MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
C.Mác đã từng nói ông và Ăng – ghen không phải là người phát hiện
ra giai cấp và đấu tranh giai cấp, trước ông từ lâu các nhà sử học và kinh tế
học đã phân tích sâu sắc về giai cấp và đấu tranh giai cấp, công lao của ông là
ở chỗ khẳng định rằng cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống
lại giai cấp tư sản nhất định dẫn đến chuyên chính vô sản và nền chuyên chính
này là điều kiện cần thiết để quá độ lên một xã hội không còn giai cấp.Thế
nhưng quan điểm đó của C.Mác bị một số người hiểu lầm và bị kẻ thù xuyên
tạc. Họ ra sức chứng minh rằng C.Mác đã sai lầm ở chỗ khẳng định rằng, lịch
sử loài người từ khi xuất hiện đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp. họ cố tình
quên chú thích của C. Mác và Ph. Ăng - ghen nói rằng lịch sử – kể từ khi chế
độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã – là lịch sử đấu tranh giai cấp. họ ra
sức chứng minh rằng ngoài sự độc tôn đấu tranh giai cấp là động lực chính
của sự phát triển lịch sử, C. Mác và Ph. Ăng - ghen không còn biết động lực
nào khác, mặc dù trng thực tế hai ông để nhiều công cho việc phân tích vai trò
động lực của sự phát triển lực lượng sản xuất cũng như vai trò to lớn của sự
liên kết, hợp tác giữa người với người trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Họ cố tình làm cho người ta hiểu lầm rằng với C. Mác và Ph. Ăng - ghen đấu
tranh giai cấp chỉ là hành vi bạo lực của giai cấp này dùng để tieu diệt giai cấp
khác nhằm giành lấy chính quyền phục vụ cho quyền lợi riêng của giai cấp
mình và để kéo dài mãi mãi tình trạng phân chia giai cấp, xung đột giai cấp…
Không ít những kẻ thù đối địch với chủ nghĩa xã hội đã lợi dụng triệt để
những sai lầm, thiếu sót của các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực
hiện chính sách cải tạo giai cấp bóc lột… để phủ nhận học thuyết đấu tranh
giai cấp của C.Mác.
Trong tình hình đó, việc nghiên cứu với thái độ nghiêm túc nguyên lí về
đấu tranh giai cấp mà đặc biệt là nợi dung chính trị của cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và việc vận dụng sáng tạo nguyên lí đó vào điều kiện hiện nay là
một đòi hỏi bức bách.
Trong một số năm gần đây, ở nước ta vấn đề giai cấp và đấu tranh giai
cấp không được đề cập nhiều trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Điều
đó có nhiều lý do khác nhau, nhưng như vậy khơng có nghĩa vấn đề này đã
hết tính thời sự của nó. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi “các thế lực thù
địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ,
sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta” thì vấn đề lại có tính cấp thiết hơn bao giờ hết.
V.I.Lênin từng khẳng định: “Chủ nghĩa Mác đã cho ta cái kim chỉ nam để tìm
ra những quy luật trong tình trạng rối tung và hỗn độn bề ngồi ấy, đó là: lý
luận về đấu tranh giai cấp”
Xuất phát từ những lý do trên và đồng thời bản thân em hiện nay là
sinh viên đang theo học hệ cử nhân chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
thì việc nghiên cứu học thuyết về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân là
phù hợp với ngành học và cần thiết cho việc bổ sung, củng cố thêm kiến thức
của mình. Chính vì thế, em chọn đề tài: “Nợi dung chính trị của đấu tranh
giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội –
Lí luận và thực tiễn” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Lý luận về nợi dung chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã
được nhiều nhà nghiên cứu Mác- xít trong và ngồi nước quan tâm, thể hiện
trong nhiều cơng trình nghiên cứu, trong nhiều tài liệu khác nhau như: từ điển
chủ nghĩa cộng sản khoa học; giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học…cụ thể:
1
- Bài “ Nền dân chủ và hệ thống xã hội chủ nghĩa” – Giáo trình chủ
nghĩa xã hội khoa học – khoa chủ nghĩa xã hội khoa học – Học viện Báo chí
và tuyên truyền (2012).
- Bài “Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” – Đề cương bài giảng môn Cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị - Khoa chủ nghĩa xã hội khoa
học – Học viện Báo chí và Tuyên truyền. (2012)
- Một số vấn đề triết học Mác – Lênin với công cuộc đổi mới – Viện
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vụ đào tạo – Nxb
Chính trị q́c gia – 1995.
Trong các tài liệu này, việc nghiên cứu nội dung chính trị trong cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội chủ yếu hướng vào việc trình bày lí luận chung về
đấu tranh giai cấp của giai cấp cơng nhân sau đó đi sâu nghiên cứu về nợi
dung chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Việc làm này là cần thiết
và có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương hướng xây dựng, đổi
mới và kiện toàn hệ thớng chính trị, phát huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
Trong đề tài tiểu luận đã chọn, em tập trung phân tích những nội dung chính
trị của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân mà cụ thể là việc thiết
lập và sử dụng quyền lực nhà nước và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu các tác phẩm tiêu biểu của C. Mác và Ph. Ăng ghen, Lênin, Hồ Chí Minh tác giả nhằm làm rõ những nội dung chính trị của
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định ý nghĩa lý luận của nó đối
với nội dung phương hướng đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, phát huy
dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
2
Để đảm bảo cho mục đích của đề tài tiểu luận được thực hiện, nội dung
tiểu luận có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Lý luận chung về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hợi.
- Nợi dung chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Phương hướng đởi mới và kiện toàn hệ thớng chính trị, phát huy dân chủ
ở Việt Nam hiện nay.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Lý luận về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá
dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Nội dung của nó bao hàm rất nhiều vấn đề và được các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác và chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trong nhiều tác
phẩm và các cơng trình lý luận. Mỗi tác phẩm, thường chỉ đi sâu một hoặc
một số vấn đề thuộc về nội dung của lý luận. Vì lẽ đó, xuất phát từ yêu cầu
của tiểu luận, quỹ thời gian cho phép và trình độ năng lực của người viết cịn
có hạn chế nhất định nên bản tiểu luận chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung lý luận
chủ yếu ở những tác phẩm:
- “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” ( C. Mác và Ph. Ăng - ghen , 1848)
- “ Đấu tranh giai cấp ở Pháp” ( C.Mác; 1850)
- “Nhà nước và cách mạng”
(V.I. Lênin, 1917)
- “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xơ viết” (V.I.Lênin, 1918)
- “ Bản về chuyên chính vô sản” ( V.I. Lênin,)
- ….
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để đảm bảo cho nội dung đề tài được thể hiện đầy đủ và đảm bảo tính
khoa học, những phương pháp được sử dụng để thực hiện đề tài bao gồm các
phương pháp sau đây:
3
- Về phương pháp luận, đề tài quán triệt sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích nợi
dung chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Phương pháp cụ thể để thực hiện đề tài là: Phân tích - tổng hợp, so
sánh, lịch sử và một số phương pháp khác.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
4
Chương 1: Lí luận chung về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.1.Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản, theo C.Mác là giai cấp của
những người phải bán sức lao động để đổi lấy tiền lương và họ không phải là
chủ sở hữu của phương tiện sản xuất. Cũng theo C.Mác, giai cấp công nhân là
giai cấp tạo ra các giá trị thặng dư và sự giàu có cho xã hội. Ngày nay, đây là
giai cấp lao động sản xuất ra của cải vật chất trong lĩnh vực cơng nghiệp với
trình độ kỹ thật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ
làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và phát triển xã hội.
Giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay cịn được gọi là
giai cấp vơ sản. Trong tác phẩm "Những nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản”
Ph.Ăngghen định nghĩa:
“Giai cấp vơ sản là một giai cấp xã hội hồn tồn chỉ kiếm sống
bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của
bất cứ tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và
chết tồn bộ sự sống cịn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức
là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những
biến động của cuộc cạnh tranh khơng gì ngăn cản nổi”
Theo quan điểm của Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình
Quốc gia các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuốn
giáo trính chủ nghĩa xã hội khoa học đã định nghĩa: “Giai cấp công nhân là
một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với q trình phát
triển của nền cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ sản xuất; là lực lượng chủ yếu
của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các
5
nước tư bản, giai cấp công nhân là những người khơng có hoặc về cơ bản
khơng có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư
sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người
đã cùng nhân dân lao đông làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng
nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của tồn xã hội trong đó có lợi ích
chính đáng của bản thân họ.” [6,32]
Theo giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học của khoa Chủ nghĩa xã hội
khoa học- Học Viện Báo chí và Tuyên truyền , tập thể giảng viên của khoa đã
đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân như sau “giai cấp công nhân là giai
cấp những người lao động trong q trình sản xuất vật chất có tính chất cơng
nghiệp với trình độ cơng nghệ - kĩ thuật hiện đại, là giai cấp của những người
mà hoạt động lao động của họ sẽ tạo ra giá trị thặng dư - nguồn gốc chủ yếu
của sự giàu có trong xã hội hiện đại” [4,30].
1.1.2. Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
- Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có quyền lợi
trái ngược, thù địch nhau. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển
của xã hội có giai cấp đối kháng. C.Mác đã nêu lên một cách khái
quát rằng: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay
chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân trong chủ nghĩa tư bản là khái niệm của chủ nghĩa xã hội
khoa học dược dùng để chỉ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
trong sự liên minh với quần chúng không vô sản khác dưới sự lãnh
đạo của Đảng của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản và
các thế lực phản động khác đang nắm chính quyền nhà nước nhằm
đáp ứng những nhu cầu hàng ngày và chuẩn bị lực lượng để khi tình
thế và thời cơ cách mạng chín muồi thì phát động cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa để đập tan nhà nước chuyên chính vô sản, thiết lập
nhà nước chuyên chính vô sản và đưa đất nước vào thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. C.Mác đã khẳng định đấu tranh giai cấp tất
6
yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. Trong tác phẩm “ Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng - ghen đã làm sáng tỏ một
cách ngắn gọn, chính xác nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp nói
chung cũng như trong lòng chế độ tư bản nói riêng. Các ông khẳng
định rằng “toàn bộ lịch sử xã hội loài người, ngoại trừ chế độ cộng
sản nguyên thủy, là lịch sử đấu tranh giai cấp”, giữa các giai cấp áp
bức và giai cấp bị áp bức. Xuất phát từ các phân tích duy vật lịch sử
đối với sự phát triển xã hội từ khi phân chia thành giai cấp và có đối
kháng giai cấp các ông đã chỉ ra rằng, các cuộc đấu tranh giai cấp ấy
đều được kết thúc bằng cuộc cách mạng xã hội. Kết cục tất yếu của
các cuộc cách mạng xã hội ấy hoặc là “ bằng một cuộc cải tạo cách
mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu
tranh với nhau”.
Quan điểm trên đây có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về lí luận và
thực tiễn. Quan điểm này thể hiện rõ hai nội dung cơ bản. Thứ nhất, đấu tranh
giai cấp là đọng lực của sự phát triển của xã hội có phân chia giai cấp. Thứ
hai, nó mang lại ý nghĩa phương pháp luận quan trọng khi xem xét tiến trình
lịch sử nhân loại và cho sự phân tích chính xã hội tư bản hiện đại.
Cần nhớ rằng, những phát hiện trên đây về giai cấp và đấu tranh giai
cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội không phải do C. Mác và Ph.
Ăng - ghen thực hiện. Điều đó đã được thực hiện từ trước đó bởi các nhà sử
học và kinh tế học tư sản. Tuy nhiên các ông là những người đầu tiên kế thừa,
phát triển các quan niệm cơ bản ấy vào phân tích cụ thể cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội tư bản.
Các ông cũng chỉ ra rằng xã hội tư sản không những không thể thủ tiêu
giai cấp và đối kháng giai cấp mà trái lại, nó lại càng làm cho các mâu thuẫn
ấy thêm gay gắt và quyết liệt hơn. Xã hội ấy chỉ tạo ra những giai cấp mới,
những điều kiện mới và các hình thức mới của cuộc đấu tranh ấy mà thôi.
7
- Đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là khái niệm của chủ nghĩa xã
hội khoa học được dùng để chỉ cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân trong sự liên minh với quần chúng không vô sản khác dưới sự
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân và đã giành được chính
quyền nhà nước chống lại sự phản kháng của các giai cấp bóc lột,
phản động vừa bị lật đổ và được giai cấp tư sản quốc tế nhằm cải
tạo triệt để xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và góp
phần thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới.
1.2.
Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi phân tích tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội co
giai cấp nói chung, Ăng – ghen đã viết: “ Toàn bộ lịch sử đã qua, trừ trạng
thái nguyên thủy, đều là lịch sử của đấu tranh giai cấp; những giai cấp xã hội
đấu tranh với nhau ấy luôn luôn là những sản phẩm của những quan hệ sản
xuất và quan hệ được trao đổi. Tóm lại là những sản phẩm của quan hệ kinh
tế của thời đại của các giai cấp ấy, do cơ cấu kinh tế của xã hội luôn luôn là
cơ sở hiện thực mà xét đến cùng ta phải dựa váo mới giải thích được tất cả
thượng tần kiến trúc, chế độ pháp quyền và chế độ chính trị cúng như quan
niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác của mỗi thời kì lịch sử nhất
định”.[5;303]
1.2.1. Tính tất yếu chung của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi thiết lập chuyên chính vô sản, các giai cấp bóc lôt thống trị cũ
điên cuồng chống phá cách mạng hòng giành lại thiên đàng đã mất vì chúng
vẫn còn sức mạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự quản lí nhất định.
Từ sự phân tích những bài học thất bại của cuộc cách mạng vô sản Pari
(6 – 1848) và xu hướng phát triển khách quan của nó C.Mác đã chi ra tính
quy luật phát triển không ngừng của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô
8
sản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội – thời kì từ khi giai cấp vô sản
thiết lập được chuyên chính vô sản để tiến đến chủ nghĩa xã hội. Chỉ có thông
qua đấu tranh giai cấp mới “ xóa bỏ những khác biệt giai cấp nói chung” và
như vậy sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mới được thực hiện thắng lợi.
Nguyên nhân của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong thời kì
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã được các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác chỉ rõ khi phân tích mối quan hệ giữa “ cải biến cách mạng” với “
quá đợ chính trị” và “ chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. C.Mác
viết: “Giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kì cải biến
cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì ấy là mợt thời
kì quá đợ chính trị và nhà nước của thời kì ấy không thể là cái gì khác hơn là
nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.
Như vậy, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa xã hội với những phần, những mảnh của chúng đã tạo nên các
mặt đối lập, xung đột lẫn nhau. Chỉ thông qua cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản mới giải quyết được xung đột đó. Tuy nhiên theo chủ
nghĩa Mác – Lênin, xã hội quá độ – xã hội không còn là xã hội tư bản và chưa
hoàn toàn là xã hội chủ nghĩa, là xã hội trung gian giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội là một kết cấu lịch sử tất yếu. Trong xã hội đó, tất yếu diễn
ra quá trình cải tiến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, theo xu hướng tất
yếu là cái mới – chủ nghĩa xã hội sẽ ra đời chiến thắng cái cũ – chủ nghĩa tư
bản.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các giai cấp bóc lột thống trị
cũ còn mối quan hệ rộng lớn với các tầng lớp nhân dân lao động khác nên nó
lôi kéo họ vào cuộc chống phá chủ nghĩa xã hội vì tiểu tư sản có xu hướng tự
phát đi lên chủ nghĩa tư bản.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các tư tưởng, thói quen, tập
tục cũ lạc hậu và phản động vẫn tồn tại ngay trong một bộ phận các tầng lớp
nhân dân lao động và ngay cả trong giai cấp công nhân và thậm chí ở một số
9
đảng viên cơ hội. Vì vậy để xây dựng được chủ nghĩa xã hội cần phải xác lập
một trật tự xã hội mới theo kiểu của giai cấp vô sản và phải làm cho không
chỉ giai cấp tư sản mà còn làm cho toàn xã hội tuân theo trật tư đó. Khi nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của việc xây dựng tính tổ chức, tính kỉ luật trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Lênin đã chỉ rõ: “ Thực chất của chuyên
chính vô sản không phải chỉ là bạo lực, cũng không phải chủ yếu là bạo lực.
Thực chất chủ yếu của chuyên chính đó là ở tính tổ chức và tính kỉ luật cđội
ngũ tiên tiến của những người lao động, của đội ngũ tiên phong của họ, của
người lãnh đạo duy nhất của họ là giai cấp vô sản”.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các giai cấp bóc lột thống trị
cũ còn mối quan hệ quốc tế vốn có của nó nên nó liên minh với các thế lực
phản động quốc tế chống phá chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Lênin đặc biệt nhấn
mạnh đến tính quốc tế của sự nghiệp bảo về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay trong điều kiện toàn cầu hóa và xu hướng mở rộng quan hệ
hợp tác song phương đa phương giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau,
thì cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước đang quá độ lên chủ
nghĩa xã hội lại càng trở nên tất yếu và gay go hơn do dự khác nhau về chất
giữa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa đang nằm ngay trong thị trường quốc tế mà các nước xã hội chủ
nghĩa tham gia.
1.2.2. Biểu hiện cụ thể của tính tất yếu của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia khác
nhau
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp tư sản và giai cấp công nhân đã phát triển qua nhiều giai
đoạn trong suốt thời gian từ giữa thế kỉ XIX đến nay nhưng vẫn
chưa giành được thắng lợi quyết định để đưa đất nước bước vào thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên với phương pháp luận
khoa học, chủ nghĩa Mác – Lênin đã dự báo một cách có cơ sở rằng:
10
“sự thất bại của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản
là tất yếu như nhau”. Trong giai đoạn hiện nay, các Đảng Cộng sản
ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng từng bước vượt qua khủng hoảng
và đã tăng cường được vị thế của Đảng trong xã hội, có tiếng nói
quan trọng trên chính trường và hầu hết đều thống nhất quan điểm
tăng lên trong một trật tự thế giới mới mà trong đó các quốc gia đều
có quyền tự quyết, có tiếng nói cho công bằng và tiến bộ…Tuy
nhiên chưa Đảng nào có dược vị trí áp đảo trong dời sớng chính trị.
-
Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình khi bước vào thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
tư sản và giai cấp vô sản tất yếu phải xuất phát từ điều kiện lịch sử
cụ thể của đất nước mà trong đó chủ nghĩa tư bản mới phát triển ở
mức độ trung bình. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các
nước này, cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp
công nhân vừa phải chống các thế lực của giai cấp tư sản vừa phải
đấu tranh chống tính tự phát tư bản chủ nghĩa của bộ phận tiểu tư
sản còn khá đông. Cuộc đấu tranh cũng không kém phần lâu dài và
gian khổ. Khi phân tích điều kiện nước Nga trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Lênin nhấn mạnh rằng, nước Nga mừng vì chưa
cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhưng cũng khổ vì chưa có chủ
nghĩa tư bản phát triển đầy đủ. Điều đó tất yếu đòi hỏi cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân ở Nga
không chỉ đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp điện khí hóa toàn nước
Nga mà còn phải cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu và xây dựng nền
văn hóa vô sản trong điều kiện đa số nhân dân đang mù chữ.
- Ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa khi bước vào thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội tất yếu cũng diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa ha
giai cấp mới ra đời đại diện cho hai xu hướng, hai con đường phát
triển là: con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa.
11
Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai
cấp công nhân ở các nước tiền tư bản đang quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thể hiện ở yêu cầu khách quan
để bảo vệ và phát huy những thành quả cách mạng dân chhur tư sản
kiểu mới do giai cấp vô sản lãnh đạo; để đảm bảo thắng lợi cho con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, của dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự thắng lợi của sự nghiệp cải tạo
triệt để xã hội cũ (xã hội địa chủ phong kiến hoặc xã hội thuộc địa
nửa phụ thuộc nửa phong kiến) với trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội
lạc hậu và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong một thời kì
khó khăn, phức tạp và lâu dài trước sự chống phá của các loại kẻ thù
trong và ngoài nước.
Lênin đặc biệt quan tâm đến tính tất yếu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
những nước chưa đầy đủ đại công nghiệp và sự cần thiết phải học tập kinh
nghiệm và khả năng của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Từ đó, Người
yêu cầu giai cấp công nhân ở các nước này phải “ dùng cả hai tay mà lấy
những cái tốt của nước ngoài: chính quyền Xô – viết + trật tự ở đường sắt Phổ
+ kĩ thuật và cách tổ chức các Tơ – rớt ở Mỹ + nghành giáo dục quốc dân Mỹ
+ …+…+…..= ∑ = chủ nghĩa xã hội”.[23, 684]
12
Chương 2: Nợi dung chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
2.1. Thiết lập, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Nợi dung cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khái niệm của chủ nghĩa xã hội khoa học được
dùng để chỉ các mục tiêu đã đạt được, nhiệm vụ mà giai cấp cơng nhân cần
phải thực hiện trong q trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa. Đó là một cuộc đấu tranh cách mạng trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, là cuộc đấu tranh có nội dung toàn diện trên mọi lĩnh
vực của đời sớng xã hội: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa…
Về nợi dung chính trị cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tập trung thiết lập, xây dựng và
hoàn thiện hệ thớng chính trị xã hội chủ nghĩa, phát triển dân chủ, bảo vệ
vững chắc thành quả của chủ nghĩa xã hội và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…
Thiết lập, xây dựng và hoàn thiện hệ thớng chính trị xã hội chủ nghĩa
hay nói cách khác là thiết lập và sử dụng chính quyền nhà nước chính là nội
dung quan trọng nhất trong nợi dung chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp công nhân trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội.
2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thiết lập, xây dựng và hoàn
thiện hệ thớng chính trị xã hội chủ nghĩa
2.1.1.1. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng - ghen
Về xây dựng nhà nước của giai cấp công nhân, ngay từ năm 1845 –
1846, trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăng - ghen đã đề
cập tới, và vấn đề này còn được khẳng định trong nhiều tác phẩm sau đó.
Trong tác phẩm “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, các ông đã chỉ rõ bước
đầu tiên mà giai cấp công nhân sẽ thực hiện là phải trở thành giai cấp thống
trị. Đó là mục tiêu chính trị của cách mạng vơ sản trong giai đoạn giành chính
13
quyền. Bước thứ hai của tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là sử dụng ưu thế chính trị để từng bước thủ tiêu chế độ bóc lột tư
bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, biến nó
thành chế độ sở hữu xã hội đối với các tư liệu sản xuất đồng thời làm tăng
nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo lập, củng cố từng bước cơ sở
ra đời, củng cố chế độ xã hội mới.
Khi C. Mác và Ph. Ăng - ghen được chứng kiến cuộc đấu tranh giai
cấp đầu tiên của giai cấp vô sản vào năm 1848 – 1849, các ông càng thấy rõ
hơn quy luật về xây dựng nhà nước của giai cấp công nhân và lần đầu tiên
thuật ngữ “ chuyên chính của giai cấp công nhân” được sử dụng trong tác
phẩm “ Đấu tranh giai cấp ở Pháp”. Trước hết C.Mác đã chỉ rõ bản chất của
nền cộng hòa tư sản chính là cơng cụ là thể chế chính trị bảo vệ lợi ích của
giai cấp tư sản và đàn áp giai cấp vô sản. C.Mác chỉ rõ: “ Trước kia, nền
cộng hòa tháng Hai với những nhượng bộ của nó trước những người xã hội
chủ nghĩa đã cần đến cuộc chiến đấu của giai cấp vô sản liên minh với giai
cấp tư sản để chống lại nền dân chủ thì bây giờ cũng thế, cũng cần một cuộc
chiến đấu thứ hai nữa để cho nền cộng hòa thoát khỏi sự nhượng bộ trước
những người xã hội chủ nghĩa, để chính thức xác lập sự thống trị của nền
cộng hòa tư sản. Giai cấp tư sản cần phải cầm vũ khí trong tay để gạt bỏ mọi
yêu sách của giai cấp vô sản. và chính thất bại hồi tháng sáu chứ không phải
thắng lợi hồi tháng hai đã khai sinh nền cợng hòa tư sản”. [2; 42]
Từ tồn bộ thất bại cay đắng của cuộc khởi nghĩa tháng Sáu 1848 của
giai cấp vô sản và khởi nghĩa tháng Sáu 1849 của tầng lớp tiểu tư sản, và từ
bản chất bạo lực của giai cấp tư sản, C.Mác đã khẳng định tất yếu của chun
chính vơ sản. Ơng đã chỉ ra rằng: giai cấp vơ sản khơng thể giải phóng được
mình trong khn khổ nền cộng hịa tư sản. Vì vậy, giai cấp vô sản phải: “Lật
đổ giai cấp tư sản! Chun chính của giai cấp cơng nhân”.[2;47]
Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850”, C.Mác
không chỉ đơn thuần đưa ra và chính xác hóa thuật ngữ “chun chính vơ
14
sản”, mà là đi sâu nghiên cứu hơn nữa chính quyền vơ sản. C.Mác nhấn mạnh
rằng chính quyền đó phải là kết quả của quá trình cách mạng sâu sắc, phải là
một phương tiện và là một hình thức phát triển hơn nữa của q trình cách
mạng ấy. Ơng đã nêu một cách rất khoa học những nhiệm vụ cơ bản của
chun chính vơ sản trong cuộc cải tạo xã hội về mặt kinh tế trong tương
lai:”Chiếm hữu các tư liệu sản xuất, bắt chúng phải phục tùng giai cấp cơng
nhân liên hiệp. Do đó thủ tiêu lao động làm thuê, tư bản và mối quan hệ giữa
lao động làm th và tư bản”.[2;60.61] Chỉ có như vậy thì “quyền lao động”
của công nhân mới được thực hiện trên thực tế và mới có thể tiến tới xóa bỏ
mọi áp bức bóc lột.
Trong tác phẩm “Ngày 18 tháng sương mù của Louis Bonaparte”,
C.Mác phân tích q trình phát triển và khơng ngừng hồn thiện bộ mấy nhà
nước tư sản từ cuộc cách mạng tư sản 1789 qua các giai đoạn: 1793 – 1795 –
1815 – 1830 – 1848 – 1851. Qua đó, ơng rút ra kết luận rằng dù dưới hình
thức qn chủ hay dưới hình thức cộng hịa thì bản chất nhà nước tư sản vẫn
là một “chuyên chính tư sản”. Mác đã chỉ rõ bản chất của chế độ tư bản là gạt
bỏ nhân dân lao động ra khỏi chính quyền. Ơng chỉ rõ thái độ của tư sản đối
với nông dân là, “… số đại biểu của giai cấp tiểu tư sản ỏ nghị viện… bị gạt
ra rìa trong thời kỳ chun chính của phái cộng hịa tư sản” [3;182], C.Mác
cịn phân tích tính chất quan liêu ăn bám của nhà nước tư sản; nó sống như
một vật ký sinh trên cơ thể xã hội. Dù đó là nền cộng hịa lập hiến hay Qn
chủ thì nhà nước ở nước Pháp những năm cách mạng 1848 - 1851 đều là nhà
nước của thế lực giàu có và bóc lột trong xã hội. Vì vậy ơng viết: “Tất cả các
cuộc cáh mạng đã hồn bị bộ máy đó chứ khơng đập tan nó. Các chính đảng
nối gót nhau đấu tranh giành chính quyền, đều coi việc đoạt lấy lâu đài nhà
nước đồ sộ ấy là chiến lợi phẩm chủ yếu của thắng lợi của mình” [3; 263]
Để chuẩn bị cho giai cấp vơ sản có thể đập tan nhà nước tư sản, thiết
lập nền chun chính của mình trong tương lai như C.Mác và Ăng-ghen đã
nêu ra trong tác phẩm trước đó, trong tác phẩm này, C.Mác đã chỉ rõ dã tâm
15
và âm mưu của giai cấp tư sản nói chung và của Đảng trật tự, của Bơ-na-páctơ nói riêng đối với giai cấp vô sản và các giai cấp đồng minh của giai cấp vô
sản trong việc tổ chức bộ máy chính quyền. Chính Bơ-na-pác-tơ đã hứa hẹn
nhiều điều với cơng nhân và nơng dân để tỏ ra có sự quan tâm đối với họ
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của họ hoặc vơ hiệu hóa sự phản ứng của họ đối với
cuộc đảo chính do hắn ta tiém hành. Chính vì vậy, mà Mác thấy rằng giai cấp
vơ sản Pari không nổi dậy sau ngày 2 tháng Chạp là phù hợp, “Vì sự lật đổ
của giai cấp tư sản chỉ mới có trong pháp lệnh thơi và pháp lệnh đó lại chưa
được thi hành. Bất kỳ một cuộc khởi nghĩa trọng đại nào của giai cấp vô sản
cũng đều có thể làm cho giai cấp tư sản sống lại ngay, sẽ làm cho hịa hỗn
với qn đội và sẽ gây cho công nhân một thất bại tháng Sáu lần thứ hai
nữa.”[3; 260]
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” C.Mác và Ph.Ăng-ghen
mới đề cập một cách chung nhất rằng, nhà nước, tức là giai cấp vô sản được
tổ chức thành giai cấp thống trị và do đó, bước thứ nhất của cuộc cách mạng
công nhân là việc biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị và việc giành
lấy dân chủ. Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, tư tưởng “Chun
chính vơ sản” đã hình thành rõ rệt và theo lôgic tất nhiên sẽ dẫn đến kết luận
là phải đập tan, phá hủy bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị để thiết lập
chuyên chính vơ sản.
Vì vậy, trong tác phẩm “Ngày18 tháng sương mù của Lui Bô-na-pactơ”, nguyên lý đập tan nhà nước tư sản càng có cơ sở cho Mác khẳng định.
Nhưng C.Mác chưa nêu đập tan những phương tiên nào, lấy gì thay thế nó mà
mãi sau cơng xã Pari (1871) C.Mác mới có thực tiễn để tổng kết và rút ra
những kết luận trên những vấn đề đó trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”.
Về học thuyết chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân,
Mác nêu ra vấn đề giai cấp vô sản phải thủ tiêu bộ máy tư sản trong tiến trình
cách mạng như quân đội thường trực, cảnh sát, bộ máy quan liêu…vì nó đối
lập trực tiếp với bộ máy nhà nước mới. Sau khi bãi bỏ những công cụ vật chất
16
của chính phủ cũ, công xã phải bắt tay vào việc đập tan công cụ áp bức tinh
thần tức thế lực của các giáo sĩ và nhà thờ bằng cách tách giáo hội ra khỏi nhà
nước và tước đoạt những tài sản của nhà thờ, tách trường học khỏi nhà thờ…
Những cơ quan có chức năng xã hội hợp lý cần phải đoạt lấy và giao lại cho
xã hội gánh vác.
Đồng thời với việc thủ tiêu bộ máy nhà nước tư sản là việc thành lập
nhà nước vô sản. Bộ máy nhà nước mới cần thích ứng với mục đích của giai
cấp công nhân. Nhà nước vô sản do công xã xây dựng lên là một đoàn thể
công tác vừa lập pháp vừa hành pháp, bao gồm những đại biểu bầu ra trên cơ
sở phổ thông đầu phiếu. Đa số đại biểu là công nhân hoặc được công nhân
thừa nhận là đại biểu của mình. Những thành viên của chính phủ mới có thể
bị thay thế bất cứ lúc nào nếu tỏ ra không xứng đáng trong khi làm việc do
quyền bãi miễn của cử tri.
Công xã là một hình thức của chuyên chính vô sản nó đã tạo ra cái nền
tảng của những thiết chế thật sự dân chủ, là chế độ mới của nhân dân, tổ chức
đời sống xã hội vì lợi ích của nhân dân. Tính chất đặc biệt của nhà nước công
xã bắt nguồn từ mục đích kinh tế và xã hội do cách mạng đạt ra. Công xã là
một hình thức chính trị đã được tìm ra, có nhiệm vụ phải lật đổ cơ sở kinh tế
làm nảy sinh các giai cấp và sự thống trị giai cấp. Công xã là một hình thức
chính trị mà người ta có thể dùng đẻ thay thế bộ máy nhà nước tư sản đã bị
đập tan. Chức năng giai cấp cơ bản của nhà nước là bảo vệ phát triển phương
thức sản xuất do giai cấp thống trị đại diện. Nhà nước chỉ biến mất khi xã hội
không còn giai cấp đối kháng và giai cấp nói chung. Sự tiêu vong của nhà
nước là một vấn đề rất lâu dài, khi xã hội loài người bước vào chủ nghĩa cộng
sản.
Trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, bằng thực tế lịch sử C.Mác đã
nêu tư tưởng phải đập tan nhà nước tư sản. Đập tan nhà nước tư sản là điều
kiện tiên quyết để thiết lập chun chính vơ sản, là thắng lợi trên lĩnh vực
chính trị của cách mạng vô sản. Nhà nước tư sản đã phát triển đến mức hoàn
17
bị, khơng cịn vai trị tích cực. mà trở thành một sự chướng ngại cho sự phát
triển xã hội, nên tất yếu phải đập tan” Đế chế là hình thức hủ bại nhất đồng
thời cũng là hình thức cuối cùng của cải chính quyền nhà nước mà xã hội tư
sản vừa mới ra đời đã tạo ra làm phương tiện để tự giải thoát khỏi chế độ
phong kiến và xã hội tư sản được phát triển đầy đủ cuối cùng đã biến nhà
nước đó thành một cơng cụ để tư bản nơ dịch lao động”.
- Chun chính vơ sản ra đời là tất yếu để thay thế nhà nước tư sản
vừa bị đập tan. Chun chính vơ sản tất yếu phải tồn tại, vì đó là cơng cụ để
xóa bỏ chính ngay sự thống trị giai cấp, xóa bỏ nhà nước nói chung.
- C.Mác đã làm rõ bản chất và tính chất của nhà nước chun chính vơ
sản.
Cơng xã “trên thực chất nó là một chính phủ của giai cấp công nhân, là kết
quả của cuộc đấu tranh của những người sản xuất chống giai cấp chiếm hữu,
là hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được khiến cho có thể thực hiện được
việc giải phóng lao động về mặt kinh tế”.
Cơng xã thể hiện tính chất giai cấp cơng nhân, tính chất nhân dân và tính
chất quốc tế.
Về chức năng của nhà nước của giai cấp công nhân, trong tác phẩm.
C.Mác khơng trình bày cụ thể. Chỉ có thể thơng qua hoạt động của cơng xã
C.Mác đã nói tới 2 chức năng: Công xã đã tiến hành những nhiệm vụ thuộc
chức năng tổ xây dựng. Chức năng này được nhấn mạnh và là chức năng chủ
yếu của công xã. Chức năng bạo lực, trấn áp đề cập ít, vì đây là thiếu sót lớn
của cơng xã.
Về cơ cấu tổ chức của nhà nước chun chính vơ sản. Cơ cấu tổ chức
phải thể hiện tính chất cơng nhân, tính chất nhân dân, tính chất quốc tế. Cơ
cấu tổ chức này có đặc điểm là thể chế nhà nước tập trung quyền hành để
hành động; các cơng cụ của nó (cảnh sát, quân đội…) là công cụ của dân, do
dân, vì dân; các viên chức nhà nước phải là cơng nhân hoặc những đại biểu
18
được cơng nhân thừa nhận, có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào, lương ngang với
lương công nhân. Họ phải trở thành công bộc của nhân dân.
Ở tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, các ông cho rằng về bản
chất của nhà nước của giai cấp vô sản trong các giai đoạn phát triển của hình
thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, tất yếu còn tồn tại nhà
nước. Nhà nước của thời kỳ này xét về bản chất, khơng thể là gì khác ngồi
chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân.
- Sự ra đời của nhà nước ấy là kết quả của cuộc cách mạng vô sản do công
nhân lãnh đạo.
- Sự tồn tại của nhà nước ấy là nhằm thực hiện cải biến cách mạng thay thế
chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Nhà nước ấy có bản chất giai cấp công
nhân.
Sự củng cố phát triển của nhà nước chun chính vơ sản sẽ tự nó hồn
thiện để rồi đi đến nhà nước tự tiêu vong.
Một số chức năng xã hội chính trị sẽ dần mất đi, thay vào đó là một số
chức năng xã hội nào khác khơng có tính chính trị và dần dần nhà nước
ngun nghĩa sẽ trở nên khơng cịn cần thiết cho sự phát triển xã hội ở giai
đoạn cao.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình của sở hữu tư nhân và của
nhà nước” các ông cũng có nhiều luận điểm về xây dựng nhà nước của giai
cấp công nhân. Các ông cho rằng chức năng cơ bản của nhà nước là kiềm chế
những mâu thuẫn đối kháng giai cấp, giữ cho xung đột giai cấp ở trong vòng
trật tự của sự thống trị giai cấp- Nhà nước là công cụ bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị….Nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của
các giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành
giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm những phương tiện mới
để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức.
19