xã hội bảo đảm cho việc thực hiện cơng bằng xã hội,
cịn cơng bằng xã hội lại là tiêu chuẩn “nhân lõi” cốt yếu bên trong của phân tầng
xã hội hợp thức.
Phân tầng xã hội hợp thức là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là nhân tố
tạo ra sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội, là cái góp phần tạo ra bộ mặt
nhân văn, nhân bản, nhân ái của xã hội. Phân tầng xã hội như vậy là cái chúng ta
mong muốn, là cái cần thiết phải có, là cái chúng ta cần thúa nhận nó một cách tự
giác. Mặt khác cần tuyên truyền vận động, quảng bá cho đông đảo quần chúng
nhân dân hiểu và thừa nhận nó, từng bước thiết chế nó một cách chủ động, thận
trọng, nghiêm túc, khoa học.

KẾT LUẬN
Như vậy, bằng việc kiến giải vấn đề phân tầng xã hội trên cơ sở làm rõ nội

hàm của hai khái niệm phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không hợp
thức đã đem lại cho khoa học xã hội học những kiến thức mới mẻ cả về lý luận và
thực tiễn. Nó giúp chúng ta khắc phục được tâm lý e ngại hay những phân vân khi
nói về phân tầng xã hội nói chung mà cịn góp phần nhận rõ, thấu hiểu được tính
“hai mặt” phức tạp của phân tầng xã hội. Trên thực tế, phân tầng xã hội là một cấu
trúc “kép”, bản thân nó là một cấu trúc bất bình đẳng, song một khi nó là bất hợp
thức, lúc đó nó cũng đồng thời là bất công bằng xã hội. Nhưng một khi nó được tổ
chức một cách hợp thức, lúc đó chính nó lại là cơng bằng xã hội. Đây chính là một
sự tìm kiếm, phát hiện sáng tạo.
Việc kiến giải về phân tầng xã hội hợp thức là cơ sở để gợi mở những ý
tưởng lớn lao về việc xây dựng một xã hội tốt đẹp trong tương lai, ở đó, con người
được cống hiến và hưởng thụ trên cơ sở năng lực và khả năng của mình, được

13


hưởng thành quả xứng đáng với những gì mà mình đóng góp và hài long với những
kết quả đạt được.
Do đó, hiện nay và trong thời gian tới, cần thiết phải có những nhìn nhận,
đánh giá một cách nghiêm túc vấn đề này nhằm tạo cơ sở cho việc tham khảo để
xây dựng một xã hội dựa trên phân tầng hợp thức trong thực tiễn, nhằm hiện thực
hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà toàn Đảng,
toàn dân ta đang hướng tới. Để làm được việc này cần làm cho toàn Đảng, toàn dân
thấm nhuần sâu sắc và hiểu rõ một cách nhất quán khái niệm phân tầng xã hội hợp
thức và không hợp thức, coi đó là trật tự xã hội hợp thức, hợp lý mà Đảng, Nhà
nước và toàn xã hội quyết tâm xây dựng cho được một xã hội trên cơ sở phân tầng
xã hội hợp thức, tạo điều kiện để có cơng bằng xã hội một cách thực tế và thực chất
nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Nguyễn Đình Tấn, Phân tầng xã hội hợp thức và công bằng xã hội

ở Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà
Nội, 2015.
2. GS.TS. Nguyễn Đình Tấn, Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb.Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2015.
3. GS.TS. Nguyễn Đình Tấn, Tập hợp các bài báo về cơ cấu xã hội và phân
tầng xã hội từ năm 2007 đến năm 2015.

14



×