TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
BÀI TẬP THẢO LUẬN LẦN 1
MƠN LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CÁC TỘI PHẠM
GV: ThS. Lê Tường Vy
Học kỳ II, Năm học: 2022-2023
THẢO LUẬN LẦN 1
I. Nhận định Đúng – Sai. Giải thích?
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật
khơng gây ra hậu quả chết người thì khơng cấu thành Tội giết người (Điều 123
BLHS).
Nhận định sai, căn cứ theo quy định tại Điều 123 BLHS thì Tội giết người là
tội phạm có cấu thành vật chất, hậu quả chết người là bắt buộc những dấu hiệu hậu
quả không phải là dấu hiệu mang ý nghĩa định tội, hậu quả chết người hay khơng
trong trường hợp này chỉ có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm là hoàn thành hay
chưa hồn thành. Hành vi cố ý trước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật nhưng
không gây ra hậu quả chết người là hành vi thực hiện bởi người có mục đích giết
người, nhưng vì yếu tố khách quan mà hành vi đó khơng thực hiện được. Theo quy
định của BLHS thì tùy thuộc vào yếu khách quan đó mà người có hành vi giết người
khơng thành được xem là phạm tội chưa đạt theo Điều 15. Do đó, hành vi cố ý trực
tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật mà không gây ra hậu quả vẫn cấu
thành Tội giết người.
CSPL: Điều 15 và Điều 123 BLHS 2015.
Ví dụ: Nếu một người cố ý thực hiện tội phạm, ở đây là Tội giết người nhưng
không thực hiện được đến cùng vì ngun nhân ngồi ý muốn thì được xem là phạm
tội chưa đạt về Tội giết người, khi đó người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội giết người chưa đạt này.
5. Tình tiết “giết 02 người trở lên” ln địi hỏi phải có hậu quả hai người
chết trở lên.
Nhận định sai, vì đây là tình tiết định khung tăng nặng của Tội giết người quy
định tại khoản 1 Điều 123 BLHS và đây là tội phạm có cấu thành vật chất. Đối với
người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thì hậu quả chết người khơng phải là dấu hiệu
định tội, chỉ cần có ý định phạm Tội giết hai người trở lên và đã được thực hiện, dù
hậu quả khơng xảy ra thì người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người
ở giai đoạn chưa hoàn thành. Đối với người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp thì đây là
trường hợp người phạm tội nh
ận thức được hành vi của mình có khả năng làm chết người nhưng lại bỏ mặc
cho hậu quả xảy ra, nếu hậu quả là gây thương tích thì phạm tội cố ý gây thương tích,
nếu hậu quả là chết người thì phạm tội giết người. Khi đó mới địi hỏi phải có hậu quả
có hai người chết trở lên. Do đó, khơng p
Phải mọi trường hợp tình tiết “giết hai người trở lên” địi hỏi phải có hai người
chết trở lên mà tùy thuộc vào từng trường hợp.
CSPL: khoản 1 Điều 123 BLHS 2015.
Ví dụ: A dùng dao dâm trực tiếp vào ngực B và C khiến cả hai bất tỉnh rồi bỏ
chạy, tuy nhiên do được sơ cứu kịp thời nên hai người khơng chết. Đây là tình tiết tăng
nặng của Tội giết người tại khoản 1 Điều 123 BLHS, mặc dù hậu quả khơng có người
chết nhưng A vẫn phải chịu TNHS về tội giết người chưa đạt này.
7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vịng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành
Tội giết con mới đẻ (Điều 124 BLHS).
Nhận định sai. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 124 BLHS năm 2015 quy định:
“Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn
cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm”
Như vậy, xét về mặt chủ thể thì hành vi đó phải do người mẹ đẻ của đứa trẻ
thực hiện và xét về hoàn cảnh phạm tội phải do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc
hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt thì hành vi đó mới được coi là hành vi
giết trẻ em.
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh (Điều 125 BLHS).
Nhận định sai. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 125 BLHS năm 2015 quy định:
“Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi
trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân
thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”
Như vậy, để được coi là giết người trong thái tinh thần kích động mạnh thì cần
thỏa các điều kiện sau:
-
Thứ nhất, tình trạng tinh thần của người phạm tội phải bị kích động mạnh
được hiểu là người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được
hành vi của mình. Sự kích động mạnh đó có thể là một hành vi cụ thể diễn
ra tức thời hoặc là một chuỗi hành vi dài lặp đi lặp lại có tính chất áp bức
tương đối nặng nề.
-
Thứ hai, nguyên nhân đưa đến trạng thái này là do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân gây ra chứ không phải chủ thể nào khác. Hành
vi trái pháp luật này có thể là một tội phạm hoặc một vi phạm pháp luật
nghiêm trọng khác.
-
Thứ ba, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân thực hiện đối với
chính người phạm tội hoặc người thân của họ.
-
Thứ tư, đây là tội phạm có CTVC nên hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu
bắt buộc.
Nếu không thỏa một trong các điều kiện nêu trên thì không cấu thành tội phạm
này. Ví dụ, trường hợp trẻ em dưới 14 tuổi có hành vi làm cho người phạm tội bị
kích động mạnh thì không thuộc trường hợp phạm tội theo Điều 125 quy định. Bởi
hành vi của trẻ em dưới 14 tuổi không bị coi là hành vi trái pháp luật do không nhận
thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây ra theo quy định tại Điều 12
BLHS năm 2015.
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp
pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).
Nhận định sai
Hành vi khách quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành
vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây hậu quả chết người.
Tội làm chết người trong khi thi hành cơng vụ có cả hai loại cố ý và vô ý.
Đối tượng tác động của tội phạm nạn nhân là người đang có hành vi vi phạm
pháp luật. Tuy nhiên cũng có trường hợp người bị hại khơng phải là người có vi
phạm pháp luật nhưng bị dùng vũ lực vì lỗi vơ ý của người thi hành cơng vụ thì
khơng phạm tội làm chết người trong khi thi hành cơng vụ mà có thể bị kết án về tội
giết người.
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
Nhận định sai
Hành vi trên cấu thành tội phạm của nạn nhân, bất kể sự tự sát có gây hậu quả
chết người hay không. Nạn nhân bị tử vong không phải là dấu hiệu định tội của tội
phạm này. Về mặt khách quan, chỉ cần hành vi thường xuyên ngược đãi làm nạn nhân
tự sát là đã đủ dấu hiệu cấu thành tội danh này, không cần hậu quả xảy ra nạn nhân có
chết hay khơng.
II. Bài tập
Bài tập 1
Khoảng 19 giờ, T ra sân kho HTX xem biểu diễn ca nhạc. Khi đi, T dắt một
lưỡi lê tự tạo (lưỡi lê dài 15cm rộng 2cm). Chưa tới giờ biểu diễn nên một số thanh
niên túm lại với nhau nói chuyện ở phía cổng vào khu vực biểu diễn, khiến một số
cháu nhỏ không thể đi qua được. Thấy vậy, T liền nói: “Sao các anh đứng ngang thế?”.
Hai bên va chạm, chửi nhau. A và B trong tốp thanh niên đó đã chạy gọi thêm bạn bè
để gây sự. Cả bọn quay trở lại gặp T thì ngay lập tức C túm áo T và thúc gối vào bụng
của T, còn A và B đấm vào mặt T làm môi T bị sưng. Các trật tự viên đã kịp thời ngăn
cản và chấm dứt sự va chạm. Một lát sau, T lại đến gần chỗ đứng của A, B và C để đôi
co dẫn đến tiếp tục xô xát. Trong lúc xô xát, T rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào
ngực C rồi bỏ chạy. Kết luận giám định pháp y xác định: “C chết do vết thương sắc
gọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạch, mất máu cấp tính”.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T.
- Khách thể: quyền được bảo vệ tính mạng, quyền được sống của C
- Đối tượng tác động: C – con người đang sống
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: T rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực C rồi bỏ chạy.
+ Hậu quả: C chết do vết thương sắc gọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách,
đứt động mạch, mất máu cấp tính.
+ Mối quan hệ nhân quả: nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của C.
- Chủ thể: T thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này - chủ thể thường
(nếu đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi quy định).
- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp (T biết việc đâm lưỡi lê vào ngực nạn nhân
là nguy hiểm, có thể chết người nhưng vẫn thực hiện).
Đủ các dấu hiệu của Tội giết người.
Hành vi của T cấu thành tội giết người theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS
hiện hành quy định (có tính hung hãn, coi thường tính mạng người khác).
Bài tập 3
A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người u, nhưng do gia đình ép
gả nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C - người yêu cũ của B.
Biết vậy, nên gia đình B khuyên A đưa vợ lên làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh. A
nghe lời đem vợ lên sống ở thành phố. Dù vậy, B vẫn lén lút quan hệ với C bằng
cách viện lý do đi khám bệnh và lưu lại bệnh viện để điều trị ít ngày, nhưng thực
chất là 2 người hẹn hò nhau tại một khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biết
được nên đã báo cho A biết mối quan hệ giữa B và C, đồng thời cho A biết số xe
Honda của C. Một hôm, vì mất điện nên A về nhà sớm hơn thường lệ thì thấy B
chuẩn bị quần áo nói là đi chữa bệnh tại bệnh viện. A không tin nên chạy nhanh ra
đường cái, cách nhà khoảng 200m thì thấy một thanh niên đang ngồi trên một chiếc
xe Honda có biển số như gia đình B đã báo trước. Quá tức giận, A nhặt một khúc gỗ
bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm, phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang
ngồi trên xe gắn máy nhiều nhát cực mạnh khiến anh thanh niên nọ bị chấn thương
sọ não, chết trên đường cấp cứu tới bệnh viện. Khi kiểm tra căn cước của người bị
hại thì mới xác định được nạn nhân khơng phải là C mà chính là bạn của C. Do
không biết mặt C nên A đã đánh nhầm người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A.
Tội danh của A là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
được quy định tại Điều 125 BLHS 2015
Thứ nhất, về mặt khách quan:
- Hành vi của A là hành vi tước bỏ tính mạng của người khác (là tính
mạng bạn của C)
- Hậu quả là nạn nhân chết
- Hoàn cảnh PT là người PT ở trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với A và đối với người thân thích
của A
Thứ hai, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Nghị quyết
04-HĐTPTANDTC/NQ. Theo đó, Trạng thái tt bị kđm là trạng thái NPT khơng
hồn tồn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Phân tích
trong trường hợp trên, các yếu tố hồn cảnh, thời gian, mối quan hệ nhân quả và
nguyên nhân, A không thể nào tự chủ được hành vi của mình trong hoàn cảnh
thấy B tiếp tục quan hệ với C. Sự kích động mạnh đó là tức thời do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết
người và có nhiều hành vi lặp lại kế tiếp nhau, B đã nhiều lần quan hệ với C.
Do đó, tội danh đối với hành vi của A được xác định là tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Bài tập 4
Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K và cậu
con trai tên là H. Gia đình bên kia có ơng cụ là A cùng hai con trai tên là B và C.
Ban ngày các con đều đi làm nên ông A thường hay qua nhà bà K chơi. Sau một thời
gian, ông A mang gạo góp với bà K nấu cơm chung. B và C khơng đồng ý vì cho là
cha mình bị bà K dụ dỗ, đem tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt quan
hệ với bà K nhưng ông A không nghe và vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là
sự bất đồng trong gia đình mình là do bà K gây ra nên quyết định gây án.
Vào 3 giờ sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà bà
K. B và C châm lửa đốt nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. Bà K và
H chạy ra đến cửa thì thấy B đang quơ đuốc xơng tới, C cầm dao lao vào tấn công H.
H xông tới C, giành được con dao từ tay C và chém đứt bàn tay C. Ngay lúc đó, B
dùng đuốc xơng tới gần H. H nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ,
đồng thời H quay sang đối phó với B thì bà con vừa kịp đến.
Hãy xác định hành vi của H có phạm tội khơng? Nếu có thì phạm tội gì?
*Phân tích tương quan lực lượng
1) Có phát sinh quyền phịng vệ chinh đáng hay khơng? B,C đến nhà H lúc 3h sáng,
cầm theo dao và đuốc => xâm phạm đến tính mạng sức khỏe
2) Trong giới hạn phịng vệ chính đáng, ngồi là vượt q
3) “Cần thiết” hành vi đối với C là vượt quá. (đối với B) C,B đứng rất gần => giết ng
do phòng vệ chính đáng (Đ126)
-
H có hành động tự vệ nhưng ở đây là vượt q phịng vệ chính đáng . Do đó,
hành vi của H có phạm tội.
-
H phạm tội giết người theo Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015. Vì:
-
Về mặt chủ thể: H là chủ thể thường có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
-
Về mặt chủ quan:
+ Lỗi: cố ý trực tiếp
+ H nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực
hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Nhưng vẫn
thực hiện hành vi dùng dao chém vào đầu vủa C với mong muốn để cho hậu quả xảy
ra.
+ Động cơ: Ngăn chặn hành vi trái pháp luật của C, bảo vệ các lợi ích hợp pháp
cho hai mẹ con là B và bà K.
-
Về mặt khách quan:
+ Hành vi: Sau khi H chém vào bàn tay C thì vẫn tiếp tục chém tiếp vào đầu
của C. Đối với hành vi của H nhận thấy H khi chém vào đầu của C là tác động vào vị
trí trọng yếu là đầu của C khiến C tử vong tại chỗ. Từ đó, ta nhận thấy hành vi của H
là muốn tước đi mạng sống của C
+ Hậu quả: C chết ngay tại chỗ.
+ Mối quan hệ nhân quả: chính hành vi chém vào đầu của C của H là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của C. (mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp)