Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận cao học, hoạt động công tác tư tưởng của đảng giai đoạn 1954 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.74 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU

Công tác tư tưởng luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng trong tồn bộ hoạt
động của Đảng ta. Khi Đảng chưa ra đời, Bác Hồ là người đầu tiên đã nghiên cứu,
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta, mở các lớp huấn luyện cán bộ,
chuẩn bị cơ sở lý luận cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
Quá trình đấu tranh cách mạng giành và giữ chính quyền trong mấy chục
năm qua, cơng tác tư tưởng của Đảng ta được tiến hành một cách kiên trì, sáng tạo,
góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cơng tác tư tưởng có q trình hình thành và phát triển qua các thời kỳ lịch
sử. Từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay, công tác tư tưởng luôn gắn liền với lịch sử
đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc, nhằm mục đích tạo ra sự đồn kết,
thống nhất trong tồn Đảng và sự đồng thuận của nhân dân. Đồng thời thơng qua
cơng tác tư tưởng, Đảng có cơ sở để xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách
phù hợp, bảo vệ lợi ích của Đảng, của nhân dân.
Do đó, cơng tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính Đảng nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong
quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng
cộng sản và Nhà nước nhằm hình thành, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa,
biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội; động
viên, cổ vũ con người hành động tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.
Nghiên cứu lịch sử công tác tư tưởng của Đảng có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng của dân tộc trong giai đoạn hiện nay,
nhằm tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ cơng tác tư tưởng trong tình hình mới.
Trong phạm vi một tiểu luận, học viên nghiên cứu hoạt động công tác tư
tưởng của Đảng giai đoạn 1954 – 1975 (giai đoạn chống Mĩ cứu nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội).


1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
TRONG GIAI ĐOẠN 1954 – 1975

1. Đặc điểm tình hình cơng tác tư tưởng
Giai đoạn 1954 – 1960
Từ sau hiệp định Giơ ne vơ về đình chiến ở Đơng Dương ( 7/ 1954), tình
hình thế giới có những tác động đến tình hình tư tưởng trong cán bộ và nhân dân
ta. Sự lớn mạnh của Liên Xô và sự lớn mạnh của các phong trào cộng sản quốc tế
là chỗ dựa vững chắc và hợp tác nhiều mặt với nước ta.
Nhân dân miền Bắc Việt Nam phấn khởi với 9 năm kháng chiến chống thực
dân Pháp và bắt tay vào xây dựng hịa bình. Đảng ta nắm chính quyền dân chủ
nhân dân, lãnh đạo miền Bắc khơi phục kinh tế, từng bước quá đọ tiến lên Chủ
nghĩa Xã hội.
Khó khăn tác động đến tư tưởng là hậu quả của chiến tranh hết sức nặng nề
trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Giai đoạn 1961 – 1965
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, sự lớn mạnh của miền Bắc sẽ
nâng cao lòng tin và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng và phẩn cách mạng trên
phạm vi cả nước càng nghiêng về phía cách mạng tạo điều kiện cho cách mạng
miền Nam phát triển.
Giai đoạn 1965 – 1968
Ngày 5/8 /1964 Đế quốc Mỹ đã dựng ra “ Sự kiện vịnh Bắc bộ” để ném bom
miện Bắc. Từ tháng 2/ 1965 Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh phá hoại miến Bắc,
đồng thời trực tiếp đưa quân viễn chinh Mĩ và quân đội chư hầu tiến hành chiến
tranh cục bộ ở miền Nam. Chúng mở rộng phạm vi đánh phá, ra rức phá hoại các
2



đường giao thông quan trọng, các cơ sở cộng nghiệp, các cơng trình thủy lợi lớn,
những vùng đơng dân cư, tăng cường bao vây mặt biển, hòng làm lung lay quyết
tâm của ta, ngăn chặn chi viện của miền Bắc với miền Nam. Dân tộc ta đứng trước
thử thách mới, hai miền trực tiếp chiến đấu với kẻ thù đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế,
quân sự mạnh và hiện đại nhất thế giới.
Giai đoạn 1969 – 1975
Giữa lúc nhân dân ta đang nỗ lực khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh
kháng chiến chống Mĩ, cứu nước ở miền Nam thì ngày 2 / 9/ 1969, Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua đời để lại tổn thất vơ cùng lớn lao đối với Đảng ta, nhân dân ta và
bạn bè quốc tế. Ra đi, Người để lại cho chúng ta Di chúc lịch sử, chứa chan tình
cảm sâu nặng của Người đối với Đảng và nhân dân ta, có giá trị như bản Cương
lĩnh xây dựng đất nước sau ngày chiến thắng Mĩ.
2. Nhiệm vụ của công tác tư tưởng giai đoạn 1954 – 1975
Giai đoạn 1954 – 1960
Ngày 25 tháng 7 / 1954, Trung ương ra chỉ thị về đẩy mạnh tuyên truyền
thắng lợi của Hiệp định Giơ ne vơ nhưng vẫn “đề phòng cảnh giác” cuộc đấu trang
mới. Sau một năm tháng 7 năm 1955 Ban Bí thư ra chỉ thị về tun truyền cho tồn
Đảng và nhân dân hiểu rõ cuộc đấu tranh của ta rất gian khổ và phức tạp vì âm
mưu của Mĩ quyết tâm xâm lược miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước.
Tháng 7 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “ Tranh lấy hịa bình khơng
phải là việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ , gian khổ phức tạp” Vì vậy, cơng
tác tư tưởng thời kỳ này là thực hiện chủ trương của hội nghị Bộ Chính trị, lãnh
đạo nhân dân miền Nam dấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hịa bình, địi
quyền tự do dân chủ, dân sinh, thực hiện thống nhất dất nước.
Trước bối cảnh quốc tế và trong nước thay đổi, nhận thức cần chuyển biến
kịp thời. Công tác tư tưởng chủ yếu của Đảng thời kỳ này là nhận thức rõ tình hình
mới và sự chuyển hướng của Đảng. Hội nghị Trung ương 6, khóa II ( 7 /1954) tại
3



Việt Bắc, chỉ rõ đế quốc Mĩ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở
thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đơng Dương.
Giai đoạn 1961-1965
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, cán bộ cách mạng dân dân miền
Bắc quán triệt, nhận thức rõ nhiệm vụ miền Bắc là căn cứ nâng cao lòng tin tưởng
và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng cho đồng bào yêu nước miền Nam. Lực
lượng so sánh giữa cách mạng trên phạm vi cả nước càng nghiêng về phía cách
mạng tạo điều kiện cho cách mạng miền Nam phát triển.
Giai đoạn 1965 – 1968
Nhiệm vụ hàng đầu của công tác tư tưởng trong tình hình mới là quán triệt
đường lối kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của Đảng được các Hội nghị trung
ương 11 và 12 ( tháng 3 và tháng 12 năm 1965) đề ra.
Chỉ thị tháng 4 năm 1965 của Ban Bí thư về cơng tác tư tưởng xác định miền
Bắc, hậu phương của chiến tranh chống Mỹ của cả nước đã chuyển hướng vừa bảo
vệ, vừa phát triển kinh tế, quốc phòng tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chi
viện đắc lực chiến trường, phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền
tuyến lớn. Khẩu hiệu của toàn Đảng, toàn dân là “ Tất cả để đánh tháng giặc Mĩ
xâm lược”
Giai đoạn 1969 – 1975
Ngày 29 tháng 9 năm 1969 Bộ chính trị đã ra chỉ thị về đợt sinh hoạt chính
trị “ Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch”. “ Vĩnh biệt Người chúng ta thề
giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ
xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa
lòng mong ước của Người. Bộ chính trị ra chỉ thị về cuộc vận động nâng cao chất
lượng đảng viên, kết nạp Đảng lớp Hồ Chí Minh. Đây cũng là những nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư tưởng.

4



CHƯƠNG II. HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG
GIAI ĐOẠN 1954 – 1975
1. Quán triệt và thực hiện nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu
tranh chính trị ở miền Nam (1954 – 1960)
a. Động viên phong trào quần chúng khơi phục kinh tế, hồn thành cách
mạng dân tộc dân chủ và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
Nghị quyết Trung ương sáu và Nghị quyết Bộ chính trị đề ra các nhiệm vụ
cụ thể trước mắt để củng cố miền Bắc: tiếp quản vùng giải phóng; củng cố vùng tự
do cũ; hồn thành cải cách ruộng đất; tăng cường xây dựng quân đội; khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Ngày 16-5-1955, miền Bắc hồn tồn sạch bóng qn thù. Cơng tác tiếp
quản hoàn thành thắng lợi. Bám sát việc thực hiện nhiệm vụ tiếp quản vùng giải
phóng, cơng tác tư tưởng đã góp phần phát động phong trào quần chúng các đơ thị,
với phong trào cơng nhân làm nịng cốt, cùng nhân dân cả nước bước vào thời kỳ
mới của cách mạng.
Cải cách ruộng đất được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Đến tháng 7-1956
cải cách ruộng đất đã làm xong ở toàn bộ các xã vùng đồng bằng và trung du, hồn
thành việc xóa bỏ giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư của chế độ phong kiến ở miền
Bắc, thực hiện “người cày có ruộng”, nâng cao quyền làm chủ của nông dân ở
nông thôn. Tuy nhiên, trong lãnh đạo cải cách ruộng đất, Đảng ta đã phạm những
sai làm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài.
Với tinh thần kiên quyết sửa sai và phát huy bản chất tốt đẹp của Đảng và
nhân dân ta, nên sau hơn một năm tích cực tuyên truyền, vận động và tổ chức quần
chúng, đến cuối năm 1957 công tác sửa sai đã đem lại kết quả tốt đẹp. Nông thôn
dần ổn định, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, năm 1956 sản lượng lương
thực đạt gấp đôi mức trước chiến tranh (năm 1939). Đồn kết trong nội bộ Đảng và
lịng tin của quần chúng đối với Đảng và Chính phủ được khôi phục.
5



Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam (tháng 3-1958) xác
định: Nhiệm vụ cơ bản của nhân dân ta là đoàn kết, ra sức củng cố miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chống Mĩ - Diệm để thống nhất
nước nhà.
Để động viên phong trào ở nông thôn, tháng 8-1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi nơng dân lao động hăng hái vào tổ đổi công, hợp tác xã và thi đua cải
tiến kỹ thuật đẩy mạnh sản xuất, tất cả đảng viên, đoàn viên, thanh niên lao động,
chiến sỹ thi đua ở nông thôn hãy tiến lên hàng đầu của phong trào đổi công, hợp
tác, lập thành tích lớn trên mặt trận sản xuất nơng nghiệp. Kết quả, tình hình nơng
thơn đã có chuyển biến tích cực, phát triển thành một phong trào hợp tác sản xuất
rộng lớn, tuy nhiên trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa ở nơng thơn nói chung cịn
thấp , nơng dân chưa được giáo dục về chủ nghĩa xã hội. Ngày 3-9-1958 Ban Bí
thư ra chỉ thị số 46-CT/TW về giáo dục nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho
đảng viên ở nông thôn để tiến kịp với yêu cầu phát triển nơng nghiệp theo con
đường hợp tác hóa.
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ củng cố miền Bắc, công tác tư tưởng đã
động viên phong trào quần chúng, ủng hộ, cổ vũ cuộc đấu tranh của đồng bào miền
Nam, thể hiện liên tục và mạnh mẽ qua các cuộc mít tinh, biểu tình phản đối Mĩ –
Diệm vi phạm Hiệp định Giơnevơ đàn áp khủng bố đồng bào ta ở miền Nam, phá
hoại hiệp thương tổng tuyển cử, chống việc lập lại quan hệ bình thường giữa hai
miền Nam – Bắc.
Năm 1958 – 1960 công tác tuyên truyền về Việt Nam ra nước ngoài bước
đầu được mở rộng đã góp phần làm cho nhân dân tiến bộ trên thế giới hiểu rõ hơn
cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Công tác giáo dục tinh thần quốc tế xã
hội chủ nghĩa được tăng cường đã góp phần củng cố đoàn kết giữa nhân dân ta với
nhân dân Lào, Campuchia, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; đoàn kết
và ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập, dân chủ
và tiến bộ xã hội.

6


b. Động viên phong trào đấu tranh chính trị và Đồng khởi ở miền Nam
Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ, Liên khu V và Trị Thiên Huế tổ chức
nghiên cứu và thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị về
tình hình mới và nhiệm vụ mới của các Đảng bộ miền Nam.
Nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân miền Nam trong giai đoạn mới là phải
hết sức tin tưởng ở sức mình và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng; đề phòng khắc phục các tư tưởng cầu an, dao động, thủ
tiêu đấu tranh hoặc mất cảnh giác với âm mưu của địch.
Tháng 7-1955 các Đảng bộ miền Nam mở đợt tuyên truyền phát động phong
trào đòi địch phải thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cư như Hiệp định Giơnevơ
quy định. Suốt hai năm 1955-1956, phong trào quần chúng đấu tranh ủng hộ hịa
bình địi Mĩ – Diệm phải thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử và đòi các quyền
dân sinh, dân chủ diễn ra sôi nổi.
Để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, Mĩ – Diệm thực hiện chính
sách “tố cộng, diệt cộng”. Đây là một chính sách thâm độc và tàn bạo của kẻ thù,
chúng lập ra nhà giam đến từng xã, ngày đêm đánh đập, tra khảo, thủ tiêu những
người yêu nước.
Thực hiện Chỉ thị ngày 1-12-1955 của Trung ương Đảng các Đảng bộ miền
Nam tích cực lãnh đạo đảng viên và quần chúng chống “tố cộng”, coi đây là nhiệm
vụ trọng tâm trước mắt. Công tác tư tưởng được tiến hành chủ yếu bằng các hoạt
động tuyên truyền trực tiếp của cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên, làm
cho đồng bào thấy rõ âm mưu thâm độc của chính sách tố cộng, nêu cao chính
nghĩa của Đảng và vai trò của Đảng đối với dân tộc và nhân dân.
Trước thử thách rất lớn về lập trường và khí tiết cách mạng, đại bộ phận cán
bộ, đảng viên đã đấu tranh kiên cường, giữ vững khí tiết của người cộng sản, bảo
vệ tổ chức và uy thế chính trị của Đảng. Nhiều nơi quàn chúng tìm lại vũ khí trước


7


đây đã chôn giấu, cướp súng địch, hoặc dùng những thứ vũ khí thơ sơ bí mật thủ
tiêu những tên cảnh sát, chỉ điểm… ác ôn, nguy hiểm.
Tháng 6-1956 Hội nghị Bộ chính trị họp và ra nghị quyết theo một hướng
mới: đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ. Đây là một bỏ sung quan trọng
về đường lối đáp ứng trúng yêu cầu cấp bách của phong trào quần chúng, mở ra
hướng mới cho công tác tư tưởng.
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của đường lối cách mạng miền Nam, từ mùa
thu năm 1955 đến mùa thu năm 1956, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị phụ
trách miền Nam, đã dự thảo bản Đề cương cách mạng miền Nam. Bản đề cương
chỉ rõ xu thế phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam “muốn chống Mĩ – Diệm
ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam khơng cịn con đường nào khác”.
Bản đề cương đã góp phần tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
cao trào Đồng khởi sau này.
Trong khơng khí sục sơi căm thù và đứng trước xu thế vùng dậy của quần
chúng, tháng 1-1959 Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành trung ương Đảng xác
định Đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Đề ra nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là “Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước
Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành trung ương Đảng có ý
nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên.
Từ năm 1959, sự chi viện về nhiều mặt của miền Bắc đối với cách mạng
miền Nam ngày càng lớn mạnh. Về cơng tác tư tưởng, thơng tin về tình hình miền
Nam được tăng cường trên tất cả các phương tiện truyền thông ở miền Bắc. Công
tác tuyên truyền đối ngoại, trong đó các phương tiện truyền thơng là lực lượng

quan trọng đã góp phần thơng tin về cuộc đấu tranh của nhân dân ta nói chung và
8


của nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng, tố cáo tội ác của Mĩ – Diệm, tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân ta.
Tính đến cuối năm 1960, cao trào đồng khởi của quân dân miền Nam đã căn
bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở của địch ở nơng thơn. Nhân dân đã giành
quyền làm chủ lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã/2.627 xã toàn miền Nam, đồng
thời làm tê liệt chính quyền Mĩ – Diệm ở hầu hết các xã khác. Phong trào Đồng
khởi ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị.
Phong trào Đồng khởi đánh dấu bước chuyển mới của cách mạng miền Nam.
Đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng và nguyện vọng của nhân dân, quán
triệt và thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc chống Mĩ và tay sai, ngày 20-121960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đúng lúc cách mạng
miền Nam bước sang một giai đoạn mới.
c. Đại hội III của Đảng và nhiệm vụ công tác tư tưởng trong bước phát
triển mới của cách mạng
Sau thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và thắng lợi của cao trào
đồng khởi ở miền Nam, cách mạng nước ta đứng trước một tình thế đầy triển vọng.
Miền Bắc được củng cố một bước quan trọng, trở thành hậu phương ổn định, có
nhiều khả năng đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ
ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Đại hội thông qua nghị quyết về nhiệm vụ và đường
lối của Đảng trong giai đoạn mới, vạch rõ nhiệm vụ chung của toàn dân ta trong
giai đoạn trước mắt là: “Tăng cường đoàn kết tồn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy
mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã

hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đơng - Nam - Á và thế giới”
9


Đại hội khẳng định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: Đoàn
kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và gây chiến, đánh
đổ tập đồn thống trị và độc tài Ngơ Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mĩ, thành lập
một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc,
các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ…
Nghị quyết xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là: Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn,
truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời
tăng cường đoàn kết với các nuớc xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu,
để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần
tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đơng – Nam – Á và thế giới.
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1961-1965), thực hiện một bước cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng
bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải
tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Nghị quyết Đại hội III là nguồn ánh sáng soi đường cho công cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân cả nước trong thời kỳ mới, là phương hướng cơ bản của
công tác tư tưởng trong bước phát triển mới của cách mạng. Những nội dung cơ
bản của Nghị quyết Đại hội được soạn thành những chuyên đề đưa vào chương
trình giảng dạy chính trị trong hệ thống trường đảng, trường của Nhà nước, của các
đoàn thể và hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Động viên phong trào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh
thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam (1961-1965)

a. Động viên phong trào quần chúng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc
10


Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Bác, tháng 21961 Bộ chính trị quyết định mở cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1961.
Mục đích là làm cho toàn Đảng toàn dân quán triệt tinh thần cơ bản của Nghị quyết
Đại hội III của Đảng, xây dựng và bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
những tư tưởng phù hợp với chế độ chính trị và quan hệ sản xuất mới, với quy luật
phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những tư tưởng trở ngại,
phát huy mọi nhân tố tích cực, thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng.
Để góp phần hoàn thành tốt kế hoạch 5 năm 1961-1965, cần tạo chuyển biến
mạnh về công tác tư tưởng. Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị tun huấn tồn
miền Bắc tháng 4-1962, Tổng Bí thư Lê Duẩn nhắc nhở cần tổng kết và phát huy
những kinh nghiệm tốt trong công tác tư tưởng. Đồng chí nói: Trong Đảng ta
khơng có ngành nào già bằng ngành tuyên huấn, vì từ khi có Đảng đã có nó rồi…
Phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
đạt một số kết quả đáng mừng, bước đầu xây dựng được một số cơ sở vạt chất – kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, củng cố một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
cải thiện đời sống nhân dân.
Trong lúc Đảng ta đang lãnh đạo triển khai công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và kháng chiến chống “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam
thì phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế diễn ra cuộc đấu tranh giữa đường
lối của chủ nghĩa Mác – Lênin với chủ nghĩa xét lại hiện đại, chủ nghĩa cơ hội và
chủ nghĩa xô – vanh nước lớn. Đặc biệt, cuộc đấu tranh diễn ra trong các nước xã
hội chủ nghĩa gây tác hại đến phong trào cách mạng thế giới, làm tổn thương đến
sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt,

Hội nghị Diên Hồng trong thời đại mới, biểu thị quyết tâm cách mạng của toàn thể
dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải
11


phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Bản báo cáo của người khẳng định nếu Mĩ
liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại.
Với tinh thần cảnh giác cao, chủ động chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, ngày 58-1964 quân dân miền Bắc đã giáng trả cho khơng lực Mĩ một địn đích đáng,
chứng tỏ qn dân ta hồn tồn có khả năng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mĩ.
Các năm 1961 - 1965, chi viện về mọi mặt của miền Bắc cho miền Nam
ngày càng tăng. Về công tác tuyên giáo, hàng ngàn cán bộ tuyên truyền, huấn học,
văn hóa văn nghệ, giáo dục, báo, đài…, được cử vào chiến trường, bổ sung cho bộ
phận tuyên huấn các cấp.
b. Động viên nhân dân miền Nam đánh thắng chiến lược “chiến tranh
đặc biệt” của Mĩ
Phát huy thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày 31-1-1961 Bộ chính trị
ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền
Nam.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội III, các nghị quyết của trung ương và tình hình
cụ thể sau đồng khởi, Chỉ thị của Bộ chính trị xác định phương hướng đẩy mạnh
hơn nữa đấu tranh chính trị đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song song với
đấu tranh chính trị, tiến cơng địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự. Nắm
vững phương châm cơng tác ba vùng để có hình thức đấu tranh thích hợp. Cơng
tác quan trọng và khẩn cấp bậc nhất là phải ra sức xây dựng lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang, tiếp tục đẩy mạnh mọi hình thức đấu tranh để lấn địch từng
bước, tiến lên đánh đổ chúng hồn tồn.
Để đối phó với phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quân và dân miền Nam và
nhằm cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chính quyền Diệm, năm 1961 đế quốc Mĩ tiến
hành “chiến tranh đặc biệt”, với mục tiêu bình định miền Nam trong 18 tháng

(7/1961 – cuối năm 1962). Mĩ – ngụy coi bình định, dồn dân, lập ấp chiến lược là
12


nội dung cơ bản của chiến tranh đặc biệt. Mục tiêu cơ bản của “ấp chiến lược” là
kìm kẹp dân để “tát nước bắt cá”, lùng bắt cán bộ, đảng viên cộng sản, cơ sở cách
mạng…
Dù địch có dồn được dân vào ấp chiến lược, chúng cũng không thể dành
được lòng dân, liên tục nổ ra các cuộc đấu tranh của quần chúng, chống địch càn
quét, bắn phá… Cuộc đấu tranh của quân dân miền Nam chống đich dồn dân, lập
ấp chiến lược là một cuộc đấu tranh toàn diện, kết hợp lực lượng chính trị với lực
lượng vũ trang, kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến cơng, thực hiện ba
mũi giáp cơng (chính trị, qn sự, binh vận), kết hợp lực lượng tiến công từ bên
ngoài với sự nổi dậy từ bên trong ấp chiến lược, trong đó sức mạnh nổi dậy của
quần chúng từ bên trong là chính.
Bước sang năm 1963, quân dân miền Nam tiếp tục xốc tới, đánh những đòn
mạnh hơn vào chiến lược “chiến tranh đặc biệt” gây cho địch những tổn thất nặng
nề. Kế hoạch Xtalây – Taylo nhằm bình định miền Nam trong vịng 18 tháng
khơng thực hiện được. Mâu thuẫn Mĩ – Diệm và mâu thuẫn nội bộ bọn cầm đầu
ngụy quân, ngụy quyền ngày càng thêm sâu sắc. Cuối năm 1963, phong trào đấu
tranh kiên cường của nhân dân ta ở miền Nam đã làm phá sản kế hoạch Xtalây –
Taylo báo hiệu sự thất bại không tránh khỏi của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
của Mĩ.
Trước thời cơ thuận lợi, Hội nghị Bộ chính trị họp từ ngày 25 đến 29/9/1964
chủ trương giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong một vài năm tới. Đến
tháng 2-1965 “quốc sách ấp chiến lược”, một “xương sống” của “chiến tranh đặc
biệt” hoàn toàn xụp đổ.
3. Động viên quân dân cả nước đánh Mĩ, xây dựng và bảo vệ miền Bắc,
hồn thành cách mạng giải phóng miền Nam (1965 – 1975)
a. Nêu cao quyết tâm đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ

(1965 – 1968)

13


Thay thế cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đã thất bại thảm hại, từ
những tháng đầu năm 1965 đế quốc Mĩ bắt đầu triển khai chiến lược mới, ồ ạt đưa
quân viễn chinh Mĩ vào tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời
tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc
và mở rộng chiến tranh sang Lào.
“Chiến tranh cục bộ” là nấc thang chiến tranh cao nhất của Mĩ ở miền Nam
Việt Nam và là cuộc chiến tranh lớn nhất, ác liệt nhất kể từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai, gây nên tình hình hết sức căng thẳng khơng chỉ trên bán đảo Đơng Dương
mà cịn đe dọa nghiêm trọng tình hình thế giới.
Trên cơ sở quán triệt trong Đảng và trong nhân dân Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 11 của Trung ương Đảng tháng 3-1965, công tác tư tưởng đã phân tích rõ âm
mưu và hành động mới của Mĩ, tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh sẽ tăng lên
gấp bội, nhưng đế quốc Mĩ sẽ không đảo lộn được thế chiến lược hiện nay ở miền
Nam . Đảng và nhân dân ta quyết tâm đẩy mạnh cuộc kháng chiến để giành độc
lập, thống nhất toàn vẹn cho Tổ quốc. Khẳng định đường lối và phương châm
giành thắng lợi ở miền Nam đã đề ra trong các nghị quyết trước đây của Đảng, về
cơ bản vẫn không thay đổi.
Căn cứ Nghị quyết 11 của Trung ương Đảng tháng 3-1965 và Nghị quyết 12
của Trung ương Đảng (khóa III). Cơng tác tư tưởng đã làm rõ chủ trương của Đảng
ta là tiếp tục xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến lược vững mạnh, bảo
đảm cho kháng chiến chống Mĩ thắng lợi.
Với tinh thần “mọi việc ta làm đều nhằm chống Mĩ” (lời Chủ tịch Hồ Chí
Minh) trên mặt trận lao động sản xuất và bảo vệ sản xuất, chuyển hướng xây dựng
kinh tế, trong những năm 1965-1968 quân dân miền Bắc đã làm cho nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa về căn bản được giữ vững, một số ngành còn phát triển thêm.

Trong chiến tranh ác liệt, mọi hoạt động tư tưởng (báo chí, đài phát thanh,
thơng tấn xã, xuất bản, giáo dục chính trị lý luận, văn hóa văn nghệ) đều dược tăng

14


cường. Mỗi đơn vị đều có phương án đảm bảo hoạt động trong thời chiến, kể cả
trong tình huống ác liệt nhất.
Các năm 1966, 1967, 1968 Mĩ ngày càng leo thang đánh phá miền Bắc,
hịng “gây áp lực khơng thương xót” đối với quân dân ta. Chỉ riêng năm 1967 khối
lượng bom đạn chúng dội xuống miền Bắc đã gấp 7 lần năm 1965. Các hoạt động
tư tưởng, trong không khí sơi sục chiến đấu, đã nêu cao ý chí Việt Nam thể hiện
trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 gửi đồng bào và chiến
sĩ cả nước: “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn”.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước
của toàn dân vượt qua mọi gian khổ hy sinh, quyết đánh thắng Mĩ đến thắng lợi
hoàn toàn. Mọi mặt sản xuất, xây dựng, chiến đấu được đẩy mạnh, xuất hiện nhiều
điển hình cá nhân và đơn vị đánh giỏi bắn trúng, diệt nhiều máy bay, tàu chiến Mĩ.
Giao thông vận tải là mặt trận ngày đêm nóng bỏng. Địch quyết phá để chặn
chi viện của miền Bắc cho miền Nam, ta quyết giữ và không ngừng mở rộng để chi
viện ngày càng cao cho tiền tuyến lớn. Các hoạt động tư tưởng đã góp phần động
viên thanh niên tham gia các đội thanh niên xung phong lên đường để cùng sát
cánh với bộ đội Trường Sơn làm nhiệm vụ mở đường mới và đảm bảo giao thông
vận tải chi viện cho tiền tuyến, vượt qua bom đạn ác liệt.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng kịp thời chuyển hướng để đảm bảo yêu
cầu thắng lợi của quân dân ta thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách của miền
Bắc. Thực hiện Chỉ thị số 88-CT/TW ngày 2-1-1965 của Bộ chính trị, cuộc vận

động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965 được tiến hành trong tồn Đảng nhằm nâng
cao ý chí phấn đấu, nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức cách mạng của giai cấp công nhân, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
15


Hội nghị lần thứ 13 của Trung ương Đảng (1-1-1967) chủ trương đẩy mạnh
đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, song song với chiến tranh quân sự
và đấu tranh chính trị, phối hợp giữa các mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn
hơn nữa.
Thắng lợi vang dội của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1968 ở miền Nam và thắng lợi chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ
đối với miền Bắc đã buộc tổng thống Mĩ đêm 31-3-1968 phải tuyên bố ngừng ném
bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Đến ngày 1-11-1968 Mĩ buộc phải tuyên bố
chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác
chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết vấn
đề chiến tranh Việt Nam.
Ngày 3-11-1968 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Chúng ta đã đánh
thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ ở miền Bắc. Song đó mới chỉ là
thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mĩ rất ngoan cố và xảo quyệt… Vì vậy, nhiệm vụ
thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết
thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hịa bình thống
nhất tổ quốc…”
Ngày 8-3-1965 Mĩ đưa qn lính thủy đánh bộ đổ bộ vào Đà Nẵng (tỉnh
Quảng Đà – khu V). Mở đầu kế hoạch, Mĩ đưa ồ ạt qân viễn chinh vào miền Nam
Việt Nam, triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Nghị quyết của thường vụ
tỉnh ủy Quảng Đà khẳng định quyết tâm: “Miền Nam chưa được giải phóng thì cịn
đánh, chiến tranh gì cũng đánh, đối tượng nào cũng đánh, địch đông bao nhiêu
cũng đánh, lâu bao nhiêu cũng đánh…”

Từ tháng 1 đến tháng 4-1966 Mĩ – Ngụy sử dụng 72 vạn quân cùng nhiều
phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc phản công chiến lược thứ nhất vào hai
chiến trường trọng điểm: miền Đông Nam Bộ và khu V, nhằm tiêu diệt một bộ
phận quân chủ lực của ta, phá căn cứ…, mở rộng và củng cố vùng chiếm đóng của
chúng. Nhưng chúng đã bị quân và dân ta ở Đông Nam Bộ và khu V đánh bại.
16


Thực hiện chỉ thị ngày 26-6-1966 của Thường vụ Trung ương cục, các Đảng
bộ ở miền Nam tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng động
viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nỗ lực vượt bậc, quyết chiến, quyết thắng
giành thắng lợi to lớn trong năm 1967. Công tác tư tưởng được đặt thành trọng tâm
hàng đầu, nhằm xây dựng “con người quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược
để cứu nước” phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
“Vì miền Nam ruột thịt” là ý chí và hành động của quân dân miền Bắc chi
viện hết sức mình cho cách mạng miền Nam. “Tìm Mĩ mà đánh”, “tìm ngụy mà
diệt” là ý chí và hành động của quân dân miền Nam chia lửa với miền Bắc, góp
phần bảo vệ miền Bắc. Công tác tuyên truyền đã nêu cao những hoạt động phối
hợp giữa quân dân cả nước: miền Nam gọi, miền Bắc trả lời, miền Bắc gọi, miền
Nam trả lời. Năm 1966 – 1967 hơn 5 vạn bộ đội và hàng vạn tấn vũ khí, phương
tiện chiến tranh được chuyển từ miền Bắc vào miền Nam.
Mùa khô 1966 – 1967, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng bẻ gãy cả ba
cuộc hành quân quy mô lớn của hơn 1 triệu quân Mĩ – ngụy. Phối hợp chiến đấu
với quân dân miền Nam, ngày 7-3-1967 pháo binh miền Bắc bất ngờ bắn phá vào
các vị trí địch ở bên kia sông Bến Hải, mở mặt trận mới, tiến công tuyến phòng
ngự đường 9 của địch, làm nức lòng quân dân cả nước và buộc địch phải bị động
đối phó. Mùa khơ năm 1967, Mĩ đánh giá chương trình bình định và phát triển
nơng thơn của Việt Nam Cộng hịa đã thất bại.
Tháng 6-1967, căn cứ những diễn biến thực tế trên chiến trường, Hội nghị
Bộ chính trị nhận định những thắng lợi to lớn, toàn diện mà quân và dân ta giành

được trên cả hai miền Nam, Bắc đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của Mĩ, đẩy chúng vào thế lúng túng và bị động cả về chiến
lược lẫn chiến dịch.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được mở ra đã thu hút sự
quan tâm đặc biệt của nhân dân trong nước và dư luận tiến bộ trên thế giới. Thắng
lợi của ta đã gây chấn động lớn trong chính giới và trong nhân dân Mĩ, bóc trần
17


những luận điệu lừa bịp lâu nay của chính quyền Mĩ đối với nhân dân nước họ, làm
bùng lên phong trào nhân dân Mĩ đòi giới cầm quyền Mĩ xem xét lại chính sách
tiến hành chiến tranh Việt Nam, địi chấm dứt sự dính líu của Mĩ trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam. Ngày 25-3-1968 Tổng thống Mĩ Giônxơn buộc phải thay đổi
chiến lược quân sự ở Việt Nam, chúng tăng cường quân ngụy để đối phó với ta,
giảm bớt sự dính líu trên bộ của Mĩ ở Nam Việt Nam, ngừng ném bom bắn phá
miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Song chúng vẫn tập trung đánh phá vùng khu IV cũ
rất ác liệt và mở các đợt phản kích ở miền Nam đẩy lực lượng của ta ra xa các đơ
thị và ráo riết tiến hành “Bình định cấp tốc” nhằm giành lại những vùng nông thôn
đã mất.
Sau Tết Mậu Thân “ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến cơng
vào đơ thị khi khơng cịn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây
cho ta nhiều khó khăn, tổn thất”. Tuy nhiên, “cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân (1968) vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng”.
Căn cứ những nhận định của Đảng, công tác tư tưởng đã nêu rõ ý nghĩa
thắng lợi, mà ý nghĩa lớn nhất là một đòn quyết định làm phá sản chiến lược
“chiến tranh cục bộ”, bước leo thang cao nhất của Mĩ trong chiến tranh xâm lược
Việt Nam, từ đó “làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ”, tạo nên bước
ngoặt mới của chiến tranh.
b. Động viên quân dân cả nước đánh bại những hành động chiến tranh

mới của Mĩ, đánh cho “Mĩ cút, ngụy nhào”, giải phóng hồn tồn miền Nam
(1969 – 1975)
Ngày 1-1-1969, nhân dịp năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc
chiến sĩ và đồng bào ta “năm mới đoàn kết, chiến đấu, thắng lợi”. Người kêu gọi
quân và dân ta:
“Vì độc lập, vì tự do,

18


Đánh cho Mĩ cút, đánh cho nhụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào
Bắc – Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!
Các hoạt động tư tưởng liên tục tuyên truyền rộng rãi thư chúc tết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức sinh động, động viên quân và dân cả nước
quyết tâm chiến đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam.
“Việt Nam hóa chiến tranh” là một chiến lược rất thâm độc của Mĩ nhằm sử
dụng sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại
giao sảo quyệt, nhằm giành thế mạnh, cơ lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của
nhân dân ta. Chúng rút quân nhỏ giọt, tập trung nỗ lực xây dựng quân ngụy để thay
thế quân Mĩ trong chiến đấu trên bộ ở Nam Việt Nam và lực lượng xung kích trên
tồn chiến trường Đơng Dương.
Vượt lên những khó khăn, gian khổ, hy sinh, xuân – hè năm 1969 quân dân
khu V và Nam Bộ đã đánh nhiều trận tiêu diệt địch, chống phá càn quét của địch ở
vùng nông thôn. Ở đô thị đã nổ ra một số cuộc đấu tranh lớn của công nhân như
cuộc đấu tranh của 30 vạn cơng nhân vận tải tồn miền Nam. Tháng 6-1969 Đại
hội đại biểu quân dân miền Nam họp và thành lập chính phủ cách mạng lâm thời
miền Nam Việt Nam. Đây là một thắng lợi quan trọng về chính trị và đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao của ta.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Đây là một tổn thất to lớn

của Đảng, nhân dân, và cách mạng Việt Nam. Các Đảng bộ tổ chức lễ tang Bác và
tiến hành công tác giáo dục tư tưởng, giữ vững niềm tin tất thắng vào sự lãnh đạo
của Đảng, biến đau thương thành hành động, kiên quyết đánh bại âm mưu mới của
địch, chống các luận điệu chiến tranh tâm lý của chúng.
Mùa thu năm 1969, Bộ chính trị chỉ đạo các chiến trường “chuyển hướng
hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch”. Sự chuyển hướng
trong chỉ đạo của Bộ chính trị phù hợp với yêu cầu bức xúc của tình hình, đã tác
19


động tích cực đến tư tưởng chỉ đạo của các cấp. Hội nghị lần thứ chín của trung
ương cục miền Nam (tháng 7-1969) xác định nhiệm vụ quam trọng nhất của mặt
trận nông thôn là phải: “giành dân, giành đất, phát triển thế và lực của ta”. Một số
đơn vị chủ lực được điều về phối hợp với địa phương đánh địch tạo điều kiện cho
cán bộ cơ sở bám trụ địa bàn, xây dựng lại cơ sở cách mạng, phát động chiến tranh
du kích, tạo thế đứng xen kẽ với địch. Cơng tác tư tưởng đã góp phần làm thấu suốt
chủ trương của Đảng, biểu dương những gương tốt bám trụ địa bàn, phổ biến kinh
nghiệm phá bình định có kết quả.
Đúng như dự đốn của Đảng ta, tháng 4-1970 và những tháng đầu năm
1971, Mĩ mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào nhằm chặn đứt hành lang
tiếp vận của ta từ Bắc vào Nam qua trung và Hạ Lào.
Căn cứ các Nghị quyết của Đảng, công tác tư tưởng đã giải thích rõ trong
Đảng, trong nhân dân và các lực lượng vũ trang về quan điểm Đông Dương là một
chiến trường, chỉ rõ âm mưu mới của Mĩ, giáo dục nâng cao tinh thần quốc tế vô
sản, sát cánh với nhân dân Lào và Campuchia chống đế quốc Mĩ và tay sai.
Nhân lúc địch phân tán lực lượng do mở rộng chiến tranh sang Lào,
Campuchia, quân và dân ta ở miền Nam tận dụng cơ hội đẩy mạnh các hoạt động
quân sự hỗ trợ cho phát triển chiến tranh du kích và nổi dậy của quần chúng phá kế
hoạch “bình định đặc biệt” của địch ở nhiều vùng nông thôn. Các khu căn cứ từng
bước được củng cố và bảo vệ, phong trào quần chúng ở nông thôn và cơ sở cách

mạng ở các đô thị dần dần được khôi phục.
Đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 của trung ương Đảng quyết định động
viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, anh dũng tiến lên, đẩy mạnh cuộc kháng chiến,
doàn kết với quân và dân Lào, Campuchia anh em, đánh bại chính sách “Việt Nam
hóa chiến tranh” của Mĩ. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 30-3-1972 cuộc
tiến công chiến lược mở đầu quyết liệt trên cả ba hướng chiến lược: Trị Thiên, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và thắng lợi lớn ở Quảng trị, Lộc Ninh, An Lộc. Các hoạt
động tưởng đã kịp thời tuyên truyền chiến thắng và phổ biến rộng rãi thư của
20



×