ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
✰✰✰✰✰
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Tổng quan về cây thuốc
có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
MÔN HỌC: TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC
Sinh viên thực hiện: Nhóm 6 - Lớp Dược 3
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Vũ Đức Lợi
Hà Nội, tháng 04 năm 2022
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
✰✰✰✰✰
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
Tổng quan về cây thuốc
có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Họ và tên SV
Đỗ Thị Quỳnh Hương
Ngô Thị Bích Ngọc
Đỗ Thị Phương Thủy
Trần Thị Hiền Thương
Bùi Quỳnh Trang
Mai Kiều Trang
Nguyễn Thị Quỳnh Trang
Nguyễn Thị Tươi
Nguyễn Thị Thu Uyên
Trần Thị Vân
Mã số SV
19100141
19100166
19100190
19100193
19100195
19100197
19100201
19100205
19100206
19100207
Hà Nội, tháng 04 năm 2022
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 4
TỔNG QUAN ................................................................................................... 6
I. GỪNG....................................................................................................... 6
II. XUYÊN TÂM LIÊN .............................................................................. 16
III. HÚNG CHANH ..................................................................................... 35
IV. XẠ CAN ................................................................................................ 42
V. BÁCH BỘ .............................................................................................. 54
VI. KHA TỬ ................................................................................................ 63
VII. HẸ .......................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 77
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú.
Từ thời xa xưa, ông cha ta đã biết cách sử dụng các loại thực vật tự nhiên để làm
thuốc chữa bệnh. Những kinh nghiệm quý báu về cách thức sử dụng cây cỏ làm
thuốc đã được lưu truyền và tích lũy qua nhiều thế hệ. Đây chính là nguồn tri
thức bản địa vơ cùng quý báu cần khai thác, bảo tồn và phát triển.
Nước ta may mắn nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nóng ẩm của châu
Á, với 3/4 diện tích phần lục địa là đồi núi, trải dài từ Bắc xuống Nam. Những
điều kiện tự nhiên như vậy đã thực sự ưu đãi cho đất nước ta một hệ thống sinh
thái rừng phong phú và đa dạng. Theo thống kê sơ bộ, nước ta có tới gần 12.000
lồi thực vật bậc cao có mạch thuộc hơn 2.256 chi, 305 họ (chiếm 4% tổng số
loài, 15% tổng số chi, 75% tổng số họ thực vật trên tồn thế giới). Khơng chỉ có
vai trị là lá phổi xanh điều hịa khí hậu, hệ thực vật rừng còn mang đến một tiềm
năng to lớn về tài nguyên cây thuốc nói riêng cùng với tài nguyên dược liệu nói
chung.
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về cây thuốc đã được tiến hành từ rất sớm,
gắn liền với tên tuổi của nhiều danh y nổi tiếng như: Thiền sư Tuệ Tĩnh với bộ
―Nam Dược Thần Hiệu‖ viết về 499 vị thuốc Nam, trong đó có 241 vị thuốc có
nguồn gốc từ thực vật. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với bộ ―Lĩnh Nam
Bản Thảo‖ gồm 2 quyển: quyển thượng chép 496 kế thừa của Tuệ Tĩnh, quyển
hạ ghi 305 vị bổ sung về công dụng hoặc mới phát hiện thêm.
Xã hội dù phát triển, phương pháp y học hiện đại, chữa trị được nhiều căn
bệnh hiểm nghèo nhưng khơng thể phủ nhận vai trị của Y học Cổ truyền. Y học
Cổ truyền đã đóng góp to lớn cho sự phát triển chung của xã hội cũng như cơng
tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng từ xưa tới nay. Với những cây thuốc
quý phương pháp điều trị bệnh hiệu quả, những bài thuốc hay đã và đang từng
ngày phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe của người dân.
4
Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với sự phát triển ngày càng tiến bộ của Y
học hiện đại, một lượng lớn các bài thuốc dân gian đã bị mất đi. Công tác nghiên
cứu kế thừa, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu kết hợp tiến hành của Y học cổ
truyền còn chậm và kém hiệu quả. Nhiều bài thuốc hay, nhiều cây thuốc quý
nhất là của đồng bào các dân tộc ít người cịn chưa được đầu tư để thu thập sưu
tầm, đang có nguy cơ thất truyền.
Có thể thấy, bệnh ho là một bệnh khá phổ biến và dễ mắc phải. Trong thực
tế, dân gian ta có vơ vàn các bài thuốc trị ho với các nguyên liệu tự nhiên, vừa
hiệu quả lại an toàn. Xuất phát từ truyền thống vốn có của dân tộc về sử dụng
thuốc Nam ―Nam dược trị nam nhân‖, xuất phát từ tình hình thực tại trong nước
―Thầy thuốc tại chỗ, thuốc tại nơi‖, nhằm không ngừng nâng cao và bảo tồn nền
Y học cổ truyền với mục đích cao nhất là chăm sóc sức khỏe cho nhân dân từ
tuyến cơ sở, chúng tôi tiến hành đề tài: ―Tổng quan về các cây thuốc chữa ho‖
với hai mục tiêu:
1. Thống kê các loài thực vật điều trị ho.
2. Một số bài thuốc dân gian.
5
TỔNG QUAN
I. GỪNG
1. Về thực vật
1.1. Tên
- Tên khoa học: Zingiber officinale Roscoe 1807.
- Tên tiếng Anh: Ginger, Ginger root, Zingiber.
- Tên gọi khác: Can khương (vị thuốc), Sinh khương (vị thuốc).
- Theo Hệ thống phân loại APG III (2009)
Giới (Kingdom): Thực vật (Plantae)
Ngành (Phylum): Thực vật có hoa (Angiosperms)
Lớp (Class): Một lá mầm (Monocots)
Phân lớp (Subclass): Thài lài (Commelinids)
Bộ (Order): Gừng (Zingiberales)
Họ (Family): Gừng (Zingiberaceae)
Chi (Genus): Gừng (Zingiber)
Loài (Species): Zingiber officinale
1.2. Đặc điểm thực vật
Cây thảo, sống lâu năm, cao 40 - 80 cm. Thân rễ
nạc, mọc bò ngang, phân nhiều nhánh. Lá mọc so le
thành hai dãy, hình mác thuôn, thắt lại ở gốc, đầu
nhọn, dài 15 - 20 cm, rộng 2 cm, khơng cuống, có bẹ
nhẵn, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt
dưới nhạt.
Cụm hoa dài 5 cm, mọc từ gốc trên một cán dài
khoảng 20 cm do nhiều vảy lợp hình thành. Những
6
vảy phía dưới ngắn, càng lên trên càng dài và rộng hơn; lá hình trái xoan, màu
lục nhạt, mép viền vàng; đài có 3 răng ngắn, tràng có ống dài gấp đôi đài, 3 thuỳ
bằng nhau, bẹp và nhọn; 1 nhị, nhị lép khơng có hoặc tạo thành thuỳ bên của
cánh mơi, cánh mơi màu vàng, có viền tía ở mép, dài 2 cm, rộng 1,5 cm, chia
thành 3 thùy tròn, các thuỳ bên ngắn và hẹp hơn; bầu nhẵn.
Quả nang (rất ít gặp). Tồn cây, nhất là thân rễ, có mùi thơm, vị cay nồng.
Mùa hoa quả: tháng 5 - 8.
Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng (gừng trâu). Cây trồng thường
có hoa ở năm thứ 2. Chưa thấy cây có quả và hạt [25].
1.3. Phân bố, số lồi cây thuộc chi
Chi Gừng (Zingiber) có khoảng 100 loài. Riêng ở Trung Quốc hiện đã
thống kê khoảng trên 20 lồi. Nước ta có nền khí hậu nhiệt đới gió mùa, thảm
thực vật đa dạng và phong phú đặc biệt là các cây tinh dầu và cây thuốc. Riêng
với chi Gừng, Phạm Hoàng Hộ (1993) đã thống kê gồm 12 loài [12].
Trong những năm gần đây phát hiện thêm một lồi Gừng nữa có tên Gừng
mơi tím đốm (Zingiber peninsulare I. Theilade) [23].
Gừng là loại cây gia vị cổ điển được trồng ở nhiều nước trong vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới, từ Đông Á đến Đông Nam Á và Nam Á. Trung Quốc, Ấn
Độ, Nhật Bản là những nước trồng nhiều gừng nhất trên thế giới.
Ở Việt Nam, gừng được trồng từ thế kỉ XI TCN. Hiện nay, cây được trồng
ở khắp các địa phương, từ vùng núi cao đến đồng bằng và ngoài hải đảo.
Gừng trồng trong nhân dân hiện nay cũng có nhiều giống. Loại ―gừng trâu‖
có thân to, củ to thường để làm mứt, có nhiều ở các vùng núi thấp, như Cao
Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang,… Loại ―gừng gié‖ có
thân và củ đều nhỏ, nhưng rất thơm. Loại này cũng gồm 2 giống. Giống củ nhỏ
có màu hồng tía ở phần củ non, thường được đồng bào dân tộc trồng ở vùng núi
cao, như ở các huyện phía bắc tỉnh Hà Giang; Sìn Hồ (Lai Châu); Sapa, Bát Xát
7
(Lào Cai),... Theo dân địa phương, giống gừng này chịu được khí hậu lạnh kéo
dài trong mùa đơng. Cây trồng trên nương ít cần chăm sóc. Cịn giống gừng củ
nhỏ màu vàng ngày, được trồng phổ biến ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và ở phía
nam [25].
1.4. Bộ phận dùng
Thân rễ, thu hái vào mùa đông, dùng tươi là
sinh khương, phơi hoặc sấy khơ là can khương.
Cịn dùng tiêu khương (gừng khơ thái lát dày, sao
sêm vàng, đang nóng, vẩy vào ít nước, đậy kín,
để nguội); bào khương (gừng khô đã bào chế);
thân khương (gừng khô thái lát dày, sao cháy đen tồn tính).
Có thể cất tinh dầu gừng với hiệu suất 1 - 2,7% hoặc điều chế nhựa dầu
gừng từ bột gừng khô với các dung môi hữu cơ, hiệu suất 4,2 - 6,5% [25].
1.5. Thời điểm thu hái
Thời gian sinh trưởng mạnh của cây trùng với mùa hè - thu nóng và ẩm.
Gừng trồng từ đầu xuân (tháng 1 - 2) đến cuối vụ xuân (tháng 4 - 5). Cuối
năm khoảng từ tháng 10 - 11 - 12 hàng năm ta có thể thu hoạch gừng. Thời gian
sinh trưởng của gừng từ 8 - 10 tháng tùy từng giống.
Gừng trồng sau một năm nếu không thu hoạch sẽ có hiện tượng tàn lụi
(phần trên mặt đất) qua đơng.
2. Về hố học
2.1. Thành phần hố học
Đã có khá nhiều các nghiên cứu trong nước
cũng như nước ngoài về chi Zingiber.
8
Gừng chứa 2 - 3% tinh dầu với thành phần chủ yếu là các hợp chất
hydrocarbon sesquiterpenic: β-zingiberen (35%), ar-curcumenen (17%), βfarnesen (10%) và một lượng nhỏ các hợp chất alcol
monoterpenic như geraniol, linalol, borneol [25].
Tomi và các cộng sự (1995) đưa ra các thành phần
chính của tinh dầu gồm: Zingiberen (27,2%), camphen
(7,9%), limonen (6,0%), - bisabonlen (5,9%) và (E,E)-farnesen (5,4%) [12].
Nhựa dầu chứa 20 - 25% tinh dầu và 20 - 30% các
chất cay. Thành phần chủ yếu của nhóm chất cay là
zingeron, shogaol và gingerol, trong đó gingerol chiếm tỷ lệ cao nhất [25].
Phân tích cặn H chiết từ cây gừng
Zingiber bằng phương pháp GC – MS đã xác
định được thành phần hóa học trong cặn chiết.
Một số chất có hàm lượng cao là: Linalool:
55,96%; α-Terpineol: 12,14%; elemol: 6,03%;
trans-asarone: 5,37%; 1-Borneol: 4,82%; 1,8cineole: 1,27%; endobornyl: 1,10%; elemen: 1,24%; germacrene: 5,72%;
betabisabolen: 3,34%; deta-cadinene: 1,24%; zingiberene: 1,2%; gammaelemene: 1,39%; valencene: 2,7%; ethyl hexadecanoate: 1,02% [23].
2.2. Tình hình chiết xuất, phân lập, định tính, định lượng
Trong tinh dầu gừng có khoảng 35 - 48 thành phần hố học khác nhau.
Trong đó có khoảng 24 chất chiếm tỷ lệ đáng kể với thành phần chính là các hợp
chất như là: zingiberene, -bisabolene, -sesquiphellandrene, curcumene,
camphene.
Quy trình thực hiện:
9
- Xác định hàm lượng tinh dầu bằng phương pháp lôi cuốn hơi nước với
dụng cụ Clevenger. Phần bã sau khi đã lấy tinh dầu được trích bằng ethyl acetat
(EtOAc) trong 3 giờ, cô loại dung môi dưới áp suất kém còn 152 g cao (G). Cao
G được cho thêm nước và một ít EtOAc để được dịch hơi sệt. Dịch này được lắc
bằng petroleum ether (PE). Pha nước được lấy ra và tiếp tục quy trình lắc cho
đến khi dịch trong thì ngừng lắc, phần cặn thu được là cao ethyl acetate GA
(40g).
- Từ cao GA (40 g), tiến hành sắc ký nhanh trên cột silicagel với hệ dung
môi giải ly (PE, EtOAc) có độ phân cực tăng dần. Kết quả thu được 12 phân
đoạn (GA1, GA2,…, GA12).
- Tại phân đoạn GA9 được tiếp tục tiến hành sắc ký cột silicagel lần 2 với
hệ dung mơi giải ly có độ phân cực tăng dần là (PE, EtOAc). Kết quả thu được 4
phân đoạn (GA9-1, GA9-2,…,GA9-4).
- Tại phân đoạn GA9-2 (dung môi giải ly PE : EtOAc = 6:4) thu được cặn
màu vàng nâu có vết chính với Rf = 0,31 (chloroform : methanol = 9:1). Kết tinh
lại trong methanol thu được tinh thể dạng bột trắng, mp = 283 - 284°C, ký hiệu
là GA9-2 (31 mg) [16].
3. Tác dụng sinh học
3.1. Tác dụng dược lý đã được nghiên cứu
- Ức chế thần kinh trung ương, làm giảm vận động tự nhiên và tăng thời
gian gây ngủ của thuốc ngủ barbituric. Cao chiết gừng khô, gingerol và shogaol
đều ức chế sự vận động tự nhiên của chuột nhắt.
- Hạ nhiệt: shogaol và gingerol làm giảm sốt trên chuột.
- Giảm đau và giảm ho.
- Chống co thắt: shogaol và gingerol có tác dụng này.
- Chống nơn: dịch chiết gừng khơ có tác dụng.
10
- Chống loét đường tiêu hoá: dịch chiết nước gừng tươi, tiêm phúc mạc cho
chuột có tác dụng ức chế lt dạ dày thực nghiệm do gị bó.
- Kích thích tiết nước bọt: gừng tươi có tác dụng này.
- Kích thích sự vận chuyển trong đường tiêu hố.
- Tác dụng chống viêm.
- Ức chế sự tổng hợp PGE2, ức chế co bóp dạ dày.
- Cường tim: thành phần có vị cay của gừng có tác dụng ức chế men
ATPase.
- Chất Zingerone trong gừng có hoạt động chống trực khuẩn Escherichia
coli gây ra bệnh tiêu chảy..
3.2. Độc tính
Dùng q nhiều có thể dẫn tới những triệu chứng có liên quan đến hệ thống
tiêu hóa như: ợ nóng, tiêu chảy, các rắc rối ở dạ dày, tình trạng kích ứng ở
miệng và ợ hơi.
Gừng được cho là có tác dụng tương tự như aspirin. Chúng có thể làm
chậm q trình đơng máu và gây loãng máu. Điều này là một trong những mối
đe dọa nghiêm trọng đối với những bệnh nhân đang phải sử dụng những loại
thuốc chống đông máu.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy gừng có khả năng gây ra một vài
phản ứng dị ứng như: tình trạng khó thở, tắc nghẽn đường thở, sưng phồng ở
môi, lưỡi, phát ban hay mề đay. Nếu rơi vào những hợp này, cần ngưng sử dụng
gừng và đến bệnh viện để được kiểm tra kỹ hơn.
Sử dụng gừng trong thời gian dài có thể làm da bị khơ và ngứa rát.
Tiêu thụ nhiều gừng còn được cho là nguyên nhân khiến mắt trở nên nhạy
cảm với ánh sáng. Do đó, những người có xu hướng dễ bị mắc triệu chứng kể
trên khơng nên ăn gừng để tránh gây hại cho mắt.
11
Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) khuyến cáo phụ nữ
mang thai không nên dùng những sản phẩm chiết xuất từ gừng mà chưa tham
khảo ý kiến của bác sĩ điều trị, bởi chúng có thể gây ra các cơn co thắt tử cung.
Trong thời kỳ cho con bú cũng khơng nên ăn gừng vì nó có thể được bài tiết vào
sữa mẹ gây ra chứng mất ngủ ở trẻ em.
Việc sử dụng gừng ở liều lượng cao có thể làm tim đập nhanh. Kết quả
nghiên cứu cho thấy việc tiêu thụ gừng dưới dạng thức uống có gas (bia gừng)
có thể gây ra chứng rối loạn nhịp tim nếu uống quá nhiều.
Trà gừng là một thức uống thơm ngon được nhiều người yêu thích. Chúng
giúp làm dịu bao tử nên có tác dụng hỗ trợ việc điều trị chứng buồn nôn. Tuy
nhiên, nếu uống quá 5 ly một ngày, có thể bị đau đầu, nơn mửa, tiêu chảy, ợ
nóng, tim đập nhanh và mất ngủ.
Gừng có khả năng kích thích cơ thể tiết ra nhiều mật. Do đó, những người
mắc các bệnh có liên quan đến túi mật thường được bác sĩ điều trị khuyên khơng
nên dùng gừng dưới mọi hình thức. Bởi vì sử dụng quá nhiều gừng có thể làm
gia tăng các cơn đau ở túi mật.
Người bị bệnh viêm gan cấp và mãn tính, xơ gan khơng nên ăn gừng vì nó
kích thích sự bài tiết của các tế bào gan. Những tế bào này sẽ bị hoại tử khi đang
trong trạng thái được kích thích.
Khi có dấu hiệu sốt cao và có nguy cơ tổn thương các mạch máu và xuất
huyết thì tuyệt đối khơng được dùng gừng, chúng sẽ đẩy thân nhiệt tăng cao
[22].
3.3. Công dụng theo y học cổ truyền
Gừng tươi chữa cảm mạo, phong hàn, nhức đầu, ngạt mũi, ho có đờm, nơn
mửa, bụng đầy trướng. Dùng làm thuốc kích thích tiêu hố, tăng bài tiết, sát
trùng, hành thuỷ, giải độc ngứa do bán ha, cua cá, chim, thú độc. Ngày dùng 4 -
12
8g, dạng thuốc sắc uống. Còn dùng làm thuốc xoa bóp và đáp ngồi chữa sưng
phù và vết thương.
Gừng khơ, gừng sao chữa đau bụng lạnh, đầy trướng không tiêu, thổ tả,
chân tay giá lạnh, mạch nhỏ, đàm ẩm, ho suyễn và thấp khớp. Ngày dùng 4-20 g
đang thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.
Gừng nướng chữa đau bụng. lạnh dạ, đi ngoài.
Gừng than chữa đau bụng lạnh, máu hàn, tay chân lạnh, nhức mỏi, tê bạt,
bàng huyết, ngày dùng 4 - 8 g, dạng thuốc sắc.
Kiêng kỵ đối với gừng: âm hư, nội nhiệt sinh ho, biểu hư làm ra mồ hôi
nhiều hoặc mất máu khơng nên dùng.
Vỏ gừng có vị cay mát chữa phù thũng.
Theo kinh nghiệm cổ truyền gừng được dùng ở Trung Quốc làm thuốc
chống độc, an thần, chống viêm, kích thích ăn ngon miệng và làm dễ tiêu. Được
chỉ định trong bệnh tả (phối hợp với nhiều được liệu khác), thấp khớp mãn tính,
nhức đầu kiểu đau dây thần kinh và co cứng, hen phế quản, buồn nôn, nóng,
viêm phế quản. Thân rẻ được dùng làm thuốc chống cảm lạnh và chống nhiễm
khuẩn trong các chứng ho và sổ mũi. Rẻ gừng khơ làm tăng trí nhớ, gừng phối
hợp với mới số dược liệu khác được chỉ định trong bệnh tăng nhãn áp. Dùng rễ
tươi dạng thuốc hãm. Rễ khô được dùng dạng nước sắc với liều 4 - 12 g cho một
lần, dạng bột với liều 2 - 3 g cho một lần. hoặc cao lỏng, cồn thuốc.
Ở Ấn Độ, gừng được dùng dưới dạng phơi sấy khơ và dạng tươi được bảo
quản để giữ lâu. Nó được dùng rộng rãi để làm gia vị, sản xuất oleoresin và cất
tinh dầu gừng. Gừng bảo quản để giữ lâu là gừng tươi gọt vỏ, ngâm trong siro
hay mật ong, hoặc chế biến thành gừng trộn đường kính là một thứ mứt ngon.
Nó cũng được dùng làm đồ uống. Trong y học, gừng được dùng làm thuốc tống
hơi, kích thích tiêu hố, chữa đầy bụng và đau bụng. Cao gừng được dùng làm
chất hỗ trợ cho nhiều thuốc bổ và kích thích. Gừng được dùng ngồi làm thuốc
13
kích thích và gây sung huyết tại chỗ. Nó được xếp vào những thuốc chống trầm
cảm và là một thành phần của một số chế phẩm chống tác dụng của thuốc ngủ.
Gừng có trong thành phần một bài thuốc cổ truyền Ayurveda dùng rộng rãi
ở Nepal để chữa các chứng bệnh cúm, cảm lạnh, kém ăn, khó tiêu, tiêu chảy,
viêm khớp và để làm thuốc giảm tiết acid dịch vị, chống co thất, làm hồi tỉnh.
Nhân dân Indonesia dùng gừng uống để chữa đau bụng, ho và dùng làm
thuốc bôi ngoài da cho phụ nữ và trẻ em.
Ở Bungari, gừng được dùng đang chè thuốc để chữa cảm lạnh, ho, sổ mũi,
sốt, viêm họng [25].
3.4. Bài thuốc dân gian chữa ho có chứa gừng
- Chữa ho lâu ngày và ợ: Gừng sống giã lấy nước cốt (1 thìa) trộn mật ong
(1 thìa). Đun nóng, uống dần ít một.
- Chữa hen: Nước gừng sống, nước chanh, sữa người, đồng tiện, đều 1
chén. Hâm ấm và uống, cho đến khi khỏi.
- Chữa cảm cúm, nhức đầu, ho, thân thể đau mỏi: Gừng sống giã nhỏ, bọc
vào mớ tóc rối, tẩm rượu xào nóng, đánh khắp người vào chỗ đau mỏi.
- Chữa cảm thấp nhiệt, sốt gai rét, nhức đầu, ngạt mũi, sổ mũi, ho đờm:
Gừng sống, hành trắng, mỗi vị 15 - 20 g. Sắc lấy nước uống nóng và xơng cho
ra mồ hơi.
- Chữa ho do lạnh: Tía tơ 12 g, gừng 8 g, bạch chỉ 6 g, bách hộ 12 g, trần bì
8 g, sả 10 g, húng chanh 10 g. Sắc uống ngày một thanh trong 5 ngày liền.
- Chống khô họng, viêm họng, viêm mũi đối với công nhân lặn: Kẹo ngậm
chứa hỗn hợp các tinh dầu: bạc hà, hương nhu, gừng, quế và menthol, vitamin C,
acid citric.
- Viên ngậm trị ho và hen: Cao lá táo 5/1 20mg, cao cà độc dược 1mg, cao
gừng 0,5mg, cao trần bì 2mg, tá dược vừa đủ làm thành một viên kẹo ngậm
0,4g.
14
- Chữa lao phổi có kèm theo sốt ở những bệnh nhân bị viêm dạ dày mạn
tính, viêm ruột non và viêm ruột kết: Gừng, nhân sâm, hoàng liên, hoàng cầm,
mỗi vị 6 g. Sắc với 600 ml nước, đun sôi trong 1 giờ. Chia 3 lần uống trong
ngày.
- Chữa lao phổi ở những giai đoạn đầu: Gừng 10 g, cam thảo 4 g, nhân sâm
6 g, táo chua (quả) 4 g. Sắc với 600 ml nước, còn 300 ml. Chia 3 lần uống nóng
trong ngày.
Nhân dân Indonesia dùng gừng uống để chữa đau bụng, ho và dùng làm
thuốc bôi ngoài da cho phụ nữ và trẻ em.
Ở Bungari, gừng được dùng đang chè thuốc để chữa cảm lạnh, ho, sổ mũi,
sốt, viêm họng [25].
4. Sản phẩm chứa gừng
4.1. Trong nước
Dầu nóng Mặt trời
Trà gừng
4.2. Trên thế giới
15
Viên ngậm trà gừng mật ong
Turmeric Curcumin 95% Standardized
Trà gừng mật ong cô đặc Original
with BioPerine and Ginger 2600mg
Ginger Honey Crystals
II. XUYÊN TÂM LIÊN
1. Về thực vật
1.1. Tên
- Tên khoa học: Andrographis paniculata (Burm. f.) Nees.
- Tên thường gọi: Xuyên tâm liên
- Tên địa phương: Công cộng, Khổ đởm thảo, Cây lá đắng, Nhất kiến kỷ,
Khô đảm thảo,…
- Theo Hệ thống phân loại APG III (2009)
Giới: Plantae
Bộ: Lamiales
Họ: Ơ rơ (Acanthaceae)
Chi: Andrographis
Lồi: A. paniculata
1.2. Đặc điểm thực vật
16
Xuyên tâm liên là cây ưa sáng. Cây thường sinh trưởng mạnh mẽ ở những
vùng đất có khí hậu ẩm mát. Nhiệt độ từ 22 - 25°C, lượng mưa 1500 - 2500 mm/
năm rất thích hợp cho cây sinh trưởng.
Dược liệu có thân thảo thẳng đứng, chiều cao khoảng 0,3 - 0,8 m, có cây
lên đến 1m. Tuổi thọ trung bình của dược liệu này khoảng 1 - 2 năm.
Thân cây vng, dọc thân có nhiều đốt và các rãnh nhỏ, từng nhánh phân
tách rõ rệt mọc theo 4 hướng.
Hoa cây thuốc màu trắng, điểm màu hồng ở giữa, thường mọc thành chùm
ở nách lá hoặc ngọn cành. Mùa hoa: tháng 9 - 12, mùa quả: tháng 1 - 2. Khi cây
sắp ra hoa lá nhỏ dần và rụng sớm. Hoa nở từ các cành phía dưới trước, sau dần
lên các cành ở ngọn. Ngược lại khi cây tàn úa vàng lụi lại bắt đầu từ các cành ở
ngọn trước.
Lá xuyên tâm liên mọc đối xứng nhau, từng lá có hình mũi mác hoặc hình
trứng dài khoảng 4 - 6 cm, phần cuống ngắn rõ rệt. Lá cây tù ở giữa, 2 đầu nhọn,
bề mặt nhẵn và mang màu xanh lục.
Quả dạng nang dài, kích thước chiều rộng 3,5 mm, chiều dài 16 mm. Khi
già tự mở cho hạt thoát ra ngoài. Chú ý khi thu quả cả để lấy hạt giống cần tiến
hành khi cây bắt đầu vàng úa lá chuyển sang màu đỏ hoặc vàng. Nếu thu hái
chậm quả khô để tách ra rơi mất hạt.
Hạt cây thuốc hình trụ, thn dài và mang màu từ vàng nhạt đến nâu nhạt.
Hạt xuyên tâm liên có tỉ lệ nảy mầm khá cao khoảng 70 đến 80% thời gian nảy
mầm thường sau 7 ngày kể từ ngày gieo [26].
17
1.3. Phân bố, sinh thái
Chi Andrographis Wall. có khoảng 40 lồi. Xun tâm liên có nguồn gốc
từ Ấn Độ, sau lan sang các nước nhiệt đới như Malaysia, Thái Lan, Campuchia,
Việt Nam, Philippin, Indonesia và Trung Quốc. Trong đó, Việt Nam, Trung
Quốc, Ấn Độ là những nước trồng nhiều xuyên tâm liên nhất ở châu Á.
Tại Việt Nam, dược liệu này được trồng nhiều ở khu vực vùng núi phía Bắc
và một số tỉnh miền Trung. Điển hình là các tỉnh Bắc Kạn, Sơn La, Hịa Bình,
Nghệ An…[26].
1.4. Bộ phận sử dụng
Tất cả cây.
1.5. Thời điểm thu hái
Lá thu lúc cây bắt đầu ra nụ, toàn cây thu lúc cây bắt đầu nở hoa.
1.6. Chế biến dược liệu
Có thể dùng tươi hoặc phơi hay sấy nhẹ đến khô để dùng dần [26].
1.7. Vị thuốc
Xun tâm liên có vị đắng, tính hàn.
2. Về hóa học
18
Thành phần hóa học của xuyên tâm liên có chứa 2 nhóm hoạt chất chính là
diterpen lacton và flavonoid [30].
2.1. Diterpen lacton
Các
diterpen
lacton
là
andrographolid,
deoxyandrographolid,
neoandrographolid, homoandrographolid, 14–deoxy–11-oxoandrographolid, 14–
11,12–didehydro–andrographolid, andrographosid, 14–deoxyoandrographosid,
deoxyandrographolid–19–β–D–glucosid,
14–deoxy–12–
methoxyandrographolid, andrograpanin, andropanosid, ent-14β–hydroxy–8, 12–
labadien–15, 16–olid–3β, 19–oxyd [35].
Hàm lượng andrographolid ở lá là 2,6%, ở thân là 0,1 - 0,4%. Lá chứa hơn
2% andrographolid trước khi cây ra hoa, sau đó chỉ cịn dưới 0,5%.
Cơng thức hóa học của một số diterpen lacton có trong xuyên tâm liên
2.2. Flavonoid
Các flavonoid là 7-O-methylwogonin, wogonin, oroxylin A, apigenin-7, 4’dimethyl ether, andrographin, paniculin, mono-O-methylwithin [35].
Rễ có một flavanon glycosid là andrographidin, nhiều flavon glycosid là
andrographidin B, C, D, E và F. Khơng những vậy, rễ cịn có 2’,5-dihydroxy-7,8–
dimethoxyflavon-2’-O-β-D-glucosid
và
[30].
19
3β-hydroxy-5-stigmasta-9,12(2β)-dien
Cơng thức hóa học của một số flavonoid có trong xuyên tâm liên
Ngoài thành phần là các diterpen lacton và flavonoid, xun tâm liên cịn
có các chất khác là andrographan, adrographon, andrographosterin, panicolid,
β-sitosterol-D-glucosid, α-sitosterol [30].
3. Tác dụng dược lý
3.1. Tác dụng dược lý đã được nghiên cứu
3.1.1. Tác dụng chống viêm
Một nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng việc sử dụng chiết xuất A.
paniculata methanol trong màng bụng (ip.) Trong 5 ngày liên tiếp (50 mg/ngày)
đã ức chế sản xuất 65% NO của đại thực bào trong phúc mạc và ức chế đáng kể
carageenan gây ra sự hình thành phù chân ở chuột. Andrographolide ức chế sản
xuất oxit nitric (NO) và sự biểu hiện và ổn định của protein tổng hợp cảm ứng
(iNOS) trong các tế bào RAW264.7 (RAW) được kích thích bằng
lipopolysaccharide (LPS). Andrographolide ức chế sản xuất gốc oxy trong bạch
cầu trung tính, ức chế sự di chuyển của đại thực bào, hoạt động của NF-κB cũng
như sản xuất TNF-α và IL-12. Các hoạt động chống viêm này của
andrographolide có thể là kết quả của việc nó can thiệp vào con đường phụ
thuộc protein kinase C, kinase1/2 điều hịa tín hiệu ngoại bào (ERK1/2) hoặc
con đường tín hiệu PI3K/Akt.
20
Neoandrographolide, được phân lập từ phần EtOAc trong chiết xuất
methanol, ngăn chặn sự sản xuất NO cả in vitro và ex vivo ở đại thực bào phúc
mạc do bacillus Calmette-Guéin (BCG) gây ra ở chuột. Neoandrographolide ức
chế sản xuất TNFα và PGE2 in vitro trong tế bào RAW, ức chế phù tai do
dimethyl benzen gây ra ở chuột. Andrograpanin, một sản phẩm thủy phân từ
neoandrographolide, làm giảm sản xuất NO, TNFα và IL-6 trong các tế bào đại
thực bào được hoạt hóa LPS có nguồn gốc từ tủy xương ở chuột, có thể do sự
điều hịa của con đường tín hiệu p38 mitogen-hoạt hóa protein kinase (MAPKs).
Để sàng lọc các loại thảo mộc chống viêm, các chuyên gia đã truyền
luciferase (với vị trí liên kết NF-κB) vào các tế bào RAW đại thực bào của chuột
và đo lường sự ức chế các hoạt động của luciferase. Chiết xuất EtOAc của A.
paniculata ức chế biểu hiện gen luciferase phụ thuộc NF-κB và ức chế TNF-α,
IL-6, protein viêm đại thực bào-2 (MIP-2), NO và PGE2 sản xuất bởi các tế bào
RAW được kích thích bởi LPS / IFNγ. Trong mơ hình sốc nội độc tố, những con
chuột được bổ sung bằng chiết xuất AP EtOAc bằng đường uống có TNF-α,
MIP-2, IL-12 hoặc NO trong huyết thanh hoặc đại thực bào phúc mạc thấp hơn
đáng kể khi thử thách với LPS. Những con chuột được thử thách với LPS đó
cũng có sự xâm nhập của các tế bào viêm vào phổi thấp hơn và tỷ lệ sống sót
cao hơn [29].
3.1.2. Tác dụng chống ung thư
Kumar và cộng sự đã phân đoạn dịch chiết metanol của A. paniculata thành
diclometan, ete dầu hỏa và dịch chiết nước và nhận thấy rằng chỉ phần
diclometan ức chế đáng kể sự gia tăng của tế bào ung thư ruột kết HT-29 (Tế
bào HT-29 sản xuất quá mức kháng nguyên khối u p53). Họ tiếp tục phân đoạn
dịch chiết dichloromethane và thu được ba hợp chất diterpene, đó là
andrographolide,
14-deoxyandrographolide
và
14-deoxy-11,12-
didehydroandrographolide. Andrographolide cho thấy hoạt động chống ung thư
21
lớn nhất trên một loạt các tế bào ung thư. Chiết xuất etanol A. paniculata cho
thấy các hoạt động gây độc tế bào chống lại các dòng tế bào ung thư ở người,
chẳng hạn như tế bào Jurkat (tế bào lympho), PC-3 (tuyến tiền liệt), HepG2 (u
gan) và tế bào Colon 205 (đại tràng). Một nghiên cứu in vivo đã chứng minh
rằng chiết xuất ethanol 70% của A. paniculata và andrographlide làm tăng tuổi
thọ của những con chuột được tiêm tế bào thymoma. Được phân lập từ chiết
xuất etanol 85% của A. paniculata , andrographolide và isoandrographolide thể
hiện các hoạt động chống tăng sinh trong tế bào bệnh bạch cầu ở người HL-60
cao hơn so với 16 ent -labdane diterpenoids khác với IC 50 tương ứng là 9,33 và
6,30 μM [29].
Cơ chế chống ung thư của andrographolide đã được nghiên cứu.
Andrographolide và các chất tương tự của nó có tác dụng chống ung thư trực
tiếp trên tế bào ung thư bằng cách bắt giữ chu kỳ tế bào ở pha G0/G1 thông qua
cảm ứng protein ức chế chu kỳ tế bào và giảm biểu hiện kinase phụ thuộc cyclin.
Các hợp chất khác có thể ngăn chặn sự tiến triển của chu kỳ tế bào ở pha G2/M.
Andrographolide ức chế sự phát triển của tế bào u gan ở người thông qua việc
kích hoạt c-Jun N-terminal kinase hoặc gây ra sự biệt hóa tế bào.
Andrographolide gây ra q trình apoptosis ở các tế bào ung thư ở người thơng
qua việc kích hoạt caspase 8, các thành viên gia đình Bcl-2 pro-apoptotic thay
đổi cấu trúc Bax, giải phóng cytochrome C từ ty thể và kích hoạt dịng caspase
và / hoặc thơng qua việc kích hoạt chất ức chế khối u p53 bằng cách kích hoạt cJun NH2 -terminal kinase (JNK) phụ thuộc ROS, do đó làm tăng q trình
phosphoryl hóa p53 và ổn định protein. Andrographolide có thể ngăn chặn sự
biến đổi do gen sinh ung thư v-Src gây ra và điều chỉnh giảm sự biểu hiện của
protein v-Src thông qua sự suy giảm của con đường tín hiệu ERK1/2.
Ngồi ra, tăng cường khả năng miễn dịch và ức chế sự hình thành mạch và
sự di chuyển của tế bào khối u cũng có thể góp phần vào tác dụng chống ung
thư. Ức chế sự phát triển của tế bào ung thư ở người, chiết xuất A. paniculata
22
giúp tăng sinh và cảm ứng IL-2 trong tế bào lympho máu ngoại vi của người.
Sheeja và cộng sự cho thấy chiết xuất etanol A. paniculata và andrographolide
đã kích thích hoạt động của tế bào lympho T gây độc tế bào (CTL) thơng qua
việc tăng cường giải phóng IL-2 và IFNγ trong huyết thanh do đó ức chế sự phát
triển của khối u. A. Paniculata chiết xuất ethanol và andrographolide đã ức chế
thành công sự nảy mầm mao mạch cụ thể của khối u mà không làm tổn hại đến
hệ mạch có sẵn ở chuột được tiêm tế bào hắc tố. Chiết xuất A. paniculata ức chế
sự hình thành mạch đặc hiệu của khối u bằng cách điều chỉnh giảm các phân tử
tiền sinh khác nhau như yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), NO và
các cytokine tiền viêm và các phân tử chống tạo mạch điều hòa lên như IL-2 và
chất ức chế mô của metalloproteinase-1 (TIMP-1) ngăn chặn sự di căn của khối
u. Khi các tế bào khối u có thể biểu hiện mức độ cao của các kháng nguyên bề
mặt sialyl Lewis tương tác với các phân tử kết dính E- và P-selectin trên các tế
bào nội mơ được hoạt hóa, tế bào ung thư kết dính với các tế bào nội mơ, dẫn
đến sự thoát mạch của khối u dẫn đến di căn. Andrographolide ức chế sự bám
dính của tế bào ung thư vào lớp nội mạc hoạt hóa bằng cách ngăn chặn biểu hiện
E-selectin. Andrographolide cũng có thể ức chế sự hình thành mạch đối với sự
di căn của khối u thông qua sự biểu hiện ma trận điều hịa xuống
metalloproteinases-7 (MMP-7), có thể bằng cách bất hoạt chất kích hoạt protein1 (AP-1) thơng qua việc ức chế con đường tín hiệu PI3K/Akt.
Một chất tương tự bán tổng hợp mới của andrographolide, DRF3188, cho
thấy các hoạt động chống ung thư ở liều lượng thấp hơn andrographolide thông
qua một cơ chế tương tự. Mối quan hệ tổng hợp và cấu trúc-hoạt động của các
chất tương tự andrographolide như là tác nhân gây độc tế bào mới cho thấy rằng
gốc α-alkylidene γ-butyrolactone nguyên vẹn của andrographolide, liên kết đôi
D12, hydroxyl C-14 hoặc gốc este của nó và D8 đơi liên kết hoặc gốc epoxy
chịu trách nhiệm cho các hoạt động gây độc tế bào được thể hiện bởi
andrographolide và các chất tương tự của nó. Các chất chống ung thư thường có
23