Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thuyết minh về cây lúa lớp 6 (12 mẫu) siêu hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.06 KB, 24 trang )

Thuyết minh về cây lúa lớp 6
Đề bài: Thuyết minh về cây lúa.
Bài giảng Ngữ văn 6 Lễ cúng thần lúa của người dân Chơ-ro
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa lớp 6
I). Mở bài:
Từ bao đời nay, cây lúa đã gắn bó và là một phần khơng thể thiếc của con người Việt
Nam
Cây lúa đồng thời cũng trở thành tên gọi của một nền văn minh – nền văn minh lúa
nước.
II) Thân bài:
1. Khái quát:
Cây lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc.
Là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và của Châu Á nói riêng.
2. Chi tiết:
a. Đặc điểm, hình dạng, kích thước:
Lúa là cây có một lá mầm, rễ chùm.
Lá bao quanh thân, có phiến dài và mỏng.
Có 2 vụ lúa: Chiêm, mùa.
b. Cách trồng lúa: Phải trải qua nhiều giai đoạn:
Từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ.
Rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng
Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân.
Ruộng phải sâm sấp nước.
Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm có, bón phân, diệt sâu bọ.
Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo…
c. Vai trò của cây lúa và hạt gạo:
Vấn đề chính của trồng cây lúa là cho hạt lúa, hạt gạo.
Có nhiều loại gạo: Gạo tẻ, gạo nếp (dùng làm bánh chưng, bánh dày)…
* Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh dày hay đồ các loại xôi.
* Lúa nếp non dùng để làm cốm.



- Lúa gạo làm được rất nhiều các loại bánh như: Bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ,
bánh phở, cháo,…
Nếu khơng có cây lúa thì rất khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực độc
đáo của Việt Nam.
d. Tác dụng:
Ngày nay, nước ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc
gia.
Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau
Thái Lan về sản xuất gạo.
Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt Nam
III) Kết bài:
Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt
Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 1
Đất nước Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Vì thế từ bao đời nay cây lúa
đã gắn liền với nỗi nhọc nhằn, vất vả của người dân Việt Nam. Từ Bắc chí Nam, đâu
đâu cũng xuất hiện những cánh đồng mênh mơng bát ngát, trải dài tít tận chân mây như
dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước Việt Nam – đất nước nông nghiệp với sự
gắn bó của con người và cây lúa xanh tươi. Việt Nam có nhiều loại lúa: lúa nước, lúa
nổi, lúa cạn, lúa nếp, lúa tẻ,…. Ở nước ta, nghề trong lúa phát triển mạnh ở các lưu vực
sông Hồng và sông Cửu Long. Cây lúa nước là loại cây thân cỏ, trịn có nhiều giống và
đốt. Giống thường rỗng, đặc ở đốt. Lá dài có bẹ ơm lấy thân. Gân lá song song. Những
chiếc lá lúa giống như hình lưỡi. Dáng lá yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay
bé xíu đùa giỡn với gió. Sóng lúa nhấp nhô giữa chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi
bức tranh đồng quê thi vị, mượt mà. Đó là đề tài quen thơ của thơ ca nhạc họa. Rễ lúa
là rễ chùm, mọc nông trên đất. Hoa lúa mọc thành bơng, khơng có cánh hoa. Khi nở
nhụy dài ra có chùm lơng có tác dụng qt hạt phấn. Quả lúa (thóc) khơ có nhiều chất
bột. Vỏ quả gồm vỏ trấu và vỏ cám. Vỏ cám dính sát vào hạt, cịn vỏ trấu ở ngoài do

máy tạo thành. Khi lúa tạo hạt, vỏ thóc xuất hiện trước bảo vệ phần tinh bột phát triển
sau ở bên trong. Cơm gạo là thức ăn chính trong bữa ăn con người Việt Nam. Từ hạt
gạo có thể chế tạo ra những đặc sản như: Bánh tráng, bánh phồng, các loại bánh nổi
tiếng của vùng. Nhưng đặc biệt nó có lẽ là bánh chưng, bánh giầy và cốm. Lúa gạo là
nguồn dự trữ đảm bảo an ninh lương thực của nước ta và thế giới. Xuất khẩu gạo là
nguồn kinh tế làm giàu cho đất nước. Thân lúa (rơm, rạ ) dùng để làm các chất đốt.


Rơm khơ là thức ăn cho gia súc và cịn là nguyên liệu cho các mặc hàng thủ công mỹ
nghệ.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 2
Từ xa xưa, lúa đã lồi cây vơ cùng gần gũi với con người. Lúa là cây quan trọng không
chỉ với người VIệt Nam mà còn là với hầu hết các nước châu Á. Nó là lồi cây thuộc rễ
chùm, có một lá mầm. Nói về trồng lúa thì ta biết nhiều về hai vụ chiêm và mùa- hai vụ
trồng chính của người dân Việt Nam. Cây lúa được trồng và phát triển từ cây mạ. Mạ
được gieo trên sân hoặc cấy trên ruộng. Người nông dân sẽ nhổ mạ và đem trồng trên
ruộng đã có cày bừa, bơm nước. Mạ được trồng theo hàng, lối để đảm bảo khi mạ lớn
lên thì sẽ có khơng gian phát triển. Nó lớn lên, đẻ nhánh và thành từng cụm lớn. Một
màu xanh sẽ bao trùm trên đồng ruộng khi mạ lớn dần lên. Người nơng dân sẽ chăm
bón, phun thuốc sâu để cây lúa có thể thu hoạch tốt nhất. Lúa sau một thời gian chăm
bẵm sẽ chín và ngả sang màu vàng với những hạt thóc chắc, mẩy. Lúa chín, người nơng
dân sẽ th hoạch mang về nhà rồi dùng máy tuốt phân biệt hạt thóc và phần rơm riêng
biệt. Cây lúa nước là cây lương thực chủ đạo của Việt Nam, mặc dù bên cạnh nó cịn
có các loại cây khác như ngơ, khoai, sắn…nhưng khơng loại cây nào có thể thay thế
được vị trí, vai trị quan trọng của lúa nước.Lúa chính là thành quả của một q trình
lao động sản xuất nhiều công đoạn, trải qua nhiều nắng mưa, nhiều mồ hôi và lo toan
của người nông dân.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 3
Đất nước Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Vì thế từ bao đời nay cây
lúa đã gắn liền với nỗi nhọc nhằn, vất vả của người dân Việt Nam. Từ Bắc chí Nam,

đâu đâu cũng xuất hiện những cánh đồng mênh mơng bát ngát, trải dài tít tận chân
mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước Việt Nam – đất nước nông
nghiệp với sự gắn bó của con người và cây lúa xanh tươi.
Khơng biết từ bao giờ có khái niệm cây lúa có trong từ điển Việt Nam. Từ một giống
cây hoang dại, cây lúa đã được con người cải tạo và thuần hóa trở thành cây lương
thực chính. Để có được những hạt thóc vàng căng mẩm là bao mồ hơi, cơng sức của
người nơng dân. Hạt thóc ngâm nước, ủ lên mầm, gieo xuống bùn trở thành cây mạ
xanh non. Sau khi làm đất ký mạ non được bó lại như lên ba theo mẹ ra đồng và được
cắm xuống bùn sâu. Qua bàn tay chăm sóc của người dân cấy lúa đã phát triển xanh
tươi thành ruộng lúa nối bờ mênh mông bát ngát.


Việt Nam có nhiều loại lúa: lúa nước, lúa nổi, lúa cạn, lúa nếp, lúa tẻ,….Có nhiều loại
thơm ngon, rất nổi tiếng như lúa nàng hương, nàng thơm chợ đào,…. Nhiều giống lúa
cho năng xuất cao, thích nghi ở nhiều loại đất khác nhau. Trừ những vùng quá phèn,
quá mặn hoặc khơ cằn. Ở đâu có nước ngọt là có trồng lúa. Tuy nhiên cây lúa thích
hợp nhất vẫn là đất phù sa. Ở nước ta, nghề trong lúa phát triển mạnh ở các lưu vực
sông Hồng và sông Cửu Long.
Cây lúa nước là loại cây thân cỏ, trịn có nhiều giống và đốt. Giống thường rỗng, đặc
ở đốt. Lá dài có bẹ ơm lấy thân. Gân lá song song. Những chiếc lá lúa giống như hình
lưỡi. Dáng lá yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay bé xíu đùa giỡn với gió.
Sóng lúa nhấp nhơ giữa chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi bức tranh đồng quê thi
vị, mượt mà. Đó là đề tài quen thơ của thơ ca nhạc họa.
Rễ lúa là rễ chùm, mọc nông trên đất. Hoa lúa mọc thành bơng, khơng có cánh hoa.
Khi nở nhụy dài ra có chùm lơng có tác dụng qt hạt phấn. Quả lúa (thóc) khơ có
nhiều chất bột. Vỏ quả gồm vỏ trấu và vỏ cám. Vỏ cám dính sát vào hạt, cịn vỏ trấu ở
ngồi do máy tạo thành. Khi lúa tạo hạt, vỏ thóc xuất hiện trước bảo vệ phần tinh bột
phát triển sau ở bên trong.
Vụ lúa Việt Nam phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết nên thường có những thời vụ khác
nhau. Vụ lúa chiêm gieo từ tháng 10 âm lịch gặt tháng 1-2 năm sau. Vụ lúa xuân gieo

từ tháng 2 âm lịch gặt tháng 4-5. Vụ lúa hè – thu gieo tháng 5-6 gặt tháng 8-9.
Hạt lúa, hạt gạo là nguồn lương thực chính của Việt Nam. Cơm gạo là thức ăn chính
trong bữa ăn con người Việt Nam. Từ hạt gạo có thể chế tạo ra những đặc sản như:
Bánh tráng, bánh phồng, các loại bánh nổi tiếng của vùng. Nhưng đặc biệt nó có lẽ là
bánh chưng, bánh giầy và cốm.
Lúa gạo là nguồn dự trữ đảm bảo an ninh lương thực của nước ta và thế giới. Xuất
khẩu gạo là nguồn kinh tế làm giàu cho đất nước. Thân lúa (rơm, rạ ) dùng để làm các
chất đốt. Rơm khơ là thức ăn cho gia súc và cịn là nguyên liệu cho các mặc hàng thủ
công mỹ nghệ.
Sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi vào xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng hình
ảnh cây lúa và giá trị của nó vẫn là vị trí quan trọng nhất trong quá trình phát triển đất


nước. Chẳng thế cây lúa còn được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối
ASEAN như một báu vật cao quý.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 4
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn. (Ca dao)
Hai câu ca dao ấy thật nhẹ nhàng đã đi sâu vào trái tim của hàng triệu, hàng triệu trái
tim Việt Nam mỗi khi nhớ về chốn làng quê thanh bình với những cánh đồng lúa
thẳng cánh cị bay. Và có lẽ, sẽ chẳng ai có thể quên được hình ảnh cây lúa nước –
một biểu tượng một nét vẽ đơn sơ, bình dị mà rất đỗi xinh tươi trong bức tranh về làng
quê Việt Nam.
Cây lúa là một trong năm loại cây lương thực chủ yếu của thế giới và là loại cây
lương thực chủ đạo ở Việt Nam. Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới khu
vực Đông Nam Á của châu Á và ở châu Phi. Thêm vào đó, cây lúa cịn là lồi thực vật
thuộc một loại cỏ đã được con người thuần dưỡng, đưa vào nhân giống, cấy ghép và
phát triển. Và như vậy, với nguồn gốc ấy, cây lúa có thể phát sinh, phát triển một cách
nhanh chóng trong điều kiện khí hậu, thời tiết ở Việt Nam.
Nếu như những loài cây lương thực khác trên thế giới như khoai tây, bắp, lúa mì, sắn

sống ở trên cạn thì cây lúa lại hồn tồn khác. Lúa là loài cây thủy sinh, sống và phát
triển chủ yếu ở môi trường nước. Thông thường, mỗi cây lúa cao khoảng 1 đến 1,8
mét. Thêm vào đó, lúa là lồi cây rễ chùm, vì vậy, nó có thể bám chắc vào trong lòng
đất để hút dưỡng chất, cung cấp cho quá trình sinh trưởng, phát triển.
Lúa là lồi cây thân thảo, thân cây được chia làm các mắt khác nhau, bên trong
thường rỗng. Ở mỗi làng quê, vào vụ gặt, lũ trẻ con thường dùng thân cây lúa để làm
nên những chiếc kèn, âm thanh của những tiếng kèn ấy nghe thật vui tai, như góp
phần xóa đi cái nắng nóng của mùa hè và sự mệt nhọc của những ngày mùa. Lá cây
lúa hình dẹt dài và mỏng mọc bao phủ bên ngồi thân cây.
Tùy vào từng thời kì mà lá cây lúa có độ dài và màu sắc khác nhau. Thì con gái, lúa
khốc lên mình những chiếc áo xanh mát và đến gần mùa thu hoạch thì lá lúa chuyển
sang màu vàng.


Đặc biệt, sau một thời gian gieo trồng, cây lúa trổ bông. Bông lúa thường dài từ 35
đến 50 xăng-ti-mét, chứa rất nhiều hạt lúa, rủ xuống trông rất tuyệt. Những bơng lúa
ấy chính là sự kết tinh những tinh hoa của trời đất và tấm lòng, sự cần cù, chăm chỉ
của những người lao động nơi chốn làng quê.
Ở nước ta hiện nay thường có hai vụ lúa chính là vụ chiêm (thu hoạch vào khoảng
tháng 5, tháng 6 âm lịch) và vụ mùa (thu hoạch vào tháng 8, tháng 9 âm lịch). Song,
để cây lúa có thể sinh trưởng, phát triển cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Trước tiên, người nơng dân phải tìm được giống lúa phù hợp với điều kiện khí hậu,
đất đai nơi gieo trồng cây lúa.
Sau khi đã chọn được giống lúa phù hợp, người nông dân sẽ tiến hành ủ giống, đến
lúc những hạt lúa giống nảy mầm, người ta sẽ gieo chúng xuống đất, chăm sóc nó đến
lúc những mầm xanh nhú lên, những cây mạ xanh ra đời. Trong lúc chờ mạ lớn và
cứng cáp hơn, người ta sẽ cày, bừa đất, chờ đến khi cây mạ cứng cáp rồi sẽ đem cấy
xuống ruộng.
Những ruộng lúa lúc vừa cấy xuống khốc lên mình một màu áo xanh mơn mởn. Để
rồi, đến lúc thì cịn gái, cánh đồng lúa trở mình, mặc một chiếc áo xanh sẫm và bắt

đầu hình thành bơng, những bơng lúa bên trong mang dịng sữa trắng ngần, ngọt ngào
và thơm phức tỏa ngát cả vùng quê.
Sau một thời gian, lúc lúa ngả sang màu vàng, những bơng lúa đã chín, người ta gặt
nó mang về nhà rồi tuốt lúa, phơi và xát lúa để tạo nên những hạt gạo. Tuy nhiên,
trong quãng thời gian từ lúc cấy lúa đến lúc thu hoạch, những con người nơi đây phải
thường xuyên thăm đồng, bắt sâu, bón phân, cung cấp thêm nước để cây lúa có đủ
điều kiện tốt nhất để phát triển. Quả thực, quá trình phát triển cây lúa rất phức tạp, bởi
vậy đòi hỏi ở người gieo trồng rất nhiều công sức và phải chăng vì thế, nhân dân ta
xưa nay vẫn thường có câu:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay mn phần (Ca dao)
Thêm vào đó, cây lúa giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của con người Việt
Nam từ xưa đến nay. Từ thời xa xưa, Lang Liêu đã lấy gạo làm bánh kính dâng lên
vua cha. Và cũng kể từ đấy, cây lúa đã trở thành một nét đẹp, một biểu tượng của nền


văn hóa dân tộc. Trong đời sống của chúng ta ngày nay, cây lúa vẫn ln giữ một vai
tị đặc biệt quan trọng. Hạt lúa chính là nguồn lương thực chủ yếu cho chúng ta mỗi
ngày.
Những hạt lúa, hạt gạo ấy chính là “hạt ngọc trời”. Gạo khơng chỉ dùng làm lương
thực chính mỗi ngày mà nó cịn là nguồn nguyên liệu làm nên nhiều thứ bánh khác
nhau là đặc sản của mỗi miền, đó là bánh đa, là bánh tẻ, là bánh cuốn,… Khơng chỉ có
hạt gạo, thân cây lúa sau khi gặt và phơi khô được gọi là rơm, nó là nguồn thức ăn cho
gia súc trong nhà, đồng thời, nó là những “chiếc nệm” giữ ấm cho gia súc trong những
ngày mùa đông giá rét.
Đặc biệt, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, hiện nay nước ta đã lai tạo được hơn
30 giống lúa khác nhau và nước ta là một trong số những nước đứng đầu thế giới về
xuất khẩu lúa gạo. Điều đó thêm một lần nữa chứng minh cho chúng ta thấy vai trị, vị
trí to lớn của cây lúa trong q trình xây dựng và phát triển đất nước.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 5

Việt Nam được thế giới biết đến là một đất nước với một nền nông nghiệp lâu đời,
phát triển từ rất sớm. Do vậy, từ lâu cây lúa đã xuất hiện và trở thành lương thực
chính trong đời sống của người Việt.
Cây lúa có mặt ở Việt Nam và trên thế giới từ bao giờ vẫn cịn là một câu hỏi lớn.
Khơng ai biết được chính xác, cụ thể thời gian và khơng gian. Có lẽ chúng xuất hiện
cùng với những ngày đầu con người biết đến trồng trọt.
Lúa là một trong số cây lương thực chính của Việt Nam nói riêng và châu Á nói
chung. Trên chặng hành trình trải dài từ miền Bắc vào đến trong Nam, khơng có nơi
đâu là thiếu vắng hình ảnh những cánh đồng lúa mênh mơng trải dài vơ tận. Có rất
nhiều các loại giống lúa khác nhau phù hợp với đặc điểm khí hậu và địa hình của mỗi
vùng miền như: Nếp 97, xi, quy... Tuy khác nhau về giống nhưng chúng đều có chung
đặc điểm. Lúa thuộc họ cây thân mềm, rễ chùm, dài. Thân lúa thường mọc thẳng. Lá
lúa dài như lưỡi kiếm, mặt lá nhám. Khi cịn non thì mang màu xanh mỡ màng, lúc
chín, lá lúa khốc trên mình chiếc áo vàng óng ả, cùng với hương thơm ngào ngạt của
bông lúa chín tạo nên một nét vẽ thơn q bình n đến lạ, mang đậm hồn dân tộc.


Bơng lúa nằm phía ngọn cây, mọc thành từng chùm, sau sinh trưởng và thành hạt lúa.
Hạt lúa được người nông dân xay xát và trở thành hạt gạo.
Cây lúa là loại cây chủ yếu sống dưới nước. Nếu thiếu nước, lúa khơng thể phát triển
bình thường được. Q trình sinh trưởng của lúa chia làm 3 thời kỳ. Khi mới cấy, cây
lúa còn là những cây mạ trưởng thành. Người nông dân tiến hành nhổ cấy trên các
thửa ruộng. Những ngày đầu, lúa phát triển có hơi chậm chắc vì cịn chưa quen thuộc
với mơi trường sống. Thân cây lúc đó mảnh mai và yếu ớt, dài khoảng 20cm, với 4, 5
chiếc lá nhỏ xanh non. Khoảng thời gian sau đó, ước chừng một tháng, lúa đã trưởng
thành và được người dân yêu quý gọi với cái tên lúa đang trong thời con gái vì đây là
giai đoạn mà cây lúa phát triển nhất: Đẻ nhánh và làm đòng. Chiều cao của chúng bây
giờ đã khoảng 50-60cm với nhiều lá xanh đậm sắc, dài ôm chặt lấy thân. Bên trong là
những chiếc đòng trắng ngần, tinh khiết.
Cuối cùng là thời kỳ lúa trổ bông và làm mẩy. Đây là giai đoạn cây lúa vươn cao nhất,

khoảng 80-100cm, thân cây cứng cáp. Mỗi cây lúa cho một bông, chừng 200 hạt, mỗi
hạt là một bông hoa. Thời kỳ trổ bông, lúa giữ gìn từng cánh hoa, thơm phức rồi nhờ
gió thụ phấn cho nhau. Khoảng một tuần sau, lúa làm mẩy và chín dần. Những bơng
lúa trĩu nặng, vàng ươm dưới ánh mặt trời khiến cánh đồng quê trở nên đẹp lung linh
như dát vàng. Lúc đấy, lúa đã sẵn sàng chờ con người đến cắt mang về.
Để trồng ra những hạt gạo trắng ngần, dẻo thơm, người nông dân luôn phải tần tảo
một nắng, hai sương, không quản ngại khó nhọc, tỉ mỉ ở mỗi một cơng đoạn: Từ khi
chọn giống lúa sao cho đạt tiêu chuẩn, năng suất cao, chống chịu sâu bệnh, chuẩn bị
đất: Dọn cỏ, trục bùn cho đến gieo mạ, bón phân, quản lý và điều chỉnh lượng nước
cho thích hợp với từng giai đoạn phát triển của lúa, phòng trừ cỏ dại, sâu bệnh hại.
Khi lúa trổ bông rồi đến kỳ thu hoạch, người dân lại lam lũ ra đồng cắt lúa về tuốt hạt,
phơi khô, xát gạo. Chừng ấy công đoạn, chừng ấy nỗi vất vả, tảo tần, kể làm sao cho
hết!
Lúa tuy nhỏ bé nhưng có rất nhiều cơng dụng. Hạt gạo được coi là nguồn lương thực
chính của người nơng dân, một thứ không thể thiếu trong mâm cơm mỗi gia đình Việt,
từ giản đơn đến sang trọng. Thân lúa ngày xưa thường được phơi cho khô để lợp nhà,
bện chổi, làm chất đốt. Rơm cịn là thức ăn chính của trâu, bò trong những ngày mùa


đơng giá rét. Người ta đơi khi cịn dùng thân cây để ủ phân, cấy nấm. Hạt gạo qua chế
biến cịn trở thành những món ăn ngon lạ miệng. Hạt nếp xay thành bột để làm nên
những loại bánh thơm ngon, hấp dẫn như bánh trơi, bánh tét, bánh giị...Bột gạo còn
làm thành bánh phở, mỳ chũ. Nếp non làm nên thứ cốm dẻo thơm phảng phất dư vị
nồng nàn của Hà Nội xưa cũ. Bên cạnh đó, việc xuất khẩu lúa gạo ra thị trường quốc
tế giúp làm tăng thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu,
Việt Nam đã vươn lên trở thành đất nước xuất khẩu gạo lớn, đứng thứ 2 trên toàn thế
giới, chỉ sau Thái Lan.
Người dân ta vẫn thường nói với nhau rằng: "Hạt lúa là hạt vàng". Cây lúa không chỉ
là nguồn lương thực nuôi sống con người mỗi ngày mà cịn in dấu vẻ đẹp bình dị của
hồn quê, vẻ đẹp tảo tần của con người, góp phần làm giàu đẹp cho quê hương Việt

Nam yêu dấu.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 6
Mỗi một đất nước, một dân tộc, một mảnh đất có những loại cây riêng với quê hương
mình. Và ở nước ta cây lúa mộc mạc, bình dị đã trở thành cây nơng nghiệp gần gũi,
gắn bó nhất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Cây lúa ấy đã trở thành nguồn cảm
hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ khi viết về vẻ đẹp quê hương.
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mơng biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cị bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”
Cây lúa thuộc loại cây rễ chùm, ưa nước. Cây lúa phát triển qua từng thời kì khác
nhau, trải qua q trình chăm sóc, tưới tiêu vất vả, cần mẫn của người nông dân mới
cho những bông lúa uốn câu vàng óng. Cây lúa khi cịn ở thời kì con gái trông duyên
dáng như một thiếu nữ yêu kiều thướt tha trong bộ cánh xanh non mỡ màng. Lá lúa
dài như những lưỡi kiếm, thi thoảng có làn gió thổi qua như những chiến binh đang
múa kiếm nghe thật vui tai.
Thân lúa mảnh, nhỏ, gồm nhiều lớp vỏ ngoài dày bọc lấy nhau, như những cánh tay
đang ôm ấp để bảo vệ bên trong. Cây lúa khi chín mang trên mình bộ cánh mới,
khơng cịn là màu xanh mỡ màng, trẻ trung đầy sức sống nữa mà là màu vàng óng,


ngây ngất thơm mùi sữa non. Cây lúa luôn mang trên mình mùi hương rất đặc biệt, đó
là mùi của đất quê, của hồn quê mộc mạc, thân thương, của những tấm lịng cần mẫn,
chịu thương chịu khó, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời.
Hạt lúa khi chín được bọc bên ngồi là lớp vỏ trấu màu vàng, bên trong là hạt gạo
tròn, chắc mẩy bụ bẫm trơng đến là thích mắt. Hạt gạo trắng ngần ấy là tinh hoa của
mồ hôi, công sức nước mắt người dân lao động tụ lại để dâng lên hương trời. Vậy nên
hương lúa lúc nào cũng thế, có mùi thơm ngát, rất ngậy, rất thơm.
Có nhiều loại lúa khác nhau, phù hợp với từng vùng miền, khí hậu riêng. Các loại thóc
thường phổ biến là thóc nếp, thóc BC, thóc Việt Hương, thóc Tạp Giao, thóc

Tám...Mỗi lồi có những cách chăm sóc khác nhau, tưới tiêu và cơng dụng khác nhau,
nhưng tựu chung lại đều rất hữu ích và là một nguồn lương thực không thể thiếu với
người nông dân.
Cây lúa có rất nhiều cơng dụng. Trước hết nó là cây lương thực chính của nước ta,
đồng thời cũng là thương hiệu, đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế
giới. Hơn nữa, những cách chế biến khác nhau đem đến cho cây lúa rất nhiều lợi ích
khác nhau. Hạt gạo trắng ngần là nguyên liệu để làm các sợi phở, bún, các loại bánh
đa. Những loại cơm gạo, cơm cháy ruốc, bánh gạo, nước gạo rất tốt cho sức khỏe.
Cây lúa cũng chính là nguyên liệu chính làm nên món bánh chưng bánh giầy-món ăn
truyền thống trong mỗi dịp lễ, tết ở Việt Nam ta. Hay một thứ quà của lúa non đó là
cốm đã được nhà văn Thạch Lam đưa vào trang văn của mình đầy trân trọng, tự hào.
Nhưng để có được hạt gạo trắng ngần, cây lúa phải phát triển khỏe mạnh, vì thế địi
hỏi sự chăm sóc tỉ mẩn, cẩn trọng của người nông dân. Đặc biệt là việc tưới tiêu, vì là
một loại cây ưa nước nên việc cung cấp đủ nước cho cây là rất quan trọng, ngoài ra
người nông dân cũng liên tục phải quan sát trên cây lúa xem có những dấu hiệu bất
thường nào khác để kịp thời tưới phân, chăm bón đúng lúc. Để làm ra hạt gạo nuôi
sống con người không phải là điều gì dễ dàng, vì thế hạt gạo càng cần được trân trọng
hơn bao giờ hết.
Cây lúa thật đẹp, một nét đẹp mộc mạc tinh túy của người dân đất Việt. Cây lúa đã
trưởng thành, phát triển cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trải qua


biết bao cuộc đấu tranh gian khổ, cây lúa đã gắn liền với sự hi sinh chiến đấu, là lương
thực giúp các anh đỡ đói lịng để vững tay súng. Có lẽ, dù trong chặng đường tiến
hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa của dân tộc bây giờ và mai sau có phát triển chăng
nữa, cây lúa cũng sẽ khơng bao giờ mất đi vai trị quan trọng của mình.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 7
Nhắc tới Việt Nam, người ta thường nghĩ tới những danh lam thắng cảnh như vịnh Hạ
Long, hồ Hoàn Kiếm với truyền thuyết trả gươm thần hay những món hàng đặc trưng
như lụa tơ tằm, nón Bài thơ. Nhưng đặc biệt, điều mà du khách nước ngoài tới Việt

Nam cảm thấy thú vị hơn cả là thú vui ẩm thực: phở, bún chả, hay bánh chưng, bánh
giầy vào dịp Tết. Dễ dàng nhận ra rằng những món ăn đó được làm từ gạo. Thứ hạt
trắng đó là sản phẩm của cây lúa – một loại cây không thể thiếu trong đời sống con
người Việt Nam.
Để có được cây lúa, những người nơng dân đã vất vả lao động từng ngày: từ gieo mạ,
cấy mạ rồi chăm sóc, vun xới cho cây. Lúa được trồng ở những vùng đồng bằng châu
thổ, nơi có phù sa bồi đắp. Cũng như đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long là
một vựa lúa lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, khơng chỉ có ở đồng bằng, cây lúa còn
được trồng trên vùng cao với những ruộng bậc thang xanh mướt.
Lúa thích nghi đặc biệt với khí hậu nhiệt đới ở Việt Nam theo hai mùa: mùa mưa và
mùa khơ. Phần lớn những người nơng dân cịn phụ thuộc vào cây lúa. Đây là một hình
thức sản xuất nông nghiệp phổ biến và dễ thấy ở Việt Nam. Cây lúa đã đưa Việt Nam
từ nước đói kém sau chiến tranh thành một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai
trên thế giới. Mặc dù là cây nơng nghiệp nhưng khơng thể thiếu những cây đó trong
đời sống người Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao cây lúa lại có một vai trị quan trọng trong đời sống
Việt Nam đến như vậy? Có thể thấy rằng, từ khi sinh ra, con người đã gắn bó với cây
lúa và hạt gạo. Cây lúa khơng những là cây nơng nghiệp mà cịn là một loại cây lương
thực cung cấp thực phẩm chủ yếu cho con người. Đôi khi người ta thấy rằng con
người ăn cơm lâu, muốn thay đổi hương vị, đã tìm đến những quán phở, hàng bún. Đó
là một cách thay đổi khẩu vị hay đúng hơn là gạo đã được biến tấu bằng một cách chế
biến khác.


Hay ở những vùng thơn q, thậm chí là ở thành thị, người ta vẫn thường quen với
tiếng rao quà: Ai bánh chưng, bánh nếp, bánh giầy, bánh khoai nào! Thật quen thuộc
mà cũng rất giản dị. Những thứ bánh thơm dẻo đó cũng được làm ra từ hạt gạo. Đặc
biệt hơn là gạo nếp. Lúa làm ra gạo. Cũng thật độc đáo, gạo lại được chế biến thành
muôn kiểu món ăn, phục vụ cho nhu cầu ăn uống của người dân Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, khi lúa chín trĩu bông, người ta gặt về, đem tuốt lúa. Và sau đó có

được gạo và một thứ vỏ ngồi màu vàng nhạt. Đó chính là vỏ trấu. Bước chân đi tới
những miền quê Việt Nam ngày nay vẫn còn thấy những gian bếp nhỏ đun vỏ trấu, vỏ
trấu cũng rất hữu dụng trong việc làm thức ăn cho gia cầm và dùng trong lò ấp trứng.
Phần cây lúa sau khi đã gặt xong khơng phải là thừa. Nó được phơi khô, chất thành
những đống rơm cao ngất. Rơm cũng được dùng làm chất đốt ở những vùng nơng
thơn. Ngồi ra, rơm còn được dùng để trồng nấm làm thực phẩm cho người dân Việt
Nam. Đặc biệt, người ta còn dùng rơm để lợp mái nhà, rất tiện dụng và tiết kiệm.
Như vậy, cây lúa đã trở thành một loại cây gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam:
trong lao động sản xuất, trong đời sống, nhất là những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Khơng những vậy, cây lúa cịn mang một giá trị văn hoá tinh thần sâu sắc.
Giữ một vị trí quan trọng như vậy nên khi nhắc tới Việt Nam, người ta nhắc tới một
nền văn minh lúa nước. Cây lúa đã đi vào lịch sử dân tộc của Việt Nam, trở thành một
đặc trưng cho văn hố Việt. Một nét đặc trưng mà có lẽ khó có thể mất đi hay phai
mờ. Cây lúa đã đứng lên, đã hội nhập quốc tế bằng chính chất và lượng của nó. Người
ta đã biết tới một Việt Nam không chỉ là một nước anh dũng kiên cường trong đấu
tranh mà cịn là một dân tộc kiên trì cần mẫn trong lao động sản xuất. Và giờ đây họ
nhìn vào con số gạo xuất khẩu: hàng triệu tấn một năm của Việt Nam để đánh giá và
đưa ra nhận xét.
Khơng những thế, cây lúa cịn giữ một vai trị không thể thiếu trong những lễ vật dâng
lên tổ tiên. Những món ăn thơm thảo đó thể hiện rất rõ nét ẩm thực cũng như tính
cách của người Việt. Nó thể hiện sự hiếu lễ kính trọng của con cháu đối với những
người đi trước. Đặc biệt là trong những dịp Tết Nguyên Đán, những chiếc bánh
chưng, bánh giầy không bao giờ thiếu trong mâm cỗ của từng nhà. Trung thu với bánh
dẻo, bánh nướng làm cho đêm đón trăng của trẻ em càng thêm rộn ràng… Từ cây lúa,


những thức quà ngon đã được làm ra ngày càng gắn bó, thân thiết với người dân Việt
Nam.
Cây lúa là biểu tượng Việt Nam, là loại cây không thể thiếu trong đời sống văn hoá
Việt, cả ẩm thực và lễ hội. Có lẽ vì vậy, cây lúa cũng đã trở thành đề tài sáng tác cho

nhiều nhà thơ, nhà văn. Trần Đăng Khoa đã có một bài thơ được phổ nhạc thành bài
hát (Hạt gạo làng ta):
"Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sơng Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hơm nay"…
Trần Đăng Khoa đã rất tinh tế khi viết về hạt gạo trắng thơm. Để có lúa, có gạo là
cơng sức của biết bao con người, là sự hòa quyện của biết bao hương vị: vị phù sa,
hương sen thơm, lời mẹ hát. Những lời ca trong trẻo của bài hát ấy cứ ngân lên, thể
hiện tính cách của con người Việt Nam: tuy sống vất vả nhưng cần mẫn với lúa gạo.
Và hơn thế, cây lúa còn làm tăng vẻ đẹp quê hương đất nước:
"Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mơng bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông."
(ca dao)
Câu ca dao đã khắc hoạ một Việt Nam tươi đẹp và đầy sức sống với màu xanh mênh
mông bát ngát của lúa. Những đồng lúa thẳng cánh cò bay đã in sâu trong tâm trí của
những người con xa quê. Cây lúa vốn đã thân thiết nay càng gắn bó hơn. Có thể nói
rằng nó khơng thể thiếu trong đời sống con người Việt Nam, cả về vật chất cũng như
tinh thần.
Nó làm con người thoải mái và vui vẻ hơn sau ngày lao động mệt nhọc với bát cơm
thơm thảo. Mỗi khi bưng bát cơm thơm, được nấu từ những hạt gạo trắng ngần, lòng
ta lại bâng khuâng nghĩ đến quê hương, nghĩ đến những con người đã từng đổ mồ hôi,
sôi nước mắt để làm ra hạt gạo.


Nếu được chọn lựa, có lẽ tất cả chúng ta sẽ vẫn chọn cây lúa là cây lương thực chính,
là biểu tượng của nền văn minh, văn hoá cho vẻ đẹp Việt Nam.

Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 8
“Hạt gạo làng ta
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
(Trích "Hạt gạo làng ta" - Trần Đăng Khoa)
Chắc hẳn mỗi chúng ta, ai cũng có một tuổi thơ êm đềm gắn bó với mái đình, cây đa,
bến nước và đặc biệt là triền đê lộng gió bên cánh đồng thẳng cánh cị bay. Cây lúa
khơng chỉ là thứ hạt vàng, hạt ngọc của đất trời đem lại sự sống cho chúng ta mà từ
khi nào đã đi vào cả trong nỗi nhớ niềm thương của mỗi người con đất Việt.
Đã bao giờ bưng bát cơm thơm dẻo trên tay, ta tự hỏi cây lúa có từ bao giờ? Phải
chăng cây lúa có từ “ ngày xửa ngày xưa”, khi những câu ca bắt lên khắp các nẻo
đường rộn rã của những bà, những chị đi thăm đồng? Hay phải chăng cây lúa hoài thai
từ thuở hồng hoang dựng nước, khi Lang Liêu biết trồng lúa để làm những bánh
vng trịn mà cúng Tiên vương?
Thật khó mà nói được cái nguồn gốc xuất phát của thứ cây dẻo dai mà kiên cường ấy!
Chỉ biết rằng, cây lúa hay nghề trồng lúa đã có ở nước ta từ rất lâu đời. Giống như
một giá trị trường tồn vĩnh cửu, bốn ngàn năm lịch sử đã qua đi, đất nước từng ngày
thay đổi với những diện mạo mới, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với nghề
trồng lúa nước, là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Khắp các làng quê Việt nam, đi đâu ta cũng thấy cánh đồng thẳng cánh với những cây
lúa xanh rì trĩu bơng. Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai vựa
lúa lớn nhất nước ta. Lúa nước không chỉ là một nghề giúp người nông dân của ta
kiếm sống mà cịn làm nên một nền văn hóa của những vùng đất phù sa xứ sở.


Một năm có hai vụ lúa chính: Vụ chiêm và vụ mùa. Người nơng dân chọn hạt giống,
ngâm thóc giống, nâng niu đến khi đưa những mầm non mới nhú ấy xuống mặt đất,

rồi dày cơng chăm sóc, chăm đồng thăm ruộng, nâng niu chăm sóc như người mẹ
chăm con. Phải trải qua cả một quá trình như thế, mới có những cây lúa trĩu bơng.
Cũng giống như nhiều loại cây khác, lúa nước cũng có nhiều giống lúa như: lúa móng
chim, lúa di hương, lúa ba giăng, lúa gié, lúa mộc tuyền,…
Nhưng quý nhất vẫn là cây lúa tám xoan, lúa dự, cho những hạt gạo trắng như hạt
ngọc trời, ăn dẻo và thơm. Lúa nếp cũng có nhiều loại: nếp cái hoa vàng, thường được
các bà các mẹ chọn để đồ xôi, cất rượu; rồi nếp rồng, nếp nàng tiên, nếp mỡ... Con
trâu, cây lúa, cánh đồng từ bao giờ đã trở thành người bạn của nhà nông. Chẳng phải
vì thế mà ta vẫn thường nghe những câu hát:
"Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa."
(ca dao)
Trồng lúa là nghề căn bản của nhà nông. Người nông dân quanh năm dầm sương dãi
nắng, cần cù ngày này qua tháng nọ bám lấy ruộng đồng: cày bừa, cấy hái, tát nước,
bón phân, làm cỏ, bắt sâu,…Với người dân cày, cánh đồng mảnh ruộng là món gia tài
nhỏ nhỏ cả một đời vun vén.
Miền Nam thường sạ lúa thì người miền Bắc kì cơng lại gieo mạ và cấy lúa. Khi vụ
mùa vừa kết thúc, vào tiết lập xuân, người nông dân tiến hành chọn hạt giống, ngâm
thóc giống rồi quăng bùn gieo mạ. Khi cây mạ non cao chừng mười phân và thời tiết
thuận lợi, người nông dân sẽ đem mạ ấy cấy xuống đồng ruộng đã được cày xới tơi
xốp. Công việc giản dị ấy đã đi vào lời một bài hát ru của tuổi thơ như thế:
"Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần."
(Trích "Bầm ơi!" - Tố Hữu)
Lúa thì con gái xanh ngắt một màu. Những cơn mưa rào cuối xuân đầu hè được gọi là
cơn mưa vàng, làm cho đồng lúa tốt bời bời:
Lúa chiêm đứng nép đầu bờ
Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên.



(ca dao)
Lúa đứng cây rồi lúa có địng địng. Lúa trổ bông tỏa hương thơm thoang thoảng. Hoa
lúa màu trắng nõn. Rồi lúa ngậm sữa, lúa uốn câu. Chừng độ nửa tháng sáng, đồng lúa
ửng vàng rồi chín rộ. Cả cánh đồng lúa mênh mông như một tấm thảm nhung màu
vàng khổng lồ.
Đường q thơn xóm thêm nhộn nhịp. Người ta đi hái lúa, tuốt lúa rồi đem phơi.
Những khoảng sân nhà đầy ăm ắp những thóc, những rơm. Nắng vàng, rơm vàng,
màu thóc vàng,… tất cả như tơ điểm cho những thơn xóm những chiếc áo rực rỡ sắc
màu của niềm vui và sự sung túc đủ đầy!
Cây lúa thật q giá vơ cùng! Hạt thóc người ta đem xay ra hạt gạo trắng ngần. Lớp
vỏ bị tróc ra thường được gọi là trấu, dùng để nhóm lửa hoặc ủ phân cho cây trái trong
vườn. Giữa lớp vỏ trấu ấy và hạt gạo trắng nõn ngọt lành là một lớp vỏ dinh dưỡng,
khi xát lúa người ta thu được gọi là cám, dùng trong chăn nuôi rất thuận lợi. Đến phần
thân cây lúa khi gặt về, cũng được đem ra phơi nắng thành rơm thành rạ để nhóm bếp.
Những bơng lúa nếp sau khi tuốt hạt thì được chọn lọc kĩ càng và dùng để làm chổi.
Hạt lúa là hạt vàng, Hạt gạo là hạt ngọc. Từ hạt gạo có thể chế biến được nhiều món
ăn. Gạo xay giã thành bột để làm bánh, làm bánh đúc, bánh cuốn, bánh đa:
Bánh đúc thiếp đổ ra sàng
Thuận thiếp thiếp bán, thuận chàng chàng mua
(ca dao)
Bánh chưng, bánh dày, bánh ú, bánh gai, bánh xèo. Hàng trăm thứ bánh, hàng trăm
thức quà đều làm từ hạt gạo dẻo thơm. Ngoài ra hạt gạo ở một số vùng qua còn được
dùng để làm những thức quà riêng đặc sản của vùng miền như cốm làng Vịng.
Nâng bơng lúa trên tay, ta càng thêm mến yêu mến và trân trọng! Màu xanh của lá lúa
là màu xanh của sự sống, là sự trường tồn mãi mãi như câu ca dao xưa:
"Khi nào cây lúa cịn bơng
Thì cịn ngọn cỏ ngồi đồng trâu ăn." (ca dao)
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 9



Trên triền đê dài miên man, lộng gió của cánh đồng q nội, tơi chậm rãi ghé sát mình
vào một mảnh ruộng để cảm nhận hương thơm dịu ngọt của đất. Văng vẳng bên tai tơi
lời nói nhè nhẹ của chị lúa: “Chào bạn! Bạn có biết về cuộc đời họ lúa nước mình
khơng? Mình giới thiệu với bạn này”.
Giọng lúa như tâm tình, thủ thỉ. Tổ tiên của mình bắt nguồn từ xa xưa, được con
người phát hiện và thuần chủng nên trở thành cây lúa giống ngày hôm nay đấy. Họ
hàng mình đơng vui lắm nào là BC, bắc thơm, nếp cẩm, nếp cái nữa… Giống lúa Mộc
Tuyền ngày trước phổ biến lắm, bạn biết không cây lúa trưởng thành cao gần bằng
đầu người đó. Hạt lúa thơm ngon nhưng chưa đem lại năng suất cao bởi vậy khơng
được bà con nơng dân canh tác.
Chúng mình là những giống lúa mới được nhà khoa học Lương Đình Của nghiên cứu
lai tạo làm tăng thêm sức kháng thể và mang lại năng suất cao hơn, chất lượng cũng
được nâng lên. Bạn thấy khơng, chúng mình thuộc thân cỏ khá mềm yếu, nên mọi
người đoàn kết sống gần nhau, nương tựa vào nhau để gió khơng dễ dàng quật đổ.
Lúa nước chúng mình thuộc loại rễ chùm nên đứng khá vững trên mảnh ruộng màu
mỡ. Một cây lúa trưởng thành cao khoảng 70- 80 cm và có hệ rễ với tổng chiều dài
gần 625 km. Những cánh lá của mình dài, có lớp lơng phủ trên bề mặt như những lưỡi
gươm khua trong gió vậy.
Mình kể bạn nghe về cuộc đời mình nhé. Ở miền Bắc theo thời tiết,các bác nơng dân
trồng chúng mình theo hai vụ: chiêm và mùa. Vụ chiêm bắt đầu từ tháng giêng tới
tháng sáu, còn vụ mùa từ tháng bảy tới tháng mười một. Tháng còn lại ruộng được
cày ải và nghỉ ngơi để tiếp nối thời vụ năm sau. Khi mình cịn là hạt thóc mẩy, căng
trịn, người nơng dân gieo chúng mình trên lớp bùn phì nhiêu, được che khum, cung
cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, từng mầm lá nảy lên biếc rờn.
Lúc đó mình được gọi là mạ. Mạ đem ra ruộng cấy thì mình tên là lúa đó. Sống trong
khơng gian khống đạt hơn, như bạn biết đấy, nghề nơng phụ thuộc rất nhiều vào
thiên nhiên. Như dân gian thường nói:
Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Nghe ba tiếng sấm phất cờ mà lên



Mình nghe chị gió tâm tình, thấy họ hàng lúa nước cịn thích nghi với điều kiện khắc
nghiệt của ruộng bậc thang, cịn dọc dải đất miền Trung có khi mưa bão, bà con bị
mất trắng. Bạn biết không, chỉ sau một tháng trên ruộng, lúa chúng mình đang độ thì
con gái. Cả cánh đồng lúc ấy căng tràn sức sống, mơn mởn, đó là giai đoạn chúng
mình trưởng thành. Lúc này các bác nơng dân bón một số loại phân bón như NPK,
Kali…
Cụm rễ làm việc siêng năng, bấu vào đất mà hút chất dưỡng chất chuẩn bị cho lúa trổ
địng. Những bơng lúa trĩu nặng hạt trịn mẩy khiến thân lúa mình uốn cong. Suốt hai
thời vụ, người nông dân thường xuyên ra thăm ruộng để kịp thời ngăn chặn dịch bệnh
nguy hiểm như bạc lá hay khô vằn. Công việc nặng nhọc, vất vả bởi các bác thường
dọn cỏ, bắt sâu trên lá. Thật đúng là:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Hạt thóc của chúng mình khi vàng ươm được máy gặt về. Những bó lúa đầy hạt là
thành quả cho cả quá trình lao động miệt mài của người lao động. Sau khi lúa gặt về,
chỉ còn lại trên cánh đồng những gốc rạ khẳng khiu. Cả cuộc đời mình gắn bó với
người nơng dân như thế đấy.
Mình đang sống và cống hiến sức mình cho cuộc đời, bạn ạ. Nhờ có hạt thóc nhỏ giúp
nước ta trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu lúa gạo trên thị trường
quốc tế. Hạt ngọc thực làm cuộc sống dân ta trở nên no đủ hơn. Nhìn những cơ cậu
học trị khơn lớn mình cũng thấy phần nào tự hào về đóng góp của mình.
Mặt trời ngả bóng về phía tây, tơi tạm biệt các bạn lúa. Đi trên triền đê lộng gió trở về
làng, tơi phóng tầm nhìn rộng hơn, cả cánh đồng vẫn dập dờn trong gió, ghé đầu vào
nhau trị chuyện. Qua câu chuyện ngắn ngủi của lúa giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về cây
lương thực này.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 10
“Trời cao đất rộng thênh thang
Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng
Cá tươi gạo trắng nước trong



Hai mùa lúa chín thơm nồng tình q.”
Những câu thơ trên hàm ý muốn nhắn nhủ cho mỗi chúng ta về tinh yêu quê hương
với những cánh đồng lúa bát ngát, mênh mang với hương lúa nồng nàn tình người,
tình quê. Cây lúa là một trong những biểu tượng của q hương Việt Nam, chính vì
vậy mỗi người con Việt Nam khi xa quê đều nhớ về quê hương với cánh đồng lúa bao
la, bát ngát mênh mông. Cây lúa vừa mang tính biểu tượng, bên cạnh đó nó cũng là
nguồn lương thực chính của Việt Nam và hầu hết các nước châu Á.
Cây lúa và hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã là một hình ảnh bình dị, gần
gũi thân thuộc và đi vào tiềm thức con người Việt Nam. Cây lúa đã gắn bó với người
nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam qua hàng bao đời nay. Là một nước nơng nghiệp
chính vì vậy lúa là loại cây lương thực chính với số lượng lớn ở Việt Nam.
Ở châu Á thì lúa được coi là cây lương thực chính trong năm loại cây lương thực: ngơ,
lúa mì, sắn, khoai tây và là nguồn lương thực quan trọng cho hầu hết các nước châu Á
và trong đó có Việt Nam lúa là cây trồng nơng nghiệp gắn bó với người nơng dân Việt
Nam bao đời nay nên lúa là cây trồng nông nghiệp chủ yếu và là cây trồng đem lại
nguồn thu nhập kinh tế chính cho người nơng dân. Lúa được xếp vào loại cây ngũ cốc.
Lúa là thực vật được xếp vào các lồi cỏ đã thuần dưỡng vì vậy lúa có thân mềm, lá
lúa dài mềm, thn nhọn về phía đầu lá, cây lúa thường có hình dáng nhỏ và cao
khoảng 50cm. Để tạo ra những hạt gạo trắng ngần yêu cầu sự địi hỏi chăm sóc, tưới
tiêu rất cẩn thận của người nơng dân. Lúa là loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn
nên cây lúa có bộ rễ chùm. Lúa là loại cây thân mềm nên được người nông dân trồng
sát nhau xếp thành từng hàng, từng lối thẳng hàng.
Người nông dân thường trồng lúa thẳng hàng, thành từng cụm để thuận tiện chăm sóc,
tưới tiêu vừa tạo vẻ đẹp bình dị, nên thơ cho cánh đồng lúa và khi những làn gió khẽ
lướt qua làm những cây lúa rung rinh, chuyển động, xơ nhau theo làn gió tạo nên
những làn sóng nhỏ đuổi nhau, khung cảnh ấy đẹp bình dị và thơ mộng biết bao, nó
khiến tâm hồn ta trở nên trong trẻo và thuần khiết hơn.
Cây lúa có hai màu lá xanh và vàng. Tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng mà cây lúa

có màu khác nhau. Khi mới trồng và trong giai đoạn phát triển lúa có màu xanh và khi
lúa chín cây lúa tự chuyển sang màu vàng. Đặc biệt trong giai đoạn lúa chín, những


bông lúa sẽ tỏa ra hương thơm rất đặc biệt, đó là hương thơm rất khó để có thể diễn tả
được, phải tự bản thân mình tận hưởng mùi hương ấy mới có thể thấy hết sự trong
trẻo nồng nàn trong hương thơm ấy.
Hạt thóc sau khi được thu hoạch sẽ được phơi khơ rồi mang đi xát vỏ ngồi sẽ thu
được hạt gạo và các phụ phẩm là cám và trấu. Tuy chỉ là những phụ phẩm nhưng trấu
cũng có những cơng dụng của nó như để lót chuồng ủ làm phân, làm đất trồng cây.
Còn cám sẽ được người dân tận dụng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Để trồng được một cây lúa cho ra những hạt thóc chắc mẩy ta cần chọn những hạt
thóc chắc mẩy không sâu bệnh để làm giống. Rồi lấy những hạt thóc đó gieo xuống
vùng đất thích hợp, để một thời gian chờ những hạt thóc đó lên mầm phát triển thành
mạ. Khi chúng lên mạ, những cây lúa con (mạ) sẽ được người dân mang ra đồng cấy,
chăm bón để trở thành những cây lúa trưởng thành. Trong giai đoạn này yêu cầu
người dân chăm sóc cây kỹ lưỡng và chế độ nước tưới tiêu và phân bón hợp lý sau
khoảng thời gian cần thiết lúa sẽ trổ bông và chín.
Lúa là loại cây trồng gắn bó với mỗi người nơng dân Việt Nam qua hàng nghìn năm
lịch sử bởi lúa có những cơng dụng thiết thực trong cuộc sống. Trước hết cây lúa sản
sinh ra những hạt gạo nguồn lương thực chính trong mỗi bữa ăn hằng ngày của mỗi
chúng ta. Gạo còn là một trong những loại lương thực xuất khẩu ra nước ngồi, đem
lại lợi ích kinh tế cho đất nước.
Với những lợi ích kinh tế của việc trồng lúa dần dần trồng lúa trở thành một nghề
chính gia tăng kinh tế trong từng hộ gia đình. Gạo khơng chỉ nấu lên thành cơm, mà
ngày nay gạo cịn biến thành các món ăn khác nhau. Với những lợi ích cơng dụng của
mình, cây lúa dần dần trở thành cây trồng chính trong các loại cây nơng nghiệp ở Việt
Nam.
Thuyết minh về cây lúa lớp 6 - mẫu 11
Việt Nam đang phát triển theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những

cơng cụ thơ sơ được thay dần bằng máy móc hiện đại. Chúng ta khơng thể phủ nhận
vai trị quan trọng, to lớn của cơng nghệ trong cuộc sống, nó khơng chỉ làm cho người
nơng dân đỡ vất vả hơn mà còn tạo ra những giống cây mới cho năng suất và chất



×